Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Mối quan hệ giữa quyền được khai sinh và quyền được nhận cha,mẹ,con sưu tầm và p...

Tài liệu Mối quan hệ giữa quyền được khai sinh và quyền được nhận cha,mẹ,con sưu tầm và phân tích 02 tình huống thực tiễn về vấn đề này. đưa ra bình luận, kiế

.DOC
11
96
55

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦẦU Dù cha mẹ nào đi nữa thì khi sinh con, cha mẹ phải có nghĩa vụ đăng ký khai sinh cho con. Việc đăng ký khai sinh là cơ sở để xác định quốc tịch của con và là điều kiện để con được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp được nhà nước bảo hộ (như quyền được học tập, quyền được chăm sóc y tế, quyền có tài sản...). Bên cạnh quyền được khai sinh thì quyền được nhận cha,mẹ,con cũng là một trong những quyền tồn tại song song cùng với quyền được khai sinh. Hai quyền này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau được pháp luật bảo vệ và quy định cụ thể trong hiến pháp 1992 và bộ luật dân sự năm 2005. Để làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm em xin chọn đề tài “ Mối quan hệ giữa quyền được khai sinh và quyền được nhận cha,mẹ,con? sưu tầm và phân tích 02 tình huống thực tiễn về vấn đề này. Đưa ra bình luận, kiến nghị của nhóm.” NỘI DUNG I.Cơ sở pháp lý vềề đăng kí khai sinh, quyềền nh ận cha m ẹ con 1.Khái niệm : Đăng kí khai sinh là biện pháp đầu tiên của quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch. Quyền đăng kí khai sinh là một trong những quyền nhân thân cơ bản của cá nhân, nó là nền tưởng để cá nhân có thể được hưởng các quyền và nghĩa vụ của công dân. Đăng kí khai sinh có thể hiểu một cách chung nhất là hoạt động của một chủ thể trong việc đăng kí khai sinh cho một đứa trẻ khi sinh ra theo quy định của pháp luật. Xác định cha, mẹ, con dưới góc độ sinh học-xã hội là việc nghiên cứu, tìm kiếm, nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thông qua sự kiện sinh đẻ. Dưới góc độ luật học thì xác định cha, mẹ, con là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tìm kiếm,nhận diện tư cách cha mẹ con về mặt huyết thống của các chủ thể được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.việc xác 1 định cha, mẹ, con dựa trên nguồn gốc huyết thống hoặc dựa trên căn cứ pháp lý. Quyền nhận cha mẹ con là quyền của cá nhân có quyền nhà cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mình là cha, mẹ, con của người đó. 2.Sự ghi nhận của pháp luật về quyềền khai sinh và quyềền nh ận cha, m ẹ, con và ý nghĩa : Quyền khai sinh của cá nhân được quy định tại điều 29 bộ luật dân sự 2005 và trong nghị định 68/2002/NĐ-CP của chính phủ. Theo đó cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh. Quyền khai sinh của cá nhân có ý nghĩ rất quan trọng đối với mỗi cá nhân. Nó là nền tảng để cá nhân được hưởng các quyền khác. Khi sinh ra nếu cá nhân không được khai sinh thì khi đến tuổi đi học không được đi học, không được hưởng các quyền khác như: Quyền bầu cử, Quyền ứng cử…Vì vậy mà quyền khai sinh có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền của trẻ em. Về phía nhà nước thực hiện quyền khai sinh giúp cho nhà nước theo dõi được sự biến động tự nhiên của dân số từ đó đề ra được chính sách phát triển kinh tế xã hội. Quyền nhận cha mẹ con được quy định tại điều 43 khoản 1 bộ luật dân sự 2005 theo đó cá nhân không được nhận là cha, mẹ, con của người khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mình là cha, mẹ, con của người đó. Quyền nhận cha mẹ con có ý nghĩa lớn đối với cá nhân trên thực tế có rất nhiều trường hợp vì một lý do nào đó như trốn tránh trách nhiệm mà cá nhân không nhận cha, mẹ, con của mình vì vậy để đảm bảo quyền lợi cho những người không được nhận là cha, mẹ, con này nhất là đối với trường hợp mà người này là trẻ em hoặc người già không nơi nương tựa thì điều này vô cùng có ý nghĩa. Nó xác định được ai là người có trách nhiệm nuôi dưỡng chăm lo cho họ. Thể hiện tính nhân văn sau sắc của pháp luật. 2 II. Phân tích tình huốống : 1.1 Vụ việc thứ 1 : Từ tháng 8 năm 2010 Anh Hoàng Tiến và chị Lê Qùnh Như chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn tại quâ ̣n 9 Thành phố Hồ Chí Minh. đầu năm 2011 chị Như có thai, khi thai k̀ ở vào gia đoạn sắp trào đời thì anh Tiến trong mô ̣t lần đi nhâ ̣u uống rượu say đã đánh chị Như rồi bỏ đi Gia Lai. Ngày 20/10/2011 chị Như chuyển dạ không có ai bên cạnh đưa chị đến cơ sở y tế, chị có gọi điê ̣n thoại cho chị Yến My là bạn của chị Như đến để giúp đỡ khi chị My đễn nơi thì không kịp để đưa chị Như đến cơ sở y tế vì thế chị Như đã sinh tại nhà và mô ̣t be gái trào đời. Sau khi chị Như sinh được 2 ngày thì anh Tiến trở về và có đi đăng ký khai sinh cho con nhưng chị Như không đồng ý cho anh Tiến được nhâ ̣n đứa be là con vì lúc chị đang đau đớn sinh đứa be thì anh đã bỏ mă ̣c chị. Khi chị Như đến UBND quâ ̣n 9 khai sinh cho cháu be thì cán bô ̣ Tư pháp - Hô ̣ tịch đã từ chối khai sinh với hai lý do: thứ nhất, không có giấy chứng sinh của cơ sở y tế sau đó chị như có đến trạm y tế xin cấp giấy chứng sinh nhưng không được cấp vì chị không sinh tại đó, thứ hai về phần người cha của đứa be đang có tranh chấp, chị Như không cho anh Tiến nhâ ̣n con và không được ghi tên vào phần thông tin người cha vì chị cho răng con chị sinh ra là con ngoài giá thú và chị có quyền không cho anh Tiến nhâ ̣n con. Vì lý do trên mà sau 2 tháng đứa trẻ sinh ra chưa được đăng ký khai sinh. Vâ ̣y giải quyết ra sao? 1.2 Phân tích, giải quyềốt vụ việc : Theo tình huống trên ta thấy có hai vấn đề cần giải quyết đó là quyền được khai sinh của đứa trẻ và quyền được nhâ ̣n con của anh Tiến. Trước tiên ta xet đến viê ̣c từ chối khai sinh của cán bô ̣ Tư pháp- Hô ̣ tịch. Viê ̣c từ chối khai sinh là sai vì đã vi phạm quy định của pháp luâ ̣t về quyền 3 nhân thân “quyền được khai sinh” quy định tại Điều 29 BLDS năm 2005 là cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh. Thứ nhất viê ̣c từ chối khai sinh do không có giấy chứng sinh là không đúng vì theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định 158/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hô ̣ tịch thì “…nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực…”. Trong trường hợp này chị Như sinh đứa trẻ ngoài cơ sở y tế nhưng dưới sự làm chứng của người bạn vì thế chị Như thay vì phải xuất trình giấy chứng sinh của cơ sở y tế thì sẽ xuất trình văn bản xác nhâ ̣n của chị Yến My là người làm chứng thì cán bô ̣ Tư pháp – Hô ̣ tịch phải chấp nhâ ̣n và đăng ký khai sinh cho đứa trẻ. Thứ hai là vấn đề anh Tiến nhâ ̣n con và không được chị Như đồng ý và chị Như không cho anh được ghi tên vào sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh của đứa trẻ. Theo quy định tại Điều 64 Luâ ̣t HN&GĐ quy định về xác định con như sau “người không được nhâ ̣n là cha, me của một người có thể yêu cầu Toà án xác định người đó là con mình”. Nhưng theo quy định tại Điều 65 thì chỉ quy định cho mô ̣t trường hợp là con đã thành niên nhâ ̣n cha hoă ̣c mẹ thì không nhất thiết phải có sự đồng ý của mẹ hoă ̣c cha. Như vâ ̣y, mă ̣c ta hiểu răng con chưa thành niên mà nhâ ̣n cha hoă ̣c mẹ thì phải có sự đồng ý của mẹ hoă ̣c cha (hoă ̣c là người đại diê ̣n theo pháp luâ ̣t nếu không có cha mẹ). Điều này cũng đã được quy định tại khoản 1 Điều 34 của Nghị định 158 “1. Người nhận cha, me, con phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Trong trường hợp cha hoặc me nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là me hoặc 4 cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.” Mă ̣t khác tại mục 6 chương II Nghị định 158/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hô ̣ tịch thì viê ̣c nhâ ̣n cha mẹ con phải đáp ứng điều kiê ̣n “ 1. Việc nhận cha, me, con theo quy định tại Mục này được thực hiện, nếu bên nhận, bên được nhận là cha, me, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, me, con và việc nhận cha, me, con là tự nguyện và không có tranh chấp. 2. Người con đã thành niên hoặc người giám hộ của người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cũng được làm thủ tục nhận cha, me theo quy định tại Mục này, trong trường hợp cha, me đã chết; nếu việc nhận cha, me là tự nguyện và không có tranh chấp.” Trong quy định trên có nhắc đến khái niê ̣m “tranh chấp”. Vâ ̣y “tranh chấp” ở đây ta nên hiểu như thế nào, tranh chấp là giữa những người cùng muốn nhâ ̣n là cha đứa be hay tranh chấp giữa cha và mẹ đứa be. Vân chưa có văn bản pháp luâ ̣t nào hướng dân cho điều này chính vì thế khi đi vào áp dụng và thực thi pháp luâ ̣t đã gă ̣p những khó khăn mà không giải quyết được Nếu vâ ̣y, trong trường hợp trên anh Tiến muốn nhâ ̣n đứa be để làm khai sinh cho con mình và được ghi tên mình vào phần người cha trong giấy khai sinh thì phải có sự đồng ý của người mẹ là chị Như chăng. Nếu giải quyết theo chiều hướng đó thì có hợp lý không khi đó chỉ là đứa trẻ mới sinh ra. Về vấn đề cha, mẹ nhâ ̣n con chưa thành niên thì pháp luâ ̣t lại chưa có mô ̣t quy định hướng dân cụ thể nào. Hơn nữa đây lại là mô ̣t trường hợp mà đứa trẻ là con ngoài giá thú thì viê ̣c ghi tên người cha vào giấy khai sinh là hoàn toàn được chấp nhâ ̣n vì nó ảnh hưởng rất lớn và sẽ theo suốt cả cuô ̣c đời đứa trẻ, thế nhưng bây giờ mẹ đứa trẻ không đồng ý thì sao. Theo ý kiến đóng góp để hoàn thiê ̣n của nhóm thì: sẽ giải quyết theo chiều hướng nên quy định cho người cha có quyền nhâ ̣n con khi con chưa thành 5 niên mà không cần có sự đồng ý của người mẹ nếu người cha chứng minh được mình là cha ruô ̣t của đứa trẻ. Bởi lý do: họ là cha con, họ có tình máu mủ, không có điều gì khiến họ không được nhâ ̣n nhau, nhâ ̣n sự yêu thương chăm sóc của nhau, hơn nữa trong tình huống này còn liên quan đến vấn đề khai sinh cho đứa trẻ thì điều đó có ảnh hưởng vô cùng lớn và theo suốt cuô ̣c đời đứa trẻ, nó sẽ là đứa trẻ có cha, có mẹ khi cha mẹ nhâ ̣n nó mà người còn lại không có quyền không đồng ý điều đó. Ví dụ trong trường hợp người cha mẹ nhâ ̣n con với mục đích bất chính thì người đang mẹ hoă ̣c cha có thể kiê ̣n với lý do là xâm hại quyền của đứa trẻ chứ không thể có mô ̣t lý do hớp lý nào khi lại có sự không đồng ý cho viê ̣c nhâ ̣n cha mẹ con. 2.1 Vụ việc thứ 2 : Năm 2005, anh A và Chị B học cùng 1 trường đại học ở Hà Nội . 2 người yêu nhau và quyết định sống với nhau như vợ chồng. Đến tháng 1/2009, khi sắp ra trường biết tin chị B có thai, trong thời gian này, anh A đang có tình cảm 1 người con gái khác và dọn ra ở riêng không sống chung với chị B. Thai của chị B to dần, chị đến tìm anh A nhưng anh A dù biết đó là con mình nhưng cố tình trốn tránh trách nhiệm và nói đứa con đó không phải của anh. Do xấu hổ chị B đã 1 mình bỏ đi đến xã Y, huyện Z, tỉnh Bắc Giang để sinh con một mình. Đến tháng 10/2009 chị sinh 1 be trai. Khi Chị B ra UBND xã làm khai sinh cho con, xã yêu cầu chị xuất trình giấy đăng kí kết hôn, chị B không có nên chị yêu cầu xã Y đăng kí khai sinh cho con ngoài giá thú, con mang họ của mẹ và không có tên người cha trong giấy khai sinh và đã được cán bộ xã chấp nhận Đến năm 2012, khi cháu be đã lớn, chị quyết định quay về thăm gia đình. Lúc này, chị gặp lại anh A, và biết anh đã lấy vợ. Tuy nhiên do hai người kết hôn mà không thể có con, mâu thuân nảy sinh nên đã ly hôn. Nay anh A đã ân hận, biết chị B dân con về nên đã đến để xin lỗi chị B đồng thời xin nhận lại con mình và đã được chị B đồng ý. Nay hai anh chị muốn nộp đơn ra UBND xã để xin nhận con. 6 2.2 Phân tích, giải quyềốt vụ việc : Điều 11 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định, trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch. Để đảm bảo quyền đăng ký khai sinh cho trẻ khoản 2 Điều 23 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định, UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em. Nhăm thực hiện nguyên tắc “mọi trẻ em sinh ra đều phải được đăng ký khai sinh đúng hạn”, đồng thời, xuất phát từ quan điểm đối xử bình đẳng về quyền đăng ký khai sinh không kể con sinh ra trong giá thú hay ngoài giá thú, thì theo khoản 1 Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo nghị định 06/2012/NĐ-CP quy định, người đi đăng ký khai sinh cho trẻ chỉ phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ trẻ khi cha mẹ trẻ có đăng ký kết hôn. Theo khoản 3 của Điều 15 nghị định này thì trong trường hợp trẻ là con sinh ngoài giá thú thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ, chỉ cần có Giấy chứng sinh là có thể khai sinh cho trẻ theo diện con ngoài giá thú. Mặt khác, khi đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú, pháp luật không cho phep cán bộ tư pháp - hộ tịch được gặng hỏi, tìm hiểu về quan hệ hôn nhân của người mẹ. Đây là vấn đề thuộc về bí mật đời tư của cá nhân. Do đó, khoản 3 Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo nghị định 06/2012/NĐ-CP quy định, trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh để trống. Khi con sinh ra, việc xác định họ cho con có thể xác định theo họ của người cha hoặc họ của người mẹ theo tập quán hoặc thoả thuận. Tuy nhiên, đối với trẻ là con ngoài giá thú, không xác định được người cha nên họ của trẻ đương nhiên sẽ được xác định theo họ của người mẹ. Về việc anh A muốn nhận lại con là hoàn toàn hợp lý, điều này giúp đứa trẻ có thể phát triển một cách toàn diện. Căn cứ theo Điều 34 Nghị Định 158/2005/NĐ-CP đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo nghị định 06/2012/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch thì thủ tục đăng ký việc nhận cha, mẹ, con được quy định như sau: 7 Người nhận cha, mẹ, con phải nộp tờ khai (theo mâu quy định). Trong trường hợp cha hoặc mẹ nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy trong trường hợp này cháu be mới 8 tuổi tức chưa thành niên, để có thể nhận con thì anh A phải được sự chấp thuận từ phía chị B. Bên cạnh đó, khi đăng kí nhận con ngoài tờ khai phải xuất trình các giấy tờ sau đây: Giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của người con; Các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con (trong trường hợp này có thể đi giám định ADN). Đồng thời nghị định này cũng quy định trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xet thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp, thì ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con. Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được keo dài thêm không quá 5 ngày. Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt, trừ trường hợp người được nhận là cha hoặc mẹ đã chết. Cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký việc nhận cha, mẹ, con và quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Bản sao quyết định được cấp theo yêu cầu của các bên. Thẩm quyền đăng ký việc nhận cha, mẹ, con (được quy định tại Điều 33 Nghị định 158/2005/NĐ-CP): Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con. Như vậy trong trường hợp này việc đăng kí nhận con có thể thực hiện tại UBND phường X, thành phố Bắc Giang hoặc UBND xã Y. Về việc bổ sung, cải chính sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh của người con được quy định tại Điều 35 Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo nghị định 06/2012/NĐ-CP. Như vậy việc bổ sung, cải chính sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh của người con sẽ được thực hiện tại UBND xã Y khi đã có quyết định công nhận việc nhận con. 8 III. Ý kiềốn của nhóm, bổ xung, hoàn thiện pl vềề quyềền đ ược khai sinh và quyềền được nhận cha, mẹ, con Thứ nhất : Từ tình huống thứ hai chúng ta đặt ra giả thiết nếu trẻ sinh ra là con ngoài giá thú mà không có giấy chứng sinh nếu như theo quy định của điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP thì trẻ em này có được khai sinh hay không? Đối với những trường hợp này do không có giấy chứng sinh tất cả chỉ dựa vào lời khai của người đi làm đăng ký khai sinh (mẹ đẻ hoặc ông, bà ngoại hoặc người thân thích) do vậy cán bộ tư pháp hộ tịch không có cơ sở để xác minh đứa trẻ là con đẻ hay là con nuôi. Nếu từ chối đăng ký khai sinh sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ, còn tiếp nhận đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú thì UBND cấp xã “rất lo sẽ bị kiện” hoặc vô tình trở thành người tiếp tay cho đối tượng mua bán trẻ em hợp pháp hoá giấy tờ Thứ hai: chúng tôi nhận thấy dù pháp luật chưa và không công nhận việc “đẻ thuê” thì tình trạng này vân xảy ra rất phổ biến. Đa số trường hợp đẻ thuê vì muốn giấu kín nên chọn phương thức tự sinh tại nhà. Đứa trẻ sinh xong tròn tuần thì sẽ giao cho “người mua”. Việc khai sinh cho trẻ em có một ý nghĩa quan trọng là xác lập quyền và nghĩa vụ giữa bố mẹ và con cái, vậy trong trường hợp này, mối quan hệ đó có còn vẹn nguyên ý nghĩa của nó? Ông bố, bà mẹ khi chọn cách “đẻ thuê” thường không muốn đăng ký nhận con theo cách nhận con nuôi, mà muốn hợp thức hóa hoàn toàn đứa trẻ là con họ. Trường hợp này trên thực tế và luật định vân còn “chênh” rõ rệt.. Đó cũng là những câu hỏi lớn khi chúng tôi làm đề tài này Thứ ba: trường hợp trẻ em sinh ra trong trại giam, không xác định được cha đứa trẻ là ai và không còn người thân thích thì ai sẽ đi đăng ký khai sinh cho đứa trẻ và đăng ký khai sinh ở đâu trong khi người mẹ không thể về địa phương nơi cư trú để đăng ký khai sinh vì đang thụ lý án phạt tù , hoặc đã bị xóa đăng ký thường trú theo luật cư trú. Thực tế có trường hợp cán bộ quản giáo đến UBND cấp xã nơi trại giam đóng trụ sở để đăng ký khai sinh cho đứa trẻ được 9 sinh ra trong trại giam và đã bị từ chối đăng ký khai sinh với lý do người mẹ không có hộ khẩu thường trú ở đây.ở trong giấy khai sinh có phần nơi sinh và phần ghi về người đi đăng ký khai sinh quan hệ với người được khai sinh trong Giấy khai sinh nếu ghi đúng nơi sinh là “trại giam …..” và người đi đăng ký khai sinh là “cán bộ quản giáo” thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đứa trẻ vô tội này. Đây là vấn đề mang tính nhân đạo, để giải quyết thấu đáo cần phải có quy định cụ thể, rõ ràng để những đứa trẻ không có tội vốn đã chịu rất nhiều thiệt thòi này có một cuộc sống bình đẳng Thứ tư, cần phải có hướng dân cụ thể hơn việc đăng ký khai sinh quá hạn, tại khoản 1 Điều 44 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định thì trong trường hợp người đã thành niên đăng ký khai sinh quá hạn cho mình, thì có thể đăng ký tại UBND cấp xã nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP hoặc tại UBND cấp xã nơi người đó cư trú. Nhưng vấn đề không phải chỉ ở việc đăng kí giấy khai sinh mà còn keo theo rất nhiều giấy tờ tùy thân, chứng chỉ, băng cấp,… liên quan đến chủ thể này. Cần phải có cơ chế thích hợp tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác minh về tính chính xác của việc người đó thực sự là đăng kí khai sinh quá hạn không hay là một mục đích nào khác. KẾẾT LUẬN Những vấn đề được đưa ra ở trên đây không phải là những vấn đề pháp lý phức tạp nhưng lại là vấn đề cần được quan tâm, lưu ý trong xã hội hiện nay, nhất là với những ông bố, bà mẹ trẻ nhiều khi chưa hiểu hết giá trị của việc đăng kí khai sinh cho con cũng như quyền và trách nhiệm của bậc làm cha mẹ khi nhận những đứa con của mình. Quyền được khai sinh và quyền được nhận cha, mẹ, con có mối quan hệ không thể tách rời. Qua việc tìm hiểu về đề tài trên mỗi công dân sẽ có nhận thực rõ ràng hơn và thấy được tầm quan trọng của việc đăng kí khai sinh cho con. 10 MỤC LỤC Contents LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................1 NỘI DUNG..........................................................................................................................1 I.Cơ sở pháp lý về đăng kí khai sinh, quyền nhận cha mẹ con..........................................1 1.Khái niệm :.......................................................................................................................1 2.Sự ghi nhận của pháp luật vê quyền khai sinh và quyền nhận cha, mẹ, con và ý nghĩa : 2 II. Phân tích tình huống :.....................................................................................................3 1.1 Vụ việc thứ 1 :...............................................................................................................3 1.2 Phân tích, giải quyết vụ việc :........................................................................................3 2.1 Vụ việc thứ 2 :..............................................................................................................6 2.2 Phân tích, giải quyết vụ việc :........................................................................................7 III. Ý kiến của nhóm, bổ xung, hoàn thiện pl về quyền được khai sinh và quyền được nhận cha, mẹ, con................................................................................................................9 KẾT LUẬN.......................................................................................................................10 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan