Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
Lời mở đầu
Thế giới ngày càng phát triển, con người ngày một tiến bộ và xã hội cũng đang
dần đổi mới. Nhìn lại chặn đường đã qua, chúng ta không thể không nhắc đến cả một
hệ thống các quy phạm đa dạng và phong phú mà nếu không có nó thì không biết xã
hội này như thế nào. Trong hệ thống quy phạm ấy, nổi bật là hai loại quy phạm đã góp
phần điều chỉnh phần lớn các hành vi của con người: Quy phạm pháp luật và quy phạm
tôn giáo.
Ở Việt Nam, trong sáu vấn đề cấp bách trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ "thực dân và phong kiến thực
hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương (*) để thống trị. Tôi đề nghị
Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết". Quan điểm đó của
Người đã được thừa hưởng và kế thừa xuyên suốt qua Hiến Pháp của Việt Nam. Ngoài
ra ở rất nhiều quốc gia một tôn giáo được coi là quốc giáo như: Cộng hòa Italia (Công
giáo chiếm 98% dân số), Vương quốc Arập-Xêút (Hồi giáo chiếm 100%) hay Vương
quốc Thái Lan (Phật giáo chiếm 95%). Từ đó có thể thấy được sự quan trọng của tôn
giáo đối với Nhà nước và Pháp luật.
Hoạt động tôn giáo ngày càng sôi động và đã trở thành một nhu cầu tinh thần
không thể thiếu của phần lớn con người. Nhiều tôn giáo đã được mở rộng ra toàn cầu
và ngày càng phổ biến như: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành… Việc phát triển
mạnh mẽ của tôn giáo đã củng cố niềm tin của giáo dân, góp một phần vào sự phát
triển ổn định của xã hội. Song song những tác động tích cực đó, tôn giáo cũng có nhiều
mặt hạn chế và tác động tiêu cực vì vậy vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận và tìm
hiểu. Trong phạm vi kiến thức của mình chúng tôi xin trình bày một số vấn đề cơ bản
về mối quan hệ phức tạp này trong tiểu luận “Mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo”.
( )
* Xem một số định nghĩa ở trang 3.
Trang 1
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐỐ VẤỐN ĐỀỀ CHUNG VỀỀ TIỂU LUẬN
1. Mục đích của tiểu luận:
-
Làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật, tôn giáo.
-
Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật vào tôn giáo.
-
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo trong tình hình
Việt Nam hiện nay.
2. Đóng góp của đề tài:
-
Làm sáng tỏ mối quan hệ, tác động giữa Pháp luật và Tôn giáo.
-
Đề xuất các quan điểm, kiến nghị nhằm hoàn chỉnh Pháp luật về Tôn giáo.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận này nghiên cứu chủ yếu mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo ở Việt
Nam. Ngoài ra còn có tham khảo tài liệu về quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo
của một số quốc gia khác.
4. Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung bài tiểu
luận gồm 3 chương, 16 mục.
5. Một số khái niệm mở đầu:
-
Tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh xã hội một cách hư ảo,
được một bộ phận quần chúng tin theo, tôn thờ theo những lễ nghi, lề luật chặt chẽ;
nó còn là một thực thể xã hội được xác định dựa trên các dấu hiệu: có giáo lý, giáo
luật, có hình thức tổ chức quản lý và hình thành cộng đồng tôn giáo, có cơ sở vật
chất nhất định.
-
Hoạt động tôn giáo: Hoạt động tôn giáo là những hoạt động cụ thể của tổ chức tôn
giáo và cá nhân tín đồ, chức sắc, nhà tu hành nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu
tôn giáo của cộng đồng và từng cá nhân.
Trang 2
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
-
Tín điều tôn giáo: Thường bao gồm những lí thuyết vê các đấng thiêng liêng, về
thế giới, về con người và các quy tắc, quy định về trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ
của những người theo tôn giáo đó, những nghi lễ, cách ứng xử cần thiết mà mỗi tín
đồ cần thực hiện trong đời sống đạo của mình.
-
Đồng bào Lương: Người Công Giáo hay gọi những người không phải Kitô Giáo
là Lương Dân.
-
Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho mọi người
do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước bảo đảm thực hiện, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị, là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ
xã hội.
-
Quy phạm pháp luật: là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để
thể hiện ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị, mang tính bắt buộc chung và
được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Trang 3
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
CHƯƠNG 2:
MỐỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ TỐN GIÁO
2.1.
So sánh pháp luật và tôn giáo
2.1.1.
Những điểm giống nhau giữa pháp luật và tôn giáo:
Tôn giáo và pháp luật đều sinh ra với tác dụng là những công cụ điều chỉnh
quan hệ xã hội, chúng đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi con người,
vì một xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
2.1.2.
Những điểm khác nhau giữa pháp luật và tôn giáo:
- Con đường hình thành của tôn giáo và pháp luật là khác nhau:
o Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua những trình tự thủ tục chặt
chẽ. Mỗi Nhà nước thường có những quy định về trình tự, thủ tục ban
hành pháp luật khác nhau và đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt của các tổ
chức, cá nhân tham gia. Pháp luật do Nhà nước ban hành dưới những
hình thức chuyên biệt nhất định như tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn
bản quy phạm pháp luật. Trong các Nhà nước đương đại, pháp luật tồn
tại chủ yếu dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật như Hiến
pháp, Luật…Về mặt cấu trúc, các quy phạm pháp luật còn được tập hợp
thành các hệ thống lớn nhỏ khác nhau như chế định pháp luật, ngành
luật, hệ thống luật pháp quốc gia.
o Sống giữa thiên nhiên diệu kì và khắc nghiệt, con người luôn mong
muốn hiểu biết về thiên nhiên, tìm cách khai thác thiên nhiên một cách
hiệu quả nhất. Song, không phải khi nào con người cũng hiểu biết được
hết về thiên nhiên nên đôi khi có một số lĩnh vực họ thần thánh hóa, linh
thiêng hóa thiên nhiên.Tuy vậy, không chịu khuất phục trước thiên nhiên
con người tìm cách lý giải, hóa giải những cái “thiêng” bằng tín ngưỡng,
tôn giáo là thờ cúng, hiến tế và cầu xin, thậm chí là chinh phục, sai khiến
Trang 4
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
những cái thiên đó. Dựa vào tôn giáo, con người tìm cách khống chế
những cái “thiêng” của tự nhiên, cậy nhờ những đấng linh thiêng để làm
lợi cho cuộc sống của con người, đồng thời cũng tự an ủi mình đối với
những đau khổ, khó khăn, sự bất lực của bản thân trước tự nhiên và xã
hội. Tôn giáo vì vậy mà được hình thành từ rất sớm và phát triển tới tận
ngày nay và vẫn sẽ tiếp tục phát triển một thời gian dài trong xã hội loài
người. Tôn giáo thường được thể hiện qua các cuốn kinh ví dụ như Kinh
Coran (Hồi Giáo); Kinh cầu siêu, Kinh Kim cang (Đạo Phật)…
- Pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp Nhà nước rất chặt chẽ,
chính xác và nghiêm minh, trong đó có các biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc như
tù có thời hạn, tù chung thân thậm chí tử hình. Trong khi đó, tín điều tôn giáo chỉ được
đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang tính xã hội như bị các tín đồ khác trong
giáo lên án, tẩy chay hoặc nặng nhất là khai trừ khỏi giáo hội. Sự trừng phạt trong pháp
luật luôn có giới hạn, các biện pháp và mức độ trừng phạt luôn được quy định chính
xác trong pháp luật. Sự trừng phạt sẽ chấm dứt ngay sau khi chủ thể bị trừng phạt chấp
hành xong hình phạt. Biện pháp trừng phạt trong tôn giáo thường ít khi được quy định
trước mà tùy thuộc vào chủ thể áp dụng. Mặc dù các biện pháp trừng phạt trong tôn
giáo ít nghiêm khắc hơn so với pháp luật; song, đôi khi lại có thể kéo dài vô tận. Ví dụ
như sự lo lắng về luật nhân quả trong đạo Phật, người gây ra tội lỗi thường lo sợ đến
một ngày nào đó họ sẽ phải trả giá cho những gì mình đã gây ra, vì thế họ luôn sống
trong sự dằn vặt, lo sợ. Đây có thể coi như là một biện pháp trừng phạt vô hạn.
- Các quy định của pháp luật thường chặt chẽ, chính xác và thống nhất hơn so với
tín điều tôn giáo. Các quy định của pháp luật luôn phải được nhận thức và thực hiện,
áp dụng chính xác, thống nhất trong phạm vi hiệu lực của nó. Sự chính xác đến từng
chi tiết, từng mô hình hành vi là đòi hỏi cần thiết của pháp luật trong xã hội văn minh.
Các quy định của tôn giáo trong nhiều trường hợp lại rất chung chung và không thống
nhất nên đôi khi sự đánh giá và phạm vi áp dụng có sự thay đổi tùy thuộc vào từng tình
huống cụ thể.
Trang 5
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
- Trong một đất nước chỉ tồn tại một hệ thống pháp luật duy nhất do Nhà nước
ban hành nhưng có thể tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau.
- Mục đích của pháp luật mang tính hiện thực, còn tôn giáo là ngoài mục đích
hiện thực, thường có lý tưởng cao xa hơn nhiều. Ví dụ: nghĩ về chốn thiên đàng, chuẩn
bị cho kiếp sau…
- Cách thức và cơ chế điều chỉnh của pháp luật và tôn giáo cũng có những điểm
khác nhau. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, hành vi con người bằng cách quy
định cho chủ thể tham gia các quan hệ đó các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Nói
cách khác là quy định những hành vi được phép, những hành vi bắt buộc và những
hành vi bị cấm đoán. Tôn giáo điều chỉnh hình vi của tín đồ của mình bằng cách quy
định nghĩa vụ, bổn phận của họ, xác định cho họ những hành vi nên làm, không nên
làm, cần phải làm, không được làm. Mặt khác, trong pháp luật, sự cho phép, bắt buộc
hay cấm đoán luôn được xác định rất rõ ràng. Để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối
với chủ thể, Nhà nước quy định các biện pháp cưỡng chế sẽ được áp dụng trong bộ
phận chế tài của quy phạm pháp luật. Ngược lại, hầu hết những nghĩa vụ, bổn phận của
tín đồ thường không mang tính xác định một cách chặt chẽ. Đó chỉ mới là những lời
răn của tín điều tôn giáo đối với tín đồ: nên, không nên hay cần phải, không được…
2.2.
Tác động qua lại giữa pháp luật và tôn giáo
Từ lâu, pháp luật và tôn giáo đã có mối quan hệ gắn bó, chúng tác động qua lại
lẫn nhau: Tích cực và tiêu cực. Phần sau đây sẽ làm rõ những tác động cụ thể đó.
2.2.1
Tác động tích cực
2.2.1.1.
Pháp luật tác động tích cực đến tôn giáo
- Thứ nhất: Pháp luật hướng tôn giáo theo con đường đúng đắn. Khi một tôn
giáo có các tư tưởng, quan niệm, giáo điều không phù hợp với xã hội hiện tại, gây cản
trở, kìm hãm sự phát triển, tác động xấu đến xã hội thì pháp luật sẽ, bằng các biện pháp
của mình, điều chỉnh hay loại bỏ.
- Thứ hai: Pháp luật tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển. Với những đặc điểm
riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương chính sách của Nhà
Trang 6
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
nước một cách nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả trên quy mô lớn. Ví dụ như: Điều 70
Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung 2001 đã quy định: “Công dân có
quyền tự đo tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp
luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự đo tín ngưỡng, tôn giáo…”. Đã góp phần tạo
điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, pháp
luật còn trừng trị những kẻ xâm hại đến lợi ích và bảo vệ quyền lợi của tôn giáo.
2.2.1.2.
Tôn giáo tác động tích cực đến pháp luật
- Thứ nhất: Tôn giáo giúp xây dựng pháp luật. Khi xã hội phát triển đến một giai
đoạn nhất định thì rất nhiều tín điều tôn giáo được “pháp luật hóa”, chúng trở thành
những quy phạm pháp luật được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Ví dụ
như:
o
Trong đạo thiên chúa có quy định về việc kết hôn “một vợ, một chồng”,
quy định này phù hợp với xã hội và được nâng lên thành luật trong Luật
Hôn nhân và gia đình của Việt Nam.
- Thứ hai: Tôn giáo giúp pháp luật phát triển và hoàn thiện. Trong quá trình phát
triển của tôn giáo, sẽ có lúc pháp luật dự báo trước được những nguy cơ tiềm tàn mà
tôn giáo đem đến hay phát hiện ra những kẽ hở, thiếu sót trong trong pháp luật hiện
hành. Sau đó, pháp luật sẽ tự điều chỉnh mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh, giảm
thiểu những ảnh hưởng xấu và từ đó hoàn thiện mình hơn.
- Thứ ba: Tôn giáo san sẻ một phần gánh nặng cho pháp luật.
o Hầu hết các tôn giáo đều có các giáo lý, giáo điều luôn khuyên răn con
người trong thế giới trần gian này phải biết làm điều thiện, giúp đỡ người
khó khăn, tránh xa cái ác. Khi các giáo dân thực hiện theo các giáo lý đó
thì đã phần nào đã giúp xã hội ổn định và phát triển.
o Trong một số tôn giáo, cái chết chỉ là sự thay đổi về hình thái và địa
điểm sinh sống, điều này giúp con người giải thoát khỏi nỗi sợ lớn nhất –
Trang 7
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
cái chết, giúp họ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn, ít lo sợ và sống vui vẻ
hơn. Và xã hội sẽ bình yên hơn nếu mọi người đều sống mà không lo sợ
về cái chết (điều này thì pháp luật không làm được).
o Ngoài ra, do một số các tín điều tôn giáo đã được nâng thành luật nên chỉ
cần giáo dân nghe theo các tín điều tôn giáo đó thì cũng giống như họ
đang chấp hành pháp luật.
Từ các điều trên có thể thấy nhờ có tôn giáo mà công việc quản lý, kiểm soát xã
hội của pháp luật đã nhẹ đi phần nào.
2.2.2. Tác động tiêu cực:
Về cơ bản pháp luật không đối lập, không ngăn cấm, không loại trừ tín điều tôn
giáo, không tác động xấu đến tôn giáo. Trong quá trình phát triển của mình, đôi khi tôn
giáo có các tín điều, giáo lý hay hoạt động không phù hợp, ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe, danh dự, tính mạng của cá nhân hoặc trái với đạo đức, văn hóa, không phù hợp
với tiến bộ xã hội. Lúc đó pháp luật sẽ sẽ ngăn cấm, kìm hãm hoặc loại bỏ nó. Vì thế
trong phần này, chúng tôi sẽ không đề cập cập về vấn đề pháp luật tác động tiêu cực
đến tôn giáo.
Như đã trình bày ở trên, tôn giáo vẫn có những giáo lý gây ra không ít phiền
toái, tác hại cho mỗi người và xã hội. Chưa kể là một số người đã cố tình lợi dụng tôn
giáo để làm những điều xấu với mục đích vụ lợi vật chất hay chính trị, gây ra tổn hại
về tiền của, tâm lý, ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường hay nghiêm trọng hơn là sức
khỏe và tính mạng của con người. Phần sau đây sẽ chủ yếu trình bày những tác động
tiêu cực của các hoạt động tôn giáo trong phạm vi Việt Nam là chủ yếu.
- Thứ nhất: Vi phạm trong cách thức thành lập: Ở Việt Nam, những năm gần
đây, hoạt động tôn giáo diễn ra không chỉ diễn ra sôi nổi trong phạm vi toàn quốc mà
còn mở rộng quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài. Một số tôn giáo mới thâm
nhập vào Việt Nam; nhiều tổ chức và hội đoàn tôn giáo trong nước phục hồi, phát triển
mà không xin phép chính quyền. Các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam khi chưa được
Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân và cho phép hoạt động thì sẽ phải tan rã,
Trang 8
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
không được duy trì. Dù biết rằng hoạt động mà không xin phép như vậy là trái pháp
luật nhưng một số cá nhân, tổ chức vẫn cứ làm.
- Thứ hai: Một số lễ nghi tôn giáo vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Như đã biết,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, là nguồn giải tỏa những bức
xúc, ham muốn mà con người không hoặc chưa thể thực hiện được. Tôn giáo dựng lên
một đấng siêu nhiên có thể làm mọi thứ để mọi người có thể cầu xin giúp đỡ hay phù
hộ. Đương nhiên, cùng với những thỉnh cầu thì sẽ cần cúng tế hay hiến tế. Trong lịch
sử, đã ghi lại nhiều cuộc hiến tế của thổ dân Aztec. Và hiện nay một số ít các tôn giáo
ở các quốc gia nghèo khó, lạc hậu vẫn còn duy trì hành động “giết người” này chỉ để
“cầu mưa” hay “cầu mùa vụ”. Gần đây nhất là vụ hiến tế người hàng loạt ở Uganda,
đối tượng bị hiến tế chủ yếu là trẻ em. Họ hiến tế đơn giản vì họ tin rằng khi dâng cúng
máu và các bộ phận con người cho thần linh thì họ sẽ được “phù hộ” để nhanh chóng
trở nên giàu có. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, tác động đến quyền cơ bản của con
người mà không ai có thể xâm phạm: Quyền được sống.
- Thứ ba: Vi phạm trong lĩnh vực in ấn, xuất bản sách kinh tôn giáo. Ở nhiều
quốc gia trong đó có Việt Nam, số kinh sách, tài liệu, văn hóa phẩm tôn giáo dù được
nhập vào trong nước rất nhiều, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của tín đồ nhưng
việc in ấn xuất bản, nhập khẩu không xin phép vẫn tiếp tục diễn ra. Các ấn phẩm đó
không có xuất xứ, không có giấy phép rõ ràng (chủ yếu do photocopy), từ đó vi phạm
các luật và công ước về bản quyền.
- Thứ tư: Vi phạm trong xây, sửa nơi thờ tự. Hiện nay, ở một số địa phương của
Việt Nam việc sửa chữa, xây dựng mới nơi thờ tự (như: chùa, nhà thờ, tháp tôn giáo,
…) mà không xin phép hay làm không đúng nội dung xin phép vẫn diễn ra rất nhiều.
Mặc dù Điều 12 Nghị định số 26 của Chính phủ đã quy định: “Việc sửa chữa lớn làm
thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự
bi hoang phế, bị hủy hoại do chiến tranh, do thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở thờ tự;
việc xây dựng công trình thờ tự (nhà tượng, bia, đài, tháp và các công trình nhằm mục
đích thờ tụ) phải được phép của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Một số giáo hội cố
Trang 9
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
tình vi phạm, khi chính quyền phát hiện, giáo hội thường xin phạt hành chính để các
công trình xây dựng sai vẫn tồn tại, làm cho mọi chuyện như đã rồi. Nếu chính quyền
không chấp nhận thì họ dùng quần chúng tín đồ để gây sức ép, buộc chính quyền phải
đồng ý. Điều này không những vi phạm pháp luật về xây dựng mà còn tác động xấu
đến hành vi của giáo dân, vì họ sẽ nhìn từ hành vi của giáo hội mà thực hiện theo.
- Thứ năm: Hoạt động tôn giáo bị lợi dụng để chống phá Nhà nước. Ngày nay,
khi mà các hoạt động tôn giáo cũng đang toàn cầu hóa thì việc các thế lực thù địch sử
dụng tôn giáo như một công cụ hữu hiệu để chống phá một quốc gia là hết sức phổ
biến. Tôn giáo là một lĩnh vực khá nhạy cảm, có thể tạo ngòi nổ gây mất ổn định chính
trị, xã hội. Đơn cử như Việt Nam chúng ta. Các thế lực thù địch bên cạnh hoạt động
xuyên tạc chủ trương, chính sách tôn giáo của Nhà nước, còn tăng cường vu cáo Việt
Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền; ráo riết kích động, chỉ đạo các
thành phần cực đoan, phản động trong giáo hội chống đối, nhằm gây ra tình hình phức
tạp về an ninh, trật tự dẫn tới xung đột chính trị ở các vùng tôn giáo, tạo cớ quốc tế hóa
vấn đề tôn giáo để can thiệp, gây sức ép về kinh tế, chính trị - xã hội đối với đất nước.
Điển hình là vụ linh mục Vũ Thanh Cảnh, chánh xứ Hàm Long, Hà Nội đã ký đơn cho
số cầm đầu hội đoàn và nhiều giáo dân đi khiếu kiện đòi lại nhà nguyện Fatima 193 Bà
Triệu. Hay ở Nghệ An giáo hội đã huy động hội viên các đoàn hội, đặc biệt là hội phụ
nữ tập trung nằm lỳ hàng tháng trời để chiếm giữ, đòi lại khu đất nhà thờ Cầu Rầm…
- Thứ sáu: Cá nhân, tổ chức lợi dụng niềm tin tôn giáo để trục lợi riêng. Một số
cá nhân, tổ chức lợi dụng sự thiếu hiểu biết của giáo dân để tuyên truyền mê tín, dị
đoan. Từ đó, lừa đảo hoặc tước đoạt vật chất, trục lợi cho riêng mình. Ở Kon Tum đã
từng có một sự kiện được dựng lên để tuyên truyền mê tín dị đoan: “Đức Mẹ hiện
hình”. Tin đồn “Đức Mẹ” hiện hình và nhập vào một bà cô chữa được bách bệnh
nhanh chóng lan rộng. Vậy là mọi người đổ xô về để được “Đức Mẹ” chữa bệnh và tất
nhiên là phải có “phí”. Sau đó, công an vào cuộc điều tra thì phát hiện rằng đây là
“Đức Mẹ” giả và cũng không có chút kiến thức gì về khám chữa bệnh.
2.2.3.
Tác động khác:
Trang 10
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
Trong các trường hợp đặc biết, có sự mâu thuẫn giữa pháp luật và tín điều tôn
giáo trong việc giải quyết cùng một vấn đề thì các tín đồ, giáo dân và tổ chức tôn giáo
phải thực hiện theo pháp luật, nghĩa là, theo nguyên tắc thì luật phải có tính tối cao so
với các tín điều tôn giáo. Ở đây, pháp luật có tác động cưỡng chế đối với tôn giáo.
Ví dụ: Khi một cơ sở thờ tự nằm trong khu quy hoạch thì cũng phải chịu sự di
dời của cơ quan chính quyền.
2.2.4.
Vai trò của pháp luật đối với tôn giáo:
-
Giúp thể chế hóa đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng.
-
Pháp luật là công cụ quan trọng để thực hiện sự quản lí của Nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo.
-
Là phương tiện bảo vệ các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và
hoạt động bình thường của các tôn giáo.
-
Là phương tiện đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm
an ninh quốc gia.
2.3.
Mức độ ảnh hưởng của tôn giáo đối với pháp luật
2.3.1.
Tại các quốc gia có một tôn giáo là quốc giáo:
Mức độ ảnh hưởng của tôn giáo đối với pháp luật là rất lớn. Pháp luật và tôn
giáo phát triển cùng nhau, thống nhất với nhau. Chẳng hạn trong kinh Coran ở các
nước theo đạo Hồi hoặc trong kinh Cựu Ước ở Israel, các tín điều tôn giáo thường có
vị trí như pháp luật hoặc có liên kết rất mật thiết với pháp luật. Cho nên, ở một mức độ
nào đó một số tín điều tôn giáo có sự thống nhất với pháp luật, tạo điều kiện để pháp
luật được thực hiện nghiêm chỉnh, nhất là đối với việc giáo dục, đòi hỏi con người phải
làm việc thiện, việc có ích cho cộng đồng và xã hội. Ở các quốc gia này, số người dân
tham gia vào quốc giáo là rất lớn vì thế chỉ cần các tín đồ tôn giáo tuân theo các giáo lý
thì cũng chính là họ đã tuân thủ pháp luật. Sau đây là bảng thống kê các quốc gia có
dân số đông tham gia vào quốc giáo: (Xem bảng trang sau)
Trang 11
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
Tôn giáo được xem
là quốc giáo
Phần trăm người dân tham
gia vào quốc giáo
Vương quốc Ảrập-Xêút
Hồi giáo
100%
Cộng hòa Hồi giáo Iran
Hồi giáo
99%
Nhà nước Hồi giáo Ápganixtan
Hồi giáo
99%
Cộng hòa Italia
Công giáo
95%
Vương quốc Thái Lan
Phật Giáo
95%
Vương quốc Campuchia
Phật Giáo
95%
Liên bang Mianma
Phật Giáo
89%
Cộng hòa dân chủ xã hội chủ
nghĩa Srilanca
Phật giáo
70%
Anh giáo(**)
57%
Tên quốc gia
Vương quốc Anh
(Nguồn: Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay –
Trần Minh Thư)
(**)
Trang 12
Anh giáo: được dùng để chỉ những giáo hội tuân giữ các truyền thống tôn giáo được
thiết lập và phát triển bởi Giáo hội Anh Quốc.
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
2.3.2.
Tại các quốc gia đa tôn giáo:
Ví dụ như: Việt Nam hiện nay là quốc gia có nhiều tôn giáo khác nhau và không
có tôn giáo nào chiếm vị trí độc tôn. Tuy là quốc gia có nhiều tôn giáo cùng tồn tại
song song với nhau nhưng mỗi tôn giáo vẫn có mức độ ảnh hưởng nhất định đối với
pháp luật. Vẫn có những tín điều tôn giáo được nâng lên thành luật nhưng ảnh hưởng
của tôn giáo đến sự hình thành của pháp luật không sâu sắc như các quốc gia được nêu
ở phần trên.
Nhìn chung thì pháp luật và tôn giáo có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng
hỗ trợ cho nhau cùng phát triển và hoàn thiện. Ở một phương diện nào đó, chúng đều
là những công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, có một số chức năng tương tự
nhau để duy trì, quản lí đời sống xã hội phục vụ mục đích chung của cộng đồng.
Đương nhiên chúng cũng có nhiều khác biệt. Song, vì lượng kiến thức còn hạn hẹp và
mối quan hệ giữa pháp luật, tôn giáo là khá phức tạp nên phần trình bày ở trên chỉ nêu
lên được một số vấn đề cơ bản nhất giữa tôn giáo và pháp luật mà thôi.
Trang 13
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀỀ HOẠT
ĐỘNG TỐN GIÁO TẠI VIỆT NAM
3.1.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải quán triệt và cụ thể hóa những
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về tôn giáo:
Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về
hoạt động tôn giáo. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định:
"Quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không phải bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực
hiện thống nhất trong cả nước. Tuân thủ theo pháp luật là chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng". Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn
giáo, cần quán triệt sâu sắc những quan điểm đổi mới của Đảng về tôn giáo. Cụ thể là
những quan điểm sau đây:
- Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đảng ta khẳng định: "Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân lao động" và "Tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu của một bộ phận nhân dân.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn giáo và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng. Chống
mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để
làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân". Việc xác định "tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân", có nghĩa là Đảng ta đã xác nhận sự
tồn tại của tôn giáo trong đời sống xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách kịp thời và thể chế hóa thành các văn bản
pháp luật để bảo vệ và tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo.
Trang 14
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
- Thứ hai, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội
mới. Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, tôn giáo nào cũng có hai mặt tích cực
và tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện ở chỗ giáo lý tôn giáo răn, dạy tín đồ hướng thiện,
làm điều lành, tránh điều ác. Còn mặt tiêu cực thể hiện ở chỗ nó làm cho con người
sống an phận và chấp nhận, thậm chí hạn chế họ tham gia vào quá trình cải tạo, xây
dựng xã hội bằng các phương pháp cách mạng. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta đã khai
thác, phát huy những mặt tích cực vốn có của đạo đức tôn giáo phục vụ cho công cuộc
đổi mới và phát triển đất nước. Thừa nhận "đạo đức tôn giáo còn có nhiều điều phù
hợp với quá trình xây dựng xã hội mới", có nghĩa là thừa nhận vai trò tích cực nhất
định của tôn giáo với đời sống xã hội. Trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế
thị trường, nhiều vấn đề đạo đức xã hội đang bị xuống cấp nghiêm trọng thì những giá
trị nhân bản, đạo đức và văn hóa vốn có trong văn hóa, đạo đức của các tôn giáo có ý
nghĩa rất quan trọng, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, đạo đức tốt đẹp trong
đồng bào tôn giáo ở nước ta.
- Thứ ba, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử đối với công dân vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt
động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối trật tự công
cộng và xâm phạm an ninh quốc gia. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa IX) chỉ ra một cách sâu sắc và cụ thể: Đảng, Nhà nước nước thực
hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những
giá trị tích cực của truyền thống thờ, cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ
quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo.
Trang 15
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
3.2.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải là công cụ đảm bảo sự bình đẳng
giữa các tôn giáo:
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo cùng tồn tại, phát triển nên việc đối xử
bình đẳng với các tôn giáo có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đoàn kết đồng bào theo
đạo trong khối đại đoàn kết toàn dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các tôn giáo ở Việt Nam có quá trình hình thành, phát triển khác nhau, có tôn giáo nội
sinh (như đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo), có tôn giáo ngoại nhập (như Công giáo, đạo Tin
Lành, Phật giáo, Hồi giáo); mỗi tôn giáo đều có giáo lý, giáo luật và những lễ nghi thờ
cúng khác nhau, nhưng tất cả đều tồn tại đan xen, hòa đồng trên cùng một địa bàn dân
cư, không có sự kỳ thị và xung đột tôn giáo như ở một số quốc gia khác. Có thể lấy 2
đại lễ của Phật giáo và Thiên chúa giáo là Phật Đản và Noel làm ví dụ điển hình cho sự
hòa hợp giữa các tôn giáo ở Việt Nam. Không phân biệt là người có theo tôn giáo hay
không, cũng không hề có sự phân biệt giữa người dân theo các tôn giáo khác nhau. Tất
cả đều hòa hợp, giao lưu vui vẻ trong các lễ hội tôn giáo, họ coi đó như một dịp để
giao lưu văn hóa, học tập những nét đẹp của các tôn giáo khác, các bạn trẻ coi đó như
một dịp để vui chơi, hẹn hò… Có được kết quả đó là nhờ chủ trương đối xử bình đẳng
giữa các tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ đó phần nào ngăn chặn, hạn chế được âm
mưu lợi dụng tôn giáo chống phá Việt Nam. Thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta cho
thấy, nếu không có chính sách, pháp luật bình đẳng với các tôn giáo, thì chúng ta
không thể tập hợp được quần chúng tín đồ các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân và sẽ tạo kẽ hở để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo chống
phá ta quyết liệt hơn. Thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta cho thấy, nếu không có
chính sách, pháp luật bình đẳng với các tôn giáo, thì chúng ta không thể tập hợp được
quần chúng tín đồ các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân và sẽ tạo kẽ hở để các
thế lực thù địch thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá ta quyết liệt hơn.
Trang 16
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
3.3.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo vừa phải đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân; vừa là phương tiện đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo
xâm phạm an ninh quốc gia, bài trừ mê tín, giữ gìn thuần phong mỹ
tục của dân tộc:
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo là
một trong những quyền cơ bản của công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Quyền tự do đó được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, vì vậy là bất khả xâm
phạm. Đối với đồng bào là tín đồ các tôn giáo, quyền tự do đó bao hàm quyền được
hành đạo, quản đạo và truyền đạo. Các quyền này là một nhu cầu tinh thần của tín đồ,
chức sắc và nhà tu hành các tôn giáo. Song trên thực tế, ở một số địa phương vẫn còn có
hiện tượng ép buộc người dân bỏ đạo hoặc theo đạo. Sự vi phạm đó đã gây phản ứng bất
bình trong nhân dân, tạo sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng kích động chống đối. Vì vậy, phải tiếp
tục quán triệt quan điểm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo trong
xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo là rất cần thiết ở Việt Nam trong tình
hình hiện nay. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, pháp luật về
hoạt động tôn giáo phải được xây dựng trên tinh thần thực sự tôn trọng đức tin (niềm tin)
tôn giáo của tín đồ. Mỗi tín đồ đều có quyền tin vào những vị thần, vị thánh và thực hiện
những nghi lễ thờ cúng theo giáo lễ, giáo luật của tôn giáo mà họ theo. Đối với những hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng, hợp pháp của tín đồ và tổ chức tôn giáo cần phải
được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ; chống mọi tư tưởng đánh đồng hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo với hoạt động mê tín dị đoan, với hoạt động bị lợi dụng rồi gây khó khăn cho các
hoạt động tôn giáo chính đáng, hợp pháp. Phải giúp cho các hoạt động tôn giáo phát huy
được những mặt tích cực của mình thể hiện trong giáo lý, giáo lễ của tôn giáo. Tính hướng
thiện, từ bi, bác ái, vì con người... của tôn giáo phải khơi dậy trong ứng xử giữa mọi người
trong xã hội. Tạo điều kiện cho các tôn giáo tham gia cùng Nhà nước và xã hội giải quyết
những vấn đề của xã hội đang đặt ra, như vấn đề xã hội hóa giáo dục, y tế, cứu trợ thiên
Trang 17
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
tai... Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn phải giúp cho quần chúng tín đồ từng
bước xóa bỏ đức tin mù quáng, luật lệ khắt khe trong tôn giáo. Các chính sách, pháp luật
phải nhằm làm cho mọi người trong đó có đồng bào các tôn giáo có được cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, an toàn ngay trên trần thế, được phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh
thần trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì những niềm tin lệch lạc trong tôn
giáo mới có thể bị đẩy lùi, những luật lệ tôn giáo khắt khe trói buộc con người mới bị dỡ
bỏ. Tuyệt đối không dùng các biện pháp hành chính mệnh lệnh, sự trói buộc của pháp luật
để cản trở, can thiệp thô bạo vào niềm tin tôn giáo. Xuất phát từ tình hình trên đây, đòi
hỏi hệ thống pháp luật về hoạt động tôn giáo phải là công cụ sắc bén trong phòng ngừa,
đấu tranh với mọi hành động lợi dụng tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và hoạt động
xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam. Một nội dung nữa của quan điểm này đòi hỏi
trong quá trình xây dựng hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo phải nghiêm cấm
các hoạt động lợi dụng tôn giáo để hoạt động mê tín, dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ
tục của dân tộc. Mê tín, dị đoan là hoạt động xuất phát từ nhận thức mù quáng, trái với
giáo lý, giáo luật của các tôn giáo. Hoạt động này thường gây tâm lý hoang mang, tốn
kém tiền của, lãng phí thời gian và ảnh hưởng đến sức khỏe cho nhân dân. Thời gian
qua, các tôn giáo ở nước ta đều phục hồi phát triển mạnh mẽ, các hoạt động và lễ hội
của các tôn giáo diễn ra rất sôi động với nhiều hình thức, nội dung phong phú ở các nơi
thờ tự, góp phần đáp ứng nhu cầu của quần chúng tín đồ. Song bên cạnh đó, nhiều đối
tượng xấu đã lợi dụng tiến hành các hoạt động mê tín để trục lợi (như xem bói, lên
đồng, gọi hồn, chữa bệnh bằng phép lạ, sấm truyền những tin gây tâm lý hoang mang
trong quần chúng nhân dân...), phá hoại truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Vì vậy,
pháp luật về hoạt động tôn giáo của ta phải có những quy định ngăn cấm và xử lý
nghiêm với những người có hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để hoạt động mê tín,
phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Trang 18
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
3.4.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo vừa không can thiệp vào nội bộ tôn
giáo, vừa đảm bảo mọi hoạt động tôn giáo phải diễn ra trong khuôn
khổ pháp luật:
Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn
giáo là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước. Theo quan điểm cơ bản này, đối với
những tôn giáo đã được Nhà nước cho phép hoạt động, Nhà nước không chỉ bảo hộ, tôn
trọng mà còn không can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo. Nguyên tắc tôn trọng
và không can thiệp vào nội bộ tôn giáo ở đây phải được hiểu là Nhà nước tôn trọng và
không can thiệp vào công việc nội bộ hoàn toàn mang tính thuần túy tôn giáo, theo đúng
đường hướng hành đạo của giáo hội và không trái với quy định trong giáo lý, giáo luật và
giáo lễ của từng tôn giáo. Như vậy, để Nhà nước tôn trọng và không can thiệp vào công
việc nội bộ của mình thì các tôn giáo phải hoạt động tuân thủ pháp luật và đúng với giáo
lý, giáo luật. Nói cách khác, các tôn giáo phải hoạt động thuần túy tôn giáo, không được
núp dưới danh nghĩa tôn giáo để làm những việc phi tôn giáo, vi phạm pháp luật. Để đáp
ứng yêu cầu không can thiệp vào công việc nội bộ tôn giáo, đòi hỏi pháp luật không được
quy định điều chỉnh những vấn đề thuần túy thuộc nội bộ tôn giáo.
Theo quan điểm này, quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động
tôn giáo phải vừa thể hiện nguyên tắc Nhà nước tôn trọng và không can thiệp vào công
việc nội bộ của các tôn giáo; vừa thể hiện nguyên tắc Nhà nước phải điều chỉnh mọi
hoạt động tôn giáo theo hướng các hoạt động đó diễn ra trong khuôn khổ của pháp
luật. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa quy định của pháp luật và quy định của
giáo luật, thì vì lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc và vì lợi ích quốc gia do Nhà
nước là đại diện, Nhà nước yêu cầu và đòi hỏi các tôn giáo phải tuân thủ, chấp hành
theo quy định của pháp luật. Mọi người, mọi tổ chức phải sống và làm việc theo pháp
luật, kể cả trong lĩnh vực hoạt động tôn giáo.
Trang 19
Tiểu luận: Mốối quan hệ giữa Pháp luật và Tốn giáo
3.5.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải là công cụ xác định đúng đắn
mối quan hệ giữa Nhà nước với giáo hội, đề cao lợi ích của Tổ quốc,
dân tộc:
- Ở những quốc gia có tôn giáo phát triển, tất yếu sẽ xuất hiện mối quan hệ giữa
Nhà nước và giáo hội tôn giáo. Mối quan hệ này phụ thuộc vào những điều kiện chính
trị, kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ở mức độ khác nhau, Nhà nước điều chỉnh mối
quan hệ này theo hướng có lợi và phục vụ tốt nhất cho mục đích chính trị của mình.
- Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa Nhà nước và các giáo hội tôn giáo luôn luôn
được các Nhà nước phong kiến quan tâm điều chỉnh cho phù hợp với chính sách cai trị
của triều đại mình. Trong các triều đại phong kiến Lý, Trần, đạo Phật được coi là quốc
đạo, là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục,
kiến trúc, hội họa... Đến thời Hậu Lê và các triều đại phong kiến nhà Nguyễn, Nho
giáo được đề cao; ngược lại Công giáo bị cấm gắt gao và bị coi là tà giáo. Từ khi nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (1945), Nhà nước ta xác định rõ quyền tự do bình
đẳng giữa các tôn giáo; coi tôn giáo là một thực thể khách quan, tồn tại trong quốc gia,
đi cùng dân tộc và chịu sự quản lý của Nhà nước.
- Trước xu thế phục hồi, phát triển mạnh mẽ của tôn giáo hiện nay, ở một số nước
trên thế giới, tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào công việc nội bộ của các quốc
gia và giữ vai trò không nhỏ trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Còn tại Việt Nam, các tôn giáo đều phục hồi, phát triển nhanh chóng, các giáo hội đều
tìm cách hoạt động tách khỏi sự quản lý của Nhà nước; ở nhiều địa phương, hoạt động
truyền giáo được lồng ghép trong các hoạt động từ thiện nhân đạo.
- Từ thực tế trên cho thấy, trong quản lý Nhà nước với hoạt động tôn giáo ở Việt
Nam cần xác định rõ, mối quan hệ giữa Nhà nước với các giáo hội tôn giáo Việt Nam
Trang 20
- Xem thêm -