LỜI MỞI ĐẦU
Phát biểu khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III , Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói, lịch sử 30 năm đấu tranh của Đảng đã dạy cho chúng ta rằng: “Thấm
nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản
và của dân tộc; giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và sự đoàn kết nhất trí giữa
các Đảng cộng sản, giữa các nước trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa, đó là các
bảo đảm chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi”. Người khẳng định: “Đại hội lần
này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống
nhất nước nhà”. Người nhắc lại ý chí sắt đá giải phóng miền Nam của nhân dân cả
nước ta: “Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta,
chưa giải phóng được miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ-Diệm, thì nhân
dân ta vẫn chưa thể ăn ngon, ngủ yên”, và nhấn mạnh “Miền Bắc giàu mạnh là cơ
sở vững chắc của cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”. Đây cũng chính là tư
tưởng xuyên suốt và được cụ thể hoá thành hai nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn này, đó là : Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cách mạng dân chủ
nhân dân ở miền nam.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân chủ nhân dân
ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song hai cuộc cách mạng này không
độc lập với nhau mà giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, từng bước đi của cuộc
cách mạng sẽ ảnh hưởng tới thành quả của cuộc cách mạng kia. Với mục đích trau
dồi kiến thức cũng như tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa hai cuộc cách mạng
này, em xin được lựa chọn đề tài số 4 : “Mối quan hệ giữa cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền bắc với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam”.
Trong quá trình làm bài em đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu biết
vấn đề còn hạn chế nên bài viết khó thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất
mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô cũng như các bạn để
bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
I. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cuộc cách mạng dân chủ
nhân dân ở miền nam
1.1. Bối cảnh lịch sử của cách mạng việt nam sau tháng 7 – 1954
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng
lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên
phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song
miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị
chia làm hai miền.
ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh
kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã
rút khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút
khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ
còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ
đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và
căn cứ quân sự của Mỹ.
Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết,
ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ
bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố
không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ
chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên
làm Tổng thống.
Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở
các cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu
mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn
phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với
chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng
trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các
lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên
và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một
yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng
Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế
phát triển chung của thời đại. Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới
và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị
của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng đã từng bước hình thành.
1.2 Nhiệm vụ đặt ra cho nước ta sau tháng 7 – 1954
Phân tích tình hình đất nước ta tạm thời bị chia làm 2 miền, có hai chế độ
khác nhau, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đảng trong Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 xác định: “Nhiệm vụ cách mạng của nhân
dân ta trong giai đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết
đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa miền
Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết
thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông
Nam Á và thế giới”.
Đảng ta nhận định rằng nếu trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, việc kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống
phong kiến có tác dụng góp phần quyết định thắng lợi, thì trong thời kỳ mới,
việc kết hợp đúng đắn giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước cũng có tác dụng quyết định đến thắng lợi
của cách mạng miền Nam.
Đảng ta phải giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách mạng ở hai
miền trong lúc trên thế giới chưa có tiền lệ giải quyết thành công vấn đề này.
Đó cũng là vấn đề quan hệ giữa hoà bình và cách mạng nổi lên thành vấn đề
lý luận và thực tiễn nóng hổi, trong lúc chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc
đang làm cho tình hình thêm phức tạp.
Bên cạnh những khó khǎn, cách mạng Việt Nam cũng có nhiều thuận lợi cơ
bản: cách mạng nước ta đang ở thế thắng, phong trào giải phóng dân tộc đã
đánh đổ từng mảng lớn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc; lúc đó hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa đang là lực lượng hùng mạnh.
Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, với lợi
ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, Đảng ta đã từng bước giải quyết mối quan
hệ giữa cách mạng hai miền.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã quyết định
đường lối cách mạng chung của cả nước:
- "Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả
nước.
1.3. Thành quả đạt được sau hai cuộc cách mạng
Ở miền bắc, thực hiện đường lối chủ trương, chủ trương của đảng, sau 21 năm
nỗ lực phấn đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành
tựu đáng tự hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu được
hình thành. Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về
người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hoá, xã hội, y
tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất
nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.
Quân dân miền bắc đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
điển hình là chiến thắng lịch sử của trận “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời
Hà Nội cuối năm 1972.
Miên Bắc không chỉ chia lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành suất xắc
vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với
chiến trường miền Nam.
Ở miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của đảng, quân dân ta đã vượt
nên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các
chiến lược chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn 1954
– 1960 đã đánh bại “chiến tranh đơn phương” của Mỹ - Nguỵ, đưa cách mạng từ
thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công; giai đoạn 1961 – 1965 đã giữ vững và
phát triển thế tấn công, đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ; giai
đoạn 1965 – 1968 đã đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chư hầu,
buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta
tại pari; giai đoạn 1969 – 1975 đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
II. Mối quan hệ giữa hai cuộc cách mạng
Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến
lược khác nhau, song chúng có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng
thúc đẩy lẫn nhau và đều có một mục tiêu chung là thực hiện hoà bình thống
nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung là mâu thuẫn giữa nhân
dân ta với đế quốc Mỹ và tay sai của chúng. Để giải quyết mâu thuẫn chung,
mỗi miền Nam, Bắc, có nhiệm vụ chiến lược riêng và giữ những vị trí khác
nhau: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “nhiệm vụ
quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với
sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta”. Cách mạng miền Nam “có
tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất
nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước”. Thông qua thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp
phần thực hiện nhiệm vụ chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống
nhất đất nước.
Đường lối trên biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Lý
luận cũng như thực tiễn chứng minh đường lối tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng khác nhau ở hai miền là đúng đắn. Hai chiến lược đó chẳng
những không mâu thuẫn mà còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Quá trình chỉ đạo cách mạng ở hai miền cũng là quá trình Đảng ta cụ thể hoá
thêm tư tưởng chiến lược của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III.
Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
Đảng không chỉ cǎn cứ vào tình hình miền Bắc, mà còn cǎn cứ cả vào tình
hình miền Nam. Đảng đề ra những chủ trương chẳng những đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam, mà còn tranh thủ được
sự đồng tình ủng hộ của tầng lớp trên ở miền Nam có tinh thần dân tộc, mở
rộng mặt trận dân tộc giải phóng. Bằng công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội
ở miền Bắc, vừa bảo đảm đời sống cho nhân dân miền Bắc, vừa tǎng cường
lực lượng làm hậu thuẫn và chi viện cho cách mạng miền Nam.
Đảng lãnh đạo nhân dân miền Bắc phối hợp với nhân dân miền Nam đấu
tranh chống những thủ đoạn xâm lược, chiến tranh chống phá của đế quốc
Mỹ ở miền Nam và cả ở miền Bắc. Đồng thời giáo dục nhân dân miền Nam
nhận rõ vị trí quan trọng của cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam là: trực
tiếp làm thất bại mọi chính sách xâm lược và nô dịch của đế quốc Mỹ và góp
phần tích cực bảo vệ miền Bắc, bảo vệ cǎn cứ địa cách mạng của cả nước,
tạo điều kiện cho miền Bắc giữ được hoà bình để tiến hành thắng lợi sự
nghiệp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong khi đề ra nhiệm vụ, phương pháp cách mạng ở miền Nam cũng như
khi quyết định mở những trận quyết chiến chiến lược, Đảng phải cǎn cứ vào
tình hình miền Nam và cả tình hình miền Bắc, xem xét tác động của những
thắng lợi sẽ giành được có ảnh hưởng đối với miền Nam và cả đối với miền
Bắc.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng mọi mặt của miền Bắc sẽ được tǎng
cường nhanh chóng. Đảng có thể lãnh đạo nền kinh tế theo hướng giải quyết
khéo mâu thuẫn giữa sức người, sức của có hạn với yêu cầu ngày càng lớn
của sự nghiệp cách mạng của hai miền.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa có lực lượng vững mạnh mới đủ sức làm tròn
nhiệm vụ cǎn cứ địa của cả nước, đủ sức tự bảo vệ, đánh thắng hai cuộc
chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, có đủ điều kiện chi viện cho
cách mạng miền Nam, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước
Lào và Campuchia anh em. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam làm cho thế
và lực của cách mạng cả nước cũng như của miền Nam không ngừng tǎng
lên. Nhờ vậy, cách mạng miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của
cả nước để tiến công địch, đánh bại mọi chiến lược, chiến thuật của đế quốc
Mỹ và tay sai.
Kẻ địch cũng thấy được mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Chúng đánh
phá miền Bắc, đặc biệt là đánh vào các đường giao thông, các cơ sở kinh tế;
xuyên tạc và lu loa rằng miền Bắc "xâm lược miền Nam", v.v. chính là vì
chúng nhận rõ vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chúng phải đối phó
trong thế thua ở miền Nam. Đảng nhận định rằng, âm mưu và hành động phá
hoại miền Bắc của địch chỉ có thể chấm dứt chừng nào miền Nam được hoàn
toàn giải phóng. Nhờ nhận định đúng đắn đó, Đảng ta luôn luôn sáng suốt,
chủ động trong mọi tình huống.
Trong quá trình chỉ đạo cách mạng, Đảng đưa ra nhiều nhận định, trong đó
có hai nhận định thể hiện sâu sắc nhất việc Đảng nắm vững mối quan hệ
giữa cách mạng hai miền.
Một là, tháng 3-1964, trong Hội nghị chính trị đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã kêu gọi: "Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào
miền Nam ruột thịt".
Hai là, cuối nǎm 1965, khi quân viễn chinh Mỹ ồ ạt vào miền Nam, Nghị
quyết lần thứ 12 của Trung ương Đảng nêu cao quyết tâm giữ vững chiến
lược tiến công, giữ thế chủ động trên chiến trường và nhất là kiềm chế và
thắng địch ở miền Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho phép Đảng ta rút
ra những kết luận quan trọng:
- "Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của cả
hai chiến lược cách mạng được tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với
nhau".
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ quyết định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp
thống nhất nước nhà. Đảng khẳng định: "Không thể nào có thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, suốt mười sáu nǎm qua, luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm
vụ chiến lược". Dù có những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình chỉ đạo
thực hiện do hạn chế lịch sử, chúng ta vẫn thấy kết luận trên của Đảng là
thoả đáng.
Đảng cũng kết luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác
dụng quyết định trực tiếp đối với việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ
và tay sai.
Đi đôi với việc coi trọng củng cố và bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc, nhân
tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh, Đảng hết sức coi trọng
việc xây dựng và phát triển thực lực cách mạng ở miền Nam.
Nhờ đường lối cứu nước đúng đắn, tinh thần hy sinh anh dũng của đông đảo
cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng ta đã phát huy cao độ nghị lực chiến
đấu phi thường và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta, khai thác những tinh
hoa trong truyền thống bốn nghìn nǎm của dân tộc.
Từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng,
Đảng ta đã giải quyết sáng tạo một loạt vấn đề lớn như đẩy mạnh cách mạng
và bảo vệ hoà bình thế giới, ở khu vực và hoà bình tương đối ở ngay miền
Bắc; giữa tiến công và bảo vệ...; bác bỏ những quan điểm hữu khuynh và
phiêu lưu.
Đảng ta có khả nǎng và có điều kiện giải quyết vấn đề trên do đã từng hoạt
động trong những hoàn cảnh đặc biệt. "Một Đảng thống nhất lãnh đạo một
nước tạm thời bị chia cắt làm đôi, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược khác nhau, đó là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách
mạng nước ta từ tháng 7 nǎm 1954 đến tháng 5 nǎm 1975".
Cách mạng Việt Nam đã chứng minh một tư tưởng lớn của thời đại ngày nay
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau và bằng kinh
nghiệm của mình, cách mạng nước ta đã góp phần làm giàu thêm nội dung
kết luận trên.
Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bài học quan trọng
của Đảng. Đảng tiếp tục quán triệt bài học đó trong giai đoạn lịch sử mới.
- Xem thêm -