Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luật hình sự 1 nhóm 2 đề 3 a (28 tuổi) đã gọi điện rủ b (15 tuổi) cùng thực hiện...

Tài liệu Luật hình sự 1 nhóm 2 đề 3 a (28 tuổi) đã gọi điện rủ b (15 tuổi) cùng thực hiện hành vi bắt cóc em họ của a là c (5 tuổi) để đòi bố mẹ c phải trả 50

.DOCX
9
128
90

Mô tả:

ĐỀ BÀI Bài 4: A (28 tuổi) đã gọi điện rủ B (15 tuổi) cùng thực hiện hành vi bắt cóc em họ của A là C (5 tuổi) để đòi bố mẹ C phải trả 50 triệu đồng tiền chuộc. Hành vi của A và B bị xử lí về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 134 BLHS Câu hỏi: 1. Trên cơ sở khoản 3 Điều 8 hãy xác định hành vi phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm nào? (1 điểm) 2. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm mà A, B đã thực hiện. (1 điểm) 3. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao? (2 điểm) 4. Giả sử A vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây thương tích (Điều 104 BLHS), ra tù được 3 tháng lại thực hiện hành vi phạm tội trên thì trường hợp phạm tội của A được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? (3 điểm) BÀI LÀM 1. Trên cơ sở khoản 3 Điều 8 BLHS hãy xác định hành vi phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm nào? Trả lời: BLHS Việt Nam năm 1999 chia tội phạm thành bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Theo khoản 3 Điều 8 BLHS thì: “ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.” Tiêu chí để phân loại tội phạm là tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và mức cao nhất của khung hình phạt. Quay trở lại với tình huống trên, A (28 tuổi) đã gọi điện rủ B (15 tuổi) cùng thực hiện hành vi bắt cóc em họ của A là C (5 tuổi) để đòi bố mẹ của C phải trả 50 triệu đồng tiền chuộc. Đối với hành vi phạm tội của A và B như tình huống đề bài đưa ra ta thấy được rằng: Hành vi của A và B cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 134 BLHS. Cụ thể: A và B đã vi phạm điểm (đ) và điểm (h) của khoản 2 Điều 134 BLHS, đó là phạm tội đối với trẻ em (C 5 tuổi) và chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng (A và B bắt cóc C để đòi bố mẹ C phải trả 50 triệu đồng tiền chuộc). Theo khoản 2 Điều 134 thì khung hình phạt tù mà A và B sẽ phải nhận là từ năm năm đến mười hai năm. Từ những phân tích trên và dựa trên cơ sở khoản 3 Điều 8 BLHS, ta xác định được hành vi phạm tội của A và B trong tình huống này thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Vì hành vi phạm tội của A và B có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể so với trường hợp bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS và mức cao nhất của khung hình phạt mà A và B phải nhận là đến mười hai năm tù. 2. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm mà A, B đã thực hiện. Trả lời: a. Khách thể của tội phạm. "Khách thể của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”. ( Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập I, NXB CAND, Hà Nội, 2009 ) Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong khoản 1 Điều 8 BLHS: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của trật tự pháp luật XHCN". Như vậy, khách thể của tội phạm trong trường hợp này cần căn cứ vào tình tiết của vụ án. Trong tình huống mà đề bài đưa ra, A và B đã thực hiện hành vi bắt cóc C là em họ của A để đòi bố mẹ C phải trả 50 triệu đồng tiền chuộc. Hành vi của A và B đã xâm hại tới 2 quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Với việc bắt cóc C nhằm chiếm đoạt tài sản (Đòi tiền chuộc là 50 triệu đồng), A và B đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của C. Cùng với đó mục đích chính của việc bắt cóc C là để có thể đòi được tiền chuộc từ bố mẹ của C, A và B đã xâm hại đến quan hệ sở hữu của bố mẹ C, đã khiến cho tài sản của bố mẹ C bị biến dạng (Khi đưa tiền chuộc C thì bố mẹ C không còn sở hữu 50 triệu đồng là tài sản của chính họ nữa). Từ đó ta có thể khẳng định khách thể của tội phạm trong trường hợp này là: Quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. b. Đối tượng tác động của tội phạm " Đối tượng tác động của tội phạm được hiểu là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ "(Trường đại học luật HN, giáo trình luật hình sự VN, tập I, NXB công an nhân dân Hà Nội, 2009). Đối tượng tác động có thể là con người, các đối tượng vật chất hay nó là hoạt động bình thường của chủ thể. Sự gây thiệt hại cho khách thể ở hình thức cụ thể nào cũng luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của các đối tượng tác động - các bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội. Với việc A đã gọi điện rủ B cùng thực hiện hành vi bắt cóc em họ của A là C để làm con tin với mục đích đòi bố mẹ C phải trả 50 triệu đồng tiền chuộc đã làm biến đổi tình trạng bình thường của con người C và tài sản của bố mẹ C một cách trái pháp luật. Do đó ta có thể xác định đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp trên là: C và 50 triệu đồng tiền chuộc. 3. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao? Trả lời: Theo khoản 1 Điều 20 BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Như vậy trong vụ án trên có đồng phạm vì thỏa mãn các dấu hiệu của đồng phạm. Cụ thể: Thứ nhất, những dấu hiệu về mặt khách quan: - Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong tình huống trên được cùng thực hiện bởi hai người, đó là A và B, những người này đều có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm – đó là năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Cụ thể: A (28 tuổi) đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo như khoản 1 Điều 12 BLHS; B (15 tuổi) để có thể xem xét xem B có phải chịu TNHS không? Thì cần dựa vào khoản 2 Điều 12 BLHS và khoản 3 Điều 8 BLHS. Như đã phân loại tội phạm ở trên thì tội của B thuộc loại tội phạm rất nhiêm trọng và hành vi của B trong trường hợp này cũng là cố ý, căn cứ vào khoản 2 Điều 12 BLHS thì B phải chịu trách nhiệm hình sự trong tình huống này. Điều 12 BLHS quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2.Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.” - Cả A và B cùng thực hiện một tội phạm, đó là tội bắt cóc để nhẳm chiếm đoạt tài sản, được quy định tại Điều 134 BLHS. Trong đó, dựa trên khoản 2 Điều 20 BLHS thì ta xác định được cả A và B đều đóng vai trò là người thực hành. A và B đã cùng trực tiếp thực hiện việc bắt cóc C nhằm mục đích buộc bố mẹ C phải giao nộp tiền chuộc. Khoản 2 Điều 20 BLHS quy định: “Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đấy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”. Thứ hai, những dấu hiệu về mặt chủ quan: - Dấu hiệu lỗi: Tội phạm mà A và B cùng thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Về mặt lí trí, A và B đều thấy trước hành vi bắt cóc C (em họ của A) làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản của bố, mẹ C là trái pháp luật hình sự, nguy hiểm cho xã hội; A và B thấy trước hậu quả tác hại của hành vi bắt cóc là làm tổn hại đến quyền tự do thân thể của nạn nhân (C – em họ của A), thấy trước người thân thích của nạn nhân là bố, mẹ C phải mất một lượng tiền của nhất định (cụ thể trong tình huống trên là 50 triệu đồng) để chuộc lại C. Nhưng về mặt ý chí, cả A và B đều mong muốn thực hiện được hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của bố mẹ C. - Dấu hiệu mục đích: Cả A và B khi thực hiện hành vi phạm tội của mình đều cùng hướng tới một mục đích là bắt cóc C để nhằm đòi tiền chuộc của bố mẹ C. Từ những phân tích cụ thể trên, ta có thể kết luận trong vụ án trên có đồng phạm. 4. Giả sử A vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây thương tích (Điều 104 BLHS), ra tù được 3 tháng lại thực hiện hành vi phạm tội trên thì trường hợp phạm tội của A được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? Trả lời: Để xét xem trường hợp phạm tội của A được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm, trước hết ta phải hiểu như thế nào được coi là tái phạm và tái phạm nguy hiểm. Điều 49 BLHS hiện hành quy định tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau: “1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. 2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.” Trường hợp phạm tội của A là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm, nhóm xin được xác định như sau: Theo đề bài, giả sử là A vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây thương tích (Điều 104 BLHS), vì vậy dựa trên mức án A phải chấp hành là 7 năm tù và căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 8 BLHS về phân loại tội phạm, ta xác định được tội cố ý gây thương tích mà A đã thực hiện thuộc khoản 2 Điều 104 BLHS (tội phạm nghiêm trọng) hoặc thuộc khoản 3 Điều 104 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng). A vừa mới chấp hành xong 7 năm tù, mới ra tù được 3 tháng đã lại tiếp tục phạm tội. Căn cứ vào Điều 67 BLHS về cách tính thời hạn để xóa án tích và điểm c khoản 2 Điều 64 BLHS về việc đương nhiên được xóa án tích thì A sẽ được xóa án tích trong thời hạn là : “Năm năm trong trường hợp là hình phạt tù từ trên ba năm đến mười năm năm”. Từ đó, ta khẳng định được rằng, A chưa được xóa án tích. Trường hợp một, nếu tội phạm mà A vừa mới chấp hành xong (tội cố ý gây thương tích) thuộc khoản 2 Điều 104 BLHS; đồng thời căn cứ vào Điều 9 BLHS về cố ý phạm tội, khoản 1 Điều 49 BLHS, ta xác định được trường hợp phạm tội của A được coi là tái phạm vì đã thỏa mãn điều kiện đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý (A lại tiếp tục phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản: Khoản 2 Điều 134 BLHS). Trường hợp hai, nếu tội phạm mà A vừa mới chấp hành xong (tội cố ý gây thương tích) thuộc khoản 3 Điều 104 BLHS; căn cứ vào tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà A vừa thực hiện được quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS (theo Câu hỏi 1, ta đã xác định được hành vi phạm tội của A thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng); căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 49 BLHS về tái phạm, tái phạm nguy hiểm ta xác định được trường hợp phạm tội của A được coi là tái phạm nguy hiểm vì đã thỏa mãn điều kiện đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập I, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009; 2. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (Phần chung), Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2005; 3. Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình luật hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008; 4. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam (bình luận chuyên sâu), tập 2, Nxb. TPHCM, 2004 - 2006 5. Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007; 6. Bộ Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, 2009. 7. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 01/2000/NQHĐTP ngày 4/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS năm 1999. ĐỀ BÀI..................................................................................................................1 BÀI LÀM..............................................................................................................2 1. Trên cơ sở khoản 3 Điều 8 BLHS hãy xác định hành vi phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm nào?.........................................................................2 2. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm mà A, B đã thực hiện............................................................................................................3 a. Khách thể của tội phạm..................................................................................3 b. Đối tượng tác động của tội phạm...................................................................4 3. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao?....................................5 4. Giả sử A vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây thương tích (Điều 104 BLHS), ra tù được 3 tháng lại thực hiện hành vi phạm tội trên thì trường hợp phạm tội của A được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao?........................................................................................6 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan