Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luan van triet ly trong tho huu thinh dh hong duc thanh hoa...

Tài liệu Luan van triet ly trong tho huu thinh dh hong duc thanh hoa

.DOC
101
165
54

Mô tả:

1. Lí do chọn đề tài 1.1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã sản sinh ra một thế hệ nhà thơ tài hoa: Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy…. Trong thế hệ ấy, dẫu không phải là người xuất hiện và gây được ấn tượng sớm nhất, song bằng tài năng thực sự của mình, Hữu Thỉnh đã mạnh mẽ khẳng định được vị trí riêng trên thi đàn. Với một tiếng thơ mới mẻ, có trường độ cảm xúc mãnh liệt, có tính trí tuệ và tính khái quát cao, thơ Hữu Thỉnh đã đi
0 UBND TỈNH THANH HOÁ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC ______________________________ HOÀNG THỊ THU HÀ TÍNH TRIẾT LÝ TRONG THƠ HỮU THỈNH Chuyên ngành : VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60. 22. 01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS.LÊ THỊ HỒ QUANG THANH HOÁ, THÁNG 10/2015 1 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn: “Tính triết lý trong thơ Hữu Thỉnh”, tôi xin chân thành cảm ơn tập thể quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn, phòng Sau đại học trường Đại học Hồng Đức cùng đơn vị công tác, bạn bè đồng nghiệp, người thân đã động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Hồ Quang, người đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Tuy đã cố gắng rất nhiều, nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự thông cảm, đóng góp ý kiến từ phía các nhà khoa học, quý thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp. Trân trọng cảm ơn! Hồng Đức , tháng 10 năm 2015 Tác giả Hoàng Thị Thu Hà 2 NHÀ THƠ HỮU THỈNH 3 QUY ƯỚC VIẾT TẮT Nxb: Nhà xuất bản TP: Thành phố Tr: Trang Cách chú thích tài liệu trích dẫn: số thứ tự tài liệu đứng trước, số trang đứng sau. Ví dụ: [57, 14] nghĩa là số thứ tự của tài liệu trong mục Tài liệu tham khảo là 57, nhận định trích dẫn nằm ở trang 14 của tài liệu này. 4 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU......................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài........................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu........................................................................2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và văn bản khảo sát................................6 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................7 5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................7 6. Đóng góp của luận văn..............................................................................7 7. Cấu trúc của luận văn................................................................................7 Chương 1: HỮU THỈNH TRONG THẾ HỆ NHÀ THƠ CHỐNG MỸ..................................................................8 1.1. Khái lược đặc điểm của thế hệ nhà thơ chống Mỹ.................................8 1.1.1. Hoàn cảnh sống và cầm bút...............................................................8 1.1.2. Lứa tuổi, quan niệm sáng tạo..............................................................9 1.1.3. Những tác giả nổi bật........................................................................11 1.2. Hữu Thỉnh - một gương mặt xuất sắc của thế hệ thơ chống Mỹ.........15 1.2.1. Cuộc đời, con người..........................................................................15 1.2.2. Hành trình và thành tựu thơ Hữu Thỉnh...........................................16 1.3. Cơ sở tạo nên tính triết lý trong thơ Hữu Thỉnh..................................18 1.3.1. Bối cảnh xã hội, thời đại...................................................................18 1.3.2. Tạng chất tâm hồn và cá tính sáng tạo của nhà thơ.........................20 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRIẾT LÝ TRONG THƠ HỮU THỈNH........................................22 2.1. Những vấn đề nhận thức, triết lý trong thơ Hữu Thỉnh........................22 2.1.1. Về hoạt động sáng tạo thơ và vai trò người nghệ sỹ.........................22 2.1.2. Về chủ đề Chiến tranh, Đất nước, Nhân dân....................................28 2.1.3. Về chủ đề đời sống nhân sinh thế sự.................................................35 5 2.1.4. Về chủ đề tình yêu............................................................................41 2.2. Cái tôi triết lý - một hình tượng nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh.............46 2.2.1. Cái tôi tự ý thức cao độ.....................................................................47 2.2.2. Cái tôi luôn tìm kiếm ý nghĩa của đời sống.......................................51 2.2.3. Cái tôi ưa phân tích, lý giải và khái quát hóa vấn đề.......................55 Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TÍNH TRIẾT LÝ TRONG THƠ HỮU THỈNH....................................................................................59 3.1. Tính triết lý thể hiện qua ngôn ngữ......................................................59 3.1.1. Sử dụng đa dạng các biện pháp tu từ nhằm gia tăng tính triết lý.....59 3.1.2. Gia tăng hình thức phân tích, lập luận trong ngôn ngữ, hình ảnh...72 3.1.3. Xây dựng những biểu tượng thơ giàu tính khái quát........................75 3.2. Tính triết lý thể hiện qua cách tổ chức văn bản....................................80 3.2.1. Cách đặt nhan đề bài thơ.................................................................80 3.2.2. Cách mở đầu và kết thúc bài thơ.......................................................82 3.3. Tính triết lý thể hiện qua giọng điệu................................................84 3.3.1. Giọng suy ngẫm, ưu tư......................................................................84 3.3.2. Giọng khái quát, triết lý....................................................................88 KẾT LUẬN................................................................................................90 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................92 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã sản sinh ra một thế hệ nhà thơ tài hoa: Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy…. Trong thế hệ ấy, dẫu không phải là người xuất hiện và gây được ấn tượng sớm nhất, song bằng tài năng thực sự của mình, Hữu Thỉnh đã mạnh mẽ khẳng định được vị trí riêng trên thi đàn. Với một tiếng thơ mới mẻ, có trường độ cảm xúc mãnh liệt, có tính trí tuệ và tính khái quát cao, thơ Hữu Thỉnh đã đi sâu vào những vấn đề trung tâm của một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Thơ ông vì thế không bị hoà lẫn hay nhoè mờ đi trong dàn đồng ca chung của thế hệ. Cho đến nay Hữu Thỉnh vẫn hiện diện như một cây bút tiêu biểu nhất của thế hệ mình, một thế hệ nhà thơ bước ra từ chiến tranh, đã từng “làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, ghi lấy cả một thời hào hùng, bi tráng của dân tộc. 1.2. Tài năng của Hữu Thỉnh được khẳng định bởi một loạt các giải thưởng thơ. Đó là giải ba cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ (1972 - 1973), với bài Mùa xuân đi đón; giải A cuộc thi thơ trên báo Văn Nghệ với Chuyến đò đêm giáp ranh và trường ca Sức bền của đất (năm 1975-1976). Sau đó bốn năm (1980), ông lại giành giải Nhất cuộc thi thơ của Hội nhà văn cho trường ca Đường tới thành phố. Năm 1991, với bài Thưa thầy, tác giả đạt giải Nhất cuộc thi thơ do Bộ Đại học - Trung học chuyên nghiệp và Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức. Năm 1994, tập Trường ca biển đã mang lại cho ông giải thưởng xuất sắc của Bộ Quốc phòng. Tiếp đó, phải kể đến tập thơ Thư mùa đông, ông đã giành được vòng nguyệt quế Hồng Đức quang với giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 và giải thơ ASEAN của Hoàng gia Thái Lan năm 2 1999. Những giải thưởng ấy đã ghi nhận sức sáng tạo và những đóng góp của hồn thơ Hữu Thỉnh trong nền thi ca hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn mọi ánh hào quang của các cuộc thi là sức sống lâu bền của tác phẩm trong lòng người đọc. Trong những năm gần đây, thơ Hữu Thỉnh đã được đưa vào học trong chương trình Ngữ văn phổ thông, giới thiệu ra nước ngoài và được rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học đánh giá, công bố trên các báo chuyên ngành, được đông đảo công chúng yêu thơ đón đọc và thẩm bình. 1.3. Một trong những đặc điểm nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh là tính triết lí. Tìm hiểu tính triết lí trong thơ Hữu Thỉnh, vì vậy không những có thể giúp ta hiểu sâu thêm về tài năng và cá tính sáng tạo của một nhà thơ xuất sắc mà còn gợi mở nhiều vấn đề lí luận về xu hướng vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề này chưa được giới nghiên cứu, phê bình đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu. Với tất cả những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề Tính triết lí trong thơ Hữu Thỉnh làm đề tài nghiên cứu của luận văn. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Được biết đến lần đầu qua những vần thơ đăng ở báo Người giáo viên nhân dân năm 1962, nhưng mãi đến khi đạt giải thưởng thơ của Hội nhà Văn năm 1979 với trường ca Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh mới thực sự thu hút được sự quan tâm của bạn đọc và giới phê bình văn học. Cho đến nay số lượng bài viết về thơ Hữu Thỉnh đã lên tới con số hàng trăm. Ở đây, chúng tôi sẽ điểm qua nội dung cơ bản của một số bài viết có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ đã bàn về tính triết lý trong thơ Hữu Thỉnh như sau: “Triết lý trong thơ Hữu Thỉnh nhiều khi xuất phát từ những chi tiết rất nhỏ nhoi bình dị và nó được nảy sinh từ những suy ngẫm không ngừng về lẽ sống, về cách xử thế, về quan hệ 3 người, về cái cao cả mong manh đang bị bủa vây bởi cái thấp hèn, hung bạo” [7, 21]. Lý Hoài Thu, trong Một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến hiện đại (Tạp chí Sông Hương, số 142, tháng 12/2010) đã khẳng định: “Thơ Hữu Thỉnh có sự kết hợp giữa phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lý và độ xúc cảm tràn trào, giữa sự hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả năng viết những tác phẩm trường ca dài và thơ trữ tình ngắn...” [63, 51]. Trong Đường đời, đường thơ Hữu Thỉnh (Tạp chí Hội Nhà văn Hải Phòng 7/11/2013), Anh Chi đánh giá về thơ Hữu Thỉnh: “Thơ ấy, tất có được những xúc cảm lớn về Tổ quốc, về nhân dân, về biết bao người con đi suốt qua lửa máu và hi sinh. Thơ ấy, tất có được những suy tư về quê hương, đất nước, về tình yêu và lẽ sống. Thơ ấy viết về những giá trị lớn hơn cả thơ ca” [4, 21]. Thanh Thảo cũng chỉ ra được cái mạch ngầm thao túng hồn thơ Hữu Thỉnh và âm thầm chảy suốt trong đời thơ ông: “Mỗi nhà thơ đi qua cuộc đời này theo một lối riêng, và trong khi hướng về phía trước những nhà thơ cũng hướng về phía sau, về nơi từ đó mình ra đi. Hữu Thỉnh đã không quên nhìn về cái làng nghèo, mái tranh nghèo nhà mình, đã không quên cái gốc gác nông dân của mình. Và bây giờ, anh cũng không quên cái gốc lính của mình” [40, 32]. Trong chuyên luận Phong cách nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh của Nguyễn Thị Thanh Trà, tác giả đã chỉ rõ được mối quan hệ giữa chiều sâu triết lý và độ cảm xúc tràn đầy trong thơ Hữu Thỉnh: “Là người có vốn tri thức văn hóa dồi dào, được nhào luyện trong thực tế nóng bỏng của cuộc chiến đấu, được bồi dưỡng sâu sắc về mặt lý tưởng, Hữu Thỉnh bước vào cuộc chiến vừa có cái trẻ trung, hồn nhiên của tuổi trẻ lại vừa có cái già dặn, sâu lắng, suy tư của thế hệ đi sau, được thừa hưởng phẩm chất cách mạng của thế hệ đi trước. Điều này phần nào đã tạo nên một mạch thơ giàu trải nghiệm trong nhiều sáng tác”. Bên cạnh đó, 4 tác giả cũng chỉ ra được những thay đổi tế vi về những biểu hiện chất triết lý trong thơ Hữu Thỉnh: “Ở chặng sau chất triết lý trong thơ Hữu Thỉnh lại có sự thay đổi rõ rệt từ lối triết lý hóm hỉnh, bình dị hôm nào nay pha chút đắng đau, day dứt… chúng ta bắt gặp những suy tư, trầm lắng về thân phận con người”. Và quan trọng hơn tác giả đã tựa vào sự thay đổi đó để làm đòn bẩy cho một nhận xét mang tính khái quát: “Thơ Hữu Thỉnh luôn ẩn chứa giá trị mang tính hướng nội thể hiện cái nhìn sâu lắng trước cuộc đời dâu bể. Hữu Thỉnh luôn thành thật với chính mình để tạo nên những vần thơ tinh khôi vẹn nguyên cảm xúc, toát lên một thứ triết lý giàu mĩ cảm” [ 65, 50]. Ngoài chuyên luận nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Trà còn có những bài viết khác đề cập tới chất triết lý trong các tập thơ cụ thể của Hữu Thỉnh. Thiếu Mai, khi đọc Đường tới thành phố, đã cho rằng: “Thành công chủ yếu của Hữu Thỉnh cũng chính là thể hiện vừa sâu, vừa tinh, vừa khái quát, vừa tỉ mỉ chi li những tình cảm, những suy nghẫm của người chiến sỹ trong cuộc chiến đấu chống Mỹ. Cái vững của ngòi bút Hữu Thỉnh… miêu tả trực diện những tổn thất mà tác phẩm vẫn không chìm xuống trong không khí bi đát, trái lại vẫn thấy được xu thế tiến lên của cuộc chiến đấu… Hữu Thỉnh rất chú ý đến từng câu, chữ. Anh không bằng lòng với lối nói sáo mòn” [30, 12]. Cũng đọc Đường tới thành phố, Hoàng Điệp cho rằng “Trường ca Sức bền của đất đọng lại trong tâm trí của người đọc bởi những tâm sự, suy nghĩ, những trải nghiệm sâu sắc của chính tác giả [6, 3]. Trịnh Thanh Sơn đưa ra những cách hiểu của mình về tập Thư mùa đông như sau: “Có thể nói, cả 36 bài thơ trong Thư mùa đông là sự tiếp nối của một cô đơn dằng dặc”; “Thơ Hữu Thỉnh luôn tự dằn vặt và toàn những dấu hỏi. Anh khai thác tâm trạng bơ vơ ở nhiều cung bậc và nhiều khía cạnh có lúc làm người đọc phải rưng rưng nghẹn ngào”; và “Đằng sau nỗi chán chường và ngờ vực ấy, 5 ta nhận ra tấm lòng nhân hậu, đằm thắm yêu thương của người thi sĩ muốn níu kéo để được sẻ chia, đôi khi mất bình tĩnh đến thành hốt hoảng” [36, 26]. Đọc Thương lượng với thời gian, Trần Đăng có những khám phá bổ ích qua bài viết Nghe Hữu Thỉnh thương lượng với thơ. Tác giả cho rằng dòng chảy xuyên suốt tập thơ không gì khác hơn “sự tiếc nuối thời gian đã mất, hay đúng hơn là sự tự ý thức về cái hữu hạn của chính mình”. Qua tập thơ này, “Hữu Thỉnh gửi gắm cả một đời chiêm nghiệm của mình. Ở đó có sự tắc nghẹn với bao nỗi khổ tâm (…). Đó là quãng thời gian không phải sau chiến tranh, con người vừa thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của đạn bom chết chóc nên ùa vỡ mừng vui, sống tử tế với nhau hơn, nhân hậu với nhau hơn, mà là quãng thời gian của mấy mươi năm vật lộn với gian khó, trong đó có biết bao sự "phản thùng, thớ lợ", biết bao cặn lắng của những oan khuất. Cũng bàn về tập thơ ấy, Nguyễn Vũ Phượng Hoàng trong bài viết Gặp nhà thơ trong tập thương lượng với thời gian đã có những kiến giải riêng hết sức tinh tế: “Đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, nhân loại và thời gian đang trở về trong thơ hiện đại, không phải bằng con đường xưa của vĩnh cửu, mà là từ những giá trị và những dự cảm - cao thượng và đau khổ, kỳ vĩ và không hoàn hảo, đúng như nhân loại của thời mà chúng ta đang sống”. Tập thơ đã “phác thảo một tình trạng đáng buồn của hiện thực, thay vì tiếng thét, Thương lượng với thời gian đã đóng lên thập giá những miếng vá sống, với tinh thần và thanh điệu hiện đại” [20]. Điểm lại những bài viết về thơ Hữu Thỉnh, có thể thấy chủ yếu là những nhận xét đánh giá về một tập thơ hoặc một phương diện cụ thể nào đó trong sáng tác của ông. Cho đến nay, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu, khảo sát vấn đề Tính triết lí trong thơ Hữu Thỉnh. 6 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và văn bản khảo sát 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Tính triết lý trong thơ Hữu Thỉnh. 3.2. Là một phẩm chất nghệ thuật, tính triết lí thể hiện ở nhiều phương diện trong thế giới nghệ thuật thơ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ, chúng tôi giới hạn khảo sát ở hai phương diện cơ bản là tính triết lý nhìn trên phương diện nội dung (nhãn quan nghệ thuật, đề tài, chủ đề và hình tượng thơ) và tính triết lý nhìn trên phương diện hình thức (ngôn ngữ, kết cấu, giọng điệu). 3.3. Về văn bản khảo sát, chúng tôi tập trung vào các tác phẩm sau của tác giả Hữu Thỉnh: - Sức bền của đất (1977) - Đường tới thành phố (1980) - Thư mùa đông (1994) - Trường ca biển (1994) - Thương lượng với thời gian (2005) 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Như tên đề tài đã xác định, mục đích của đề tài là khảo sát, nghiên cứu một cách có hệ thống một phẩm chất nghệ thuật nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh là tính triết lí. 4.2. Với mục đích đó, luận văn hướng tới những nhiệm vụ cơ bản sau: - Tìm hiểu vị trí của Hữu Thỉnh trong thế hệ nhà thơ chống Mỹ - Tìm hiểu những vấn đề nhận thức và hình tượng triết lý trong thơ Hữu Thỉnh - Tìm hiểu nghệ thuật thể hiện tính triết lý trong thơ Hữu Thỉnh 7 5. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi lựa chọn một số phương pháp nghiên cứu như: khảo sát, thống kê, phân loại; cấu trúc, hệ thống; phân tích, tổng hợp; so sánh đối chiếu. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình tập trung tìm hiểu Tính triết lý trong thơ Hữu Thỉnh với tư cách một phẩm chất nghệ thuật tiêu biểu, góp phần làm sáng tỏ những giá trị độc đáo và dấu ấn tài năng, cá tính sáng tạo của Hữu Thỉnh trong thơ. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai trong ba chương: Chương 1: Hữu Thỉnh trong thế hệ nhà thơ chống Mỹ Chương 2: Những vấn đề nhận thức và hình tượng triết lý trong thơ Hữu Thỉnh Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tính triết lý trong thơ Hữu Thỉnh Chương 1 HỮU THỈNH TRONG THẾ HỆ NHÀ THƠ CHỐNG MỸ 1.1. Khái lược đặc điểm của thế hệ nhà thơ chống Mỹ 1.1.1. Hoàn cảnh sống và cầm bút Cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam là một trong những giai đoạn lịch sử cam go, căng thẳng, ác liệt đồng thời cũng ghi lại những trang hào hùng trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta. Cuộc chiến đặt dân tộc trước những tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Vận mệnh của đất nước đứng trước nguy cơ một mất một còn. Đây là cuộc kháng chiến mà các nhà văn vừa cầm súng chiến đấu vừa cầm bút ghi lại tinh thần yêu nước, lòng quả cảm, ý chí kiên cường và 8 sự hi sinh vô bờ bến của một dân tộc trên tuyến đầu chống Mỹ. Nhanh nhạy và kịp thời, thơ nóng bỏng tính thời sự, hừng hực tinh thần chiến đấu. Thơ ca, như một thứ vũ khí đã tham gia vào cuô ôc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Các thế hệ làm thơ cùng có mặt bên nhau trong trận tuyến đánh Mỹ. Hàng trăm nhà thơ, nhà văn trẻ trực tiếp cầm súng ra chiến trường và sáng tác như Nguyễn Thi, Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Lê Anh Xuân… và từ trong khói lửa, nhiều tác phẩm tiêu biểu đã ra đời: Những bức thư từ tuyến đầu Tổ Quốc của Anh Đức, Vầng trăng quầng lửa của nhà thơ Phạm Tiến Duật, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi… Từ sau 30/4/1975, đất nước thống nhất trong niềm vui khôn xiết của đôi bờ Nam Bắc, trong hạnh phúc của giấc mơ giải phóng miền Nam nay đã thành hiện thực. Giấc mơ ấy vẫn hằn in trong từng giấc ngủ của người dân nước Việt, để rồi ngày cả dân tộc bắt tay vào xây dựng lại đất nước tràn đầy tự hào. Tuy nhiên, thách thức đến với đất nước còn nhiều. Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976 - 1980 và 1981 - 1985), Việt Nam đạt được những thành quả nhất định trên cả hai phương diện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó khăn do mắc sai lầm trong chủ trương, chính sách chỉ đạo chiến lược phát triển đất nước. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội. Nhưng sức sống của một dân tộc bền bỉ lại một lần nữa đưa ta thoát khỏi khó khăn. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, Đảng và Nhà nước đã tiến hành công cuộc đổi mới. Công cuộc ấy là bước ngoặt lịch sử vĩ đại, làm thay da đổi thịt cả đất nước. Đó không chỉ là đổi mới trên đời sống xã hội, kinh tế mà còn đổi mới trên cả tư tưởng, văn hóa, văn nghệ. Nhiều vị lãnh đạo của đất nước như thủ tướng Phạm Văn Đồng, tổng bí thư Nguyễn Văn Linh,… đã tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy” cho văn nghệ. 9 Lúc đầu văn nghệ chỉ là những tiếng nói chung về sự hào hùng của một thời kì cách mạng, nay văn nghệ còn là tiếng nói về cuộc đời, về kiếp người. 1.1.2. Lứa tuổi, quan niệm sáng tạo Trong đội ngũ đông đảo hàng vạn thanh niên cầm súng đi vào chiến trường miền Nam, nhiều tài năng thơ trẻ đã được phát hiện. Đội ngũ này được tiếp tục bổ sung từ quần chúng yêu thơ. Quả thực, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khơi nguồn cảm hứng lớn cho thơ, lôi cuốn một lực lượng sáng tác đông đảo. Cũng giống như thế hệ các nhà thơ mới 30-45, thế hệ nhà thơ chống Mĩ cũng xuất hiện với lực lượng trẻ đầy nhiệt huyết. Lực lượng ấy đông đảo nhất từ đầu những năm 60, đem lại cho thơ sức sáng tạo mới, trẻ trung, trong sáng, gợi cảm, mà trong đó không ít tài năng đã sớm được chú ý và khẳng định. Họ mang đến cho nền thơ những tiếng nói sôi nổi, mới mẻ, duyên dáng. Tiếng thơ của họ trẻ trung mà luôn trăn trở, nghĩ suy đầy trách nhiệm về Tổ quốc, về dân tộc. Thơ họ đã ghi lại chân thực hình ảnh cuộc chiến và người lính với cảm hứng sử thi lãng mạn đầy hào hùng. Đáng quý hơn, thế hệ nhà thơ này đã nhận thức sâu sắc sứ mệnh lịch sử lớn lao của thế hệ mình, họ đã chọn con đường đi cho mình trong nhịp sống cuồn cuộn của dân tộc thời đánh Mỹ. Những nhà thơ chống Mĩ nhận thức một cách đúng đắn con đường đi của mình. Đó là vừa cầm súng chiến đấu, vừa cầm bút viết về đất nước. Làm thơ và đánh giặc là hai hành động đồng thời, trùng hợp, có liên quan đến nhau như một phản ứng “dây chuyền”, cái này thúc đẩy cái kia, cái kia tạo đà cho cái này thể hiện. Bằng quan niệm ấy, họ đã để lại những vần thơ đầy trân trọng, tự hào. Sau 1975, hiện thực đất nước bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ từ chiến tranh chuyển sang hòa bình. Có những chuyện hôm qua, các nhà thơ chống Mĩ chưa kịp nói đến, còn phải nhìn một cách phiến diện thì nay có điều kiện đề cập, 10 để nhìn lại, như mất mát của con người trong chiến tranh, quy luật nhân sinh trong xã hội,… Những điều này đòi hỏi các nhà thơ không thể mang những quan niệm cũ như trong thời chiến tranh, họ phải chuyển kịp với thời đại, phù hợp với hiện thực mới. Quan niệm sáng tạo từ ca ngợi xuôi chiều trong chiến tranh trở thành những quan niệm hết sức phức tạp, đa diện trong cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên, cái chung nhất vẫn là: nhìn thẳng vào hiện thực với tinh thần phê phán và cái nhìn đầy nhân văn. 1.1.3. Những tác giả nổi bật Thơ chống Mỹ thực sự là vũ khí tinh thần có sức mạnh to lớn trong việc khơi dậy lòng yêu nước, ý chí chiến đấu, niềm tin vào thắng lợi của mỗi người dân nước Việt. Thơ nhanh chóng nhập cuộc vào cuộc kháng chiến, có mặt ở vị trí chiến đấu của mình và thực hiện sứ mệnh cao cả trên mặt trận văn nghệ, là một vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng. Thơ trở thành tiếng nói chung của cả cộng đồng, phát ngôn cho ý chí, khát vọng, tình cảm chung rộng lớn và thống nhất của mọi người, của toàn dân tộc. Qua đó, hiê ôn thực đời sống chiến trường được tái hiện với tính chất ác liê ôt, dữ dô ôi, với những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến. Trên khung cảnh ấy, nổi bật hình ảnh của những người lính trẻ dũng cảm, lạc quan. Thơ chống Mỹ không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa thời đại, mà còn là một hiện tượng nghệ thuật lớn, đặc sắc, là một giai đoạn phát triển mạnh mẽ, có nhiều thành tựu xuất sắc trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Nó hàm chứa tính chất sử thi và cũng không thiếu chất trữ tình lãng mạn. Về ngôn ngữ, các nhà thơ trẻ có xu hướng đưa ngôn ngữ đời sống, đưa khẩu ngữ vào thơ, làm cho ngôn ngữ thơ có được cái nồng nàn của đời sống. Trong thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ, ta bắt gặp những thủ pháp tu từ truyền thống được sử dụng theo kiểu tư duy 11 hiện đại. Những trang thơ trẻ mở ra trước mắt người đọc những liên tưởng đằm thắm mà biết bao thú vị. Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày về một số gương mặt nổi bật của thế hệ nhà thơ chống Mỹ. 1.1.3.1. Phạm Tiến Duật Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 01 năm 1941 ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Thơ ông giàu chất hiện thực và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Sự lạc quan đến duy ý chí của Phạm Tiến Duật khiến những ai không bước ra từ cuộc chiến đó thấy rất khó để hình dung và chấp nhận được. Đây có thể là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến thơ của ông trở thành một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mang cảm hứng sử thi và âm hưởng tráng ca của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ca ngợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là một đặc điểm của thơ Phạm Tiến Duật. Bằng những tác phẩm nghệ thuật, ông đã nói hộ bao người tình yêu nước. Những vần thơ của ông thực sự đã trở thành niềm tự hào của nhiều thế hệ thanh niên nước ta trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thân yêu của mình. Nhiều bài thơ của Phạm Tiến Duật đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng thế hệ trẻ thời bấy giờ nói riêng và công chúng yêu thơ nói chung như: Lửa đèn, Tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong, Trường Sơn đông, Trường Sơn Tây… Những bài thơ này đã đưa ông lên vị trí hàng đầu của thơ ca Việt Nam thời kỳ chống Mỹ với Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, đợt IV, năm 2012. 1.1.3.2. Nguyễn Khoa Điềm 12 Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ, nhà hoạt động chính trị Việt Nam. Ông là cựu Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch. Ông đã từng nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (giải B) với tập thơ Cõi lặng - năm 2010 Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có phong cách rõ nét ngay từ đầu và có đóng góp quan trọng cho thành tựu của thơ chống Mỹ. Tuy viết không nhiều nhưng những tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm đều được đánh giá cao. Thơ ông là sự kết tinh nhuần nhị của xúc cảm và trí tuệ . Chất triết lý trong thơ ông gây cho độc giả ấn tượng mạnh vì nó bắt nguồn từ những rung động tinh tế, nồng nàn sâu lắng của nội tâm. Đó là cảm xúc dâng trào về chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa những năm chống Mỹ, và là bức tranh về phong trào đấu tranh chính trị của học sinh, sinh viên trong những đô thị tạm chiếm miền Nam. Sự kết hợp đặc sắc này cũng thể hiện rõ trong những sáng tác sau 1975 của Nguyễn Khoa Điềm, viết về đời sống thế sự và “cõi lặng” nội tâm cá nhân của ông. 1.1.3.3. Lưu Quang Vũ Lưu Quang Vũ (1948 - 1988), sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở phường Hải Châu, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Ông là nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà: thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng như: Hương cây (1968 - in cùng Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa), Mây trắng của đời tôi (1989), Bầy ong trong đêm sâu (1993),…Thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bay 13 bổng, tài hoa mà còn giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Rất nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích như: Và anh tồn tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu... Ông còn là tác giả của nhiều truyện ngắn và tác phẩm kịch mang đậm phong cách riêng. 1.1.3.4. Nguyễn Duy Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1997 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ lên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Thơ Nguyễn Duy có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế cứ ngấm vào người đọc trong nhiều thao thức suy nghĩ. Rất nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao,... Ông được đánh giá cao trong thể thơ lục bát, một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển chặt chẽ. Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này. 1.1.3.5. Thanh Thảo
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất