Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thực trạng công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã ...

Tài liệu Luận văn thực trạng công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội tỉnh bắc ninh

.DOC
99
631
138

Mô tả:

Chuyên đề thực tập 1 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính LỜI MỞ ĐẦU Chi Bảo hiểm xã hội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ Bảo hiểm xã hội và liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người lao động. Chỉ có chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và an toàn đến tay người tham gia Bảo hiểm xã hội mới đảm bảo quyền lợi của họ cũng như phát huy hết vai trò của chính sách Bảo hiểm xã hội. Công tác chi trả Bảo hiểm xã hội phản ánh chất lượng của dịch vụ bảo hiểm xã hội và trong một trừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh được thành lập ngày 1-10-1997, trên cơ sở tách ra từ Bảo hiểm xã hội Hà Bắc cũ, có nhiệm vụ thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội. Đến tháng 1-2003 thực hiện thêm chính sách Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh. Đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng đông vì vậy vấn đề chi trả cũng gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như: đối tượng quản lý và nguồn kinh phí chi trả phức tạp, phương tiện và chi phí chi trả chưa đáp ứng đủ nên ảnh hưởng không nhỏ đến sự an toàn trong quá trình vận chuyển. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và mong muốn được tìm hiểu và đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần giải quyết những khó khăn đó, trong thời gian thực tập tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh nên em chọn đề tài: “Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Mục đích của đề tài là nghiên cứu, đánh giá công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc hiện nay ở Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh không bao gồm Bảo hiểm y tế. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác này trong thời gian tới. Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội và công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội. Chương II: Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008. Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh. Trong quá trình thực tập và viết chuyên đề tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, các chú tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh và SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 2 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính cô giáo hường dẫn Th.S Nguyễn Thị Chính. Bản thân em rất cố gắng, xong do thời gian và trình độ còn hạn chế, nên bài viết của em khó tránh khỏi những thiếu xót nhất định. Em mong được sự góp ý của các cô chú, các thày cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 3 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội 1.1.1. Sự cần thiết và vai trò của Bảo hiểm xã hội 1.1.1.1. Sự cần thiết của Bảo hiểm xã hội Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của con người như ăn, mặc, ở… con người phải lao động tạo ra những sản phẩm cần thiết. Của cải của xã hội càng nhiều thì mức thỏa mãn của con người càng cao, có nghĩa là việc thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, thai sản, tai nan lao động, già yếu…, thiếu việc làm do ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác… khi rơi vào các trường hợp đó nhu cầu của con người không thế mà mất đi. Trái lại có cái còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được bảo trợ từ cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển thành nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống Bảo hiểm xã hội đã có những cơ sở hình thành và phát triển. Qúa trình công nghiệp hóa làm cho đội ngũ làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp ốm đau, thai sản, già yếu, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, rủi ro… đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người lao động phải tìm cách giải quyết bằng những hành động tương thân tương ái, đồng thời đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp để đảm bảo cuộc sống cho họ. SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 4 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính Con người là trụ cột chính trong xã hội. Trong cuộc sống cũng như trong hoạt động kinh doanh thường gặp phải những rủi ro mà không ai có thể tránh khỏi. Khi gặp những rủi ro thì nhu cầu đối với con người và trong sản xuất không mất đi thậm trí còn tăng lên rất nhiều. Chính vì vây, cuộc sống của con người càng khó khăn hơn. Còn sản xuất thậm trí bị đình đốn. Khi đó người lao động trích một phần tiền lương, tiền công và người sử dụng lao động trích một phần lợi nhuận tạo thành một quỹ chung. Nhà nước cũng tham gia đóng góp vào quỹ. Qũy này dùng để hỗ trợ những người lao động khi không may họ bị tai nạn, ốm đau, gia cảnh khó khăn giúp họ ổn định cuộc sống, và Nhà nước cũng đứng ra quản lý quỹ này để đảm bảo tính khách quan, tính công bằng và chính xác. Như vậy, sự ra đời của BHXH là một tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai và để đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội, đòi hỏi BHXH ngày càng được củng cố và hoàn thiện trong mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. BHXH giúp cho người lao động tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro nhanh chóng ổn định cuộc sống, tạo tâm lý ổn định và yên tâm làm việc để từ đó giúp người lao động nâng cao năng suất lao động, góp phần tăng thu nhập của họ trong tương lai đồng thời kích thích những người lao động chưa tham gia BHXH, hãy hăng hái tham gia. Và BHXH giúp cho sản xuất trong doanh nghiệp diễn ra liên tục, tránh được trường hợp đình công, đập phá máy móc của người lao đông. 1.1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, vai trò đó được thể hiện qua các mặt sau: - Đối với người lao động: Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì những “rủi ro” như ốm đau, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm… lại diễn ra một cách thường xuyên và ngày càng phổ biến hơn và phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây ra những khó khăn cho người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không tốt cho cả xã hội. Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ góp phần giúp cho cá nhân người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi… giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 5 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính công việc cho doanh nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. - Đối với người sử dụng lao động: Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết vận dụng sức lao động của công nhân để tạo ra sản phẩm cho xã hội đó chính là người sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ sử dụng lao động phải tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của người sử dụng lao động thật tốt để người lao động yên tâm tham gia lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống, từ đó lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động đạt kết quả cao. Muốn vây, chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho người lao động của mình để BHXH đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp phải những rủi ro bất chắc như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp... Việc tham gia đóng BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động là góp phần vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp phần vào phát triển kinh tế. - Đối với nền kinh tế: Góp phần gắn bó giữa giới chủ và giới thợ từ đó làm cho thị trường lao động phát triển lành mạnh, bền vững. Đặc biệt là mâu thuẫn vốn có của giới chủ và giới thợ về cơ bản được giải quyết và đây là tiền đề rất quan trọng giúp cho người lao động nâng cao năng suất lao động, phát huy sáng tạo, góp phần làm cho sản xuất ngày càng phát triển. Nhờ có chính sách BHXH mà quỹ BHXH được hình thành và tồn tích lại theo thời gian và bắt đầu những năm 60 của thế kỷ 20 quỹ BHXH ở các nước, đặc biệt là các nước phát triển đã trở thành một khâu tài chính trung gian vô cùng quan trọng góp phần đầu tư, phát triển, tăng trưởng kinh tế cho đất nước. - Đối với xã hội: Thứ nhất: cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất kỳ ai cũng cần đến. Thứ hai: với tư cách là một trong những chính sách xã hội của Nhà nước, SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 6 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính BHXH sẽ bảo hiểm cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với người lao động góp phần phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực vào nâng cao năng suất lao động xã hội. BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng của quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội. Thứ ba: với tư cách là quỹ tiền tệ tập trung, nhằm tác động mạnh đến hệ thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH là phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển tiền “nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển của đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tăng tổng sản phẩm quốc dân nói chung. Thứ tư: BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được phân phối theo hai cách: là phân phối theo chiều dọc và phân phối theo chiều ngang; phân phối giữa những người khỏe với người già, giữa nam với nữ, giữa người đang được hưởng trợ cấp với người chưa được hưởng trợ cấp và phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Về mặt kinh tế, nhờ có tổ chức phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng một khoản nhỏ trong thu nhập của mình vào quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH thực hiện nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Tuy nhiên, tính kinh tế và xã hội của BHXH không tách rời nhau mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là nói lên tính xã hội của BHXH, ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. 1.1.2. Bản chất, chức năng và tính chất của Bảo hiểm xã hội 1.1.2.1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội Với những vai trò của BHXH đã nêu ở trên thì bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 7 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao đông- bệnh nghề nghiệp… Hoặc có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp những biến cố, rủi ro, sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Nếu xét về yếu tố lịch sử thì BHXH được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ 19. Tuy nhiên bây giờ vẫn chưa có một khái niệm thật chuẩn mực về BHXH vì các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau: - Nếu đứng trên góc độ tài chính: thì BHXH là quá trình san sẽ rủi ro, san sẻ tài chính giữa các bên tham gia theo quy định thống nhất của pháp luật Nhà nước. Sự san sẻ rủi ro giữa những người khỏe mạnh với những người gặp sự kiện bảo hiểm, những người giàu với những người nghèo thông qua sự đóng góp vào quỹ tiền tệ tập trung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Qũy này được hình thành chủ yếu do người lao động và người sử dụng đóng góp là chủ yếu, Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm và từ các nguồn khác nữa. - Nếu đứng trên góc độ pháp lý: BHXH là một cơ chế pháp định bảo vệ người lao động và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao động SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 8 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính tham gia bảo hiểm và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro. Khi người lao động hoặc gia đình họ gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì quỹ BHXH sẽ chi trả một khoản tiền giúp họ ổn định cuộc sống. - Theo tổ chức lao động quốc tế ILO: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, y tế, thai sản”. - Thế giới quan niệm: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội”. - Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH cũng được xuất phát trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ quản lý xã hội, cụ thể: + Bên tham gia BHXH: có thể bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước và có thể chỉ có người lao động và nhà nước. + Bên BHXH: thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước đứng ra thành lập và bảo trợ, cơ quan này tổ chức hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật. + Bên được bảo hiểm chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. Cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên chính là quỹ tài chính BHXH vì quỹ này do tất cả các bên tham gia đóng góp và mức đóng của từng bên là do sự thỏa thuận giữa các bên sau đó được tiến hành luật hóa và cụ thể thực hiện. Đứng trên bình diện xã hội thì BHXH là quá trình sử dụng một phần tổng sản phẩm quốc nội để đảm bảo an toàn về kinh tế cho người lao động và toàn xã hội. Bởi vậy, quỹ tài chính BHXH là điều kiện tiên quyết để san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính cho các bên tham gia. Mục đích chính của BHXH là nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ trong trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục đích này được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hóa như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất đi để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. + Chăm sóc sức khỏe chống lại bệnh tật. SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 9 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư, nhu cầu đặc biệt của người già và trẻ em. Tất cả những mục đích nói trên, thế giới ngày nay đều thừa nhận và cho rằng góp phần đảm bảo ASXH cho từng nước và toàn thế giới. Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước(GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế cho người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. 1.1.2.2. Chức năng của Bảo hiểm xã hội - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì quy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm hoặc mất khả năng lao động tạm thời, làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn hưởng theo đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa người lao động tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà có cả người sử dụng lao động. Các bên tham gia phải đóng góp vào quỹ BHXH. Qũy này được dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu ngập cao và những người có thu nhập thấp… Thực hiện chức năng này có nghĩa BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất từ đó nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh thì hăng hái sản xuất, lao động thì được chủ sử dụng lao động trả tiền công, khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và khi về già thì được BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ luôn được đảm bảo giúp họ yên tâm lao động sản xuất. Giúp tăng năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 10 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính lao động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó được điều hòa và giải quyết. Đối với Nhà nước và xã hội thì chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. 1.1.2.3 Tính chất của BHXH - Tính khách quan phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian: Trong quá trình lao động sản xuất, người lao động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn được đặt ra để thay thế…Sản xuất càng phát triển thì rủi ro đối với người lao động càng nhiều và dẫn đến mối quan hệ chủ thợ ngày càng gay gắt. Để giải quyết vấn đề này nhà nước đứng ra giải quyết thông qua BHXH. BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. - BHXH có tính ngẫu nhiên: Tính chất này gắn chặt với tính ngẫu nhiên khi phát sinh sự kiện bảo hiểm. Phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian. Có một số sự kiện mang tính ngẫu nhiên vào thời điểm nhưng mang tính tất nhiên về thời gian. Từ những phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian ảnh hưởng đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động. - BHXH vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội, vừa có tính nhân đạo nhân văn + Tính kinh tế: tính kinh tế được thể hiện ở chỗ. Qũy BHXH muốn được hình thành bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì phải có sự đóng góp của các bên tham gia, phải được quản lý chặt chẽ và đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên được tính rất cụ thể dựa trên sác xuất rủi ro, thiệt hại của tập hợp người tham gia BHXH. Đối với người sử dụng lao động, việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH cho người lao động mà họ sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Với nhà nước, BHXH làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời quỹ BHXH nhàn dỗi còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Và tính kinh tế còn được thể hiện đối với người lao động tham gia BHXH là có tham gia đóng góp mới được hưởng trợ cấp. Đồng thời về cơ bản đóng nhiều thì hưởng nhiều, đóng ít thì hưởng ít. SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 11 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính + Tính xã hội: nhìn chung mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH và BHXH có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động (tuy nhiên trong thời kì đầu chỉ áp dụng đối với công nhân viên chức hưởng lương). BHXH bảo hiểm cho mọi đối tượng lao động trong tất cả các ngành nghề, các vùng miền, thành phần kinh tế, địa phương… Điều đó thể hện tính xã hội rất rộng lớn. Bất kì một loại hình bảo hiểm nào kể cả bảo hiểm y tế… đều có tính nhân đạo và nhân văn, điều này được cả thế giới thừa nhận vì bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng luôn luôn đứng bên cạnh mỗi cá nhân, doanh nghiệp trong những lúc khó khăn nhất. 1.1.3. Đối tượng Bảo hiểm xã hội Tuy BHXH ra đời rất lâu, nhưng đối tượng Bảo hiểm xã hội vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với đối tượng tham gia BHXH. BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, bệnh tật, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH. Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc là một bộ phận người lao động tham gia BHXH. Người lao động tham gia BHXH nhằm đảm bảo cuộc sống cho chính họ và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm. Còn người sử dụng lao động họ tham gia bảo hiểm để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng nhằm ổn định sản xuất. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công ăn lương. Vì khi đó BHXH chưa phát triển và những đối tượng này chỉ có một khoản thu nhập cố định đó là tiền lương của họ. Nếu họ không may gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì họ sẽ bị mất thu nhập, và không thể trang trải cuộc sống. Khi tham gia BHXH nếu họ không may gặp phải sự kiện bảo hiểm thì được quỹ BHXH chi trả giúp họ ổn định cuộc sống. 1.1.4 Các chế độ Bảo hiểm xã hội Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 12 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ… Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: 1. Chăm sóc y tế 2. Trợ cấp ốm đau 3. Trợ cấp thất nghiệp 4. Trợ cấp tuổi già 5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 6. Trợ cấp gia đình 7. Trợ cấp sinh đẻ 8. Trợ cấp khi tàn phế 9. Trợ cấp tử tuất Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của từng nước mà hệ thống này có thể thực hiện được toàn bộ hoặc cũng có thể thực hiện được một số chế độ nào đó. Nhưng một quốc gia được gọi là có hệ thống chế độ BHXH ít nhất thực hiện được 3 chế độ trong đó ít nhất phải có một trong năm chế độ sau chế độ (2) Trợ cấp ốm đau; (3) Trợ cấp thất nghiệp; (4) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (8) Trợ cấp cho người tàn phế; (9) Trợ cấp tử tuất. Có nhiều yếu tố khoa học tác động đến điều kiện, thời gian và mức hưởng trợ cấp trong từng chế độ, cũng như khả năng áp dụng bao nhiêu chế độ trong một hệ thống: như tiền lương, thu nhập của người lao đông, hệ thống tài chính quốc gia… Thời gian hưởng và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời khả năng thanh toán còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của quỹ tài chính BHXH. Để hình thành hệ thống chế độ này cần phải dựa trên những cơ sở nhất định như: cơ sở sinh học, cơ sở môi trường và điều kiện lao động, cơ sở kinh tế xã hội, SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 13 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính luật pháp của từng nước. Sau đây là đặc điểm hệ thống các chế độ: - Chế độ chăm sóc y tế: Người lao động là người tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần cho xã hội bởi vậy muốn xã hội phát triển ổn định, bền vững thì trước hết quan tâm đến sức khỏe cho họ kể cả khi bình thường hay khi ốm đau, tai nạn. Bởi vậy, tổ chức lao động quốc tế coi đây là chế độ đầu tiên trong 9 chế độ BHXH. Mục đích là để bảo vệ và phục hồi cải thiện sức khỏe cho người lao động, từ đó tái sản xuất sức lao động cho họ giúp họ làm việc một cách bình thường. Đồng thời còn giúp bản thân gia đình họ ứng phó với các nhu cầu phát sinh cá nhân để đảm bảo cuộc sống. Chế độ này có đối tượng rất rộng bởi vì không chỉ có người lao động tham gia BHXH mà thậm chí cả vợ hoặc chồng con cái họ bởi lẽ nếu những người này được chăm sóc y tế có cuốc sống khỏe mạnh bình thường thì bản thân người lao động cũng yên tâm, phấn khởi tham gia sản xuất. Góp phần nâng cao năng suất lao động cá nhân. Đây là chế độ đặc thù trong 9 chế độ có đối tượng rộng nhưng BHXH sẽ tiến hành chi trả trợ cấp theo tất cả những chi phí phát sinh trong suốt thời gian điều trị chăm sóc những người được bảo vệ. Tuy nhiên để tránh chuộc lợi BHXH người ta quy định người tham gia BHXH phải có ít thất 1 thời gian nhất định có đóng BHXH. Đây là chế độ BHXH ngắn hạn vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Những nước thiết lập quỹ BHYT thì mức phí phải nộp phụ thuộc chủ yếu 3 yếu tố: số người tham gia BHXH; số người được chăm sóc y tế hàng năm; chi phí bình quân một người được chăm sóc y tế hàng năm. - Chế độ trợ cấp ốm đau: Ốm đau là loại rủi ro rất phổ biến trong cuộc sống của mỗi con người và hầu như ai cũng gặp phải. Khi bị ốm đau bản thân người ốm và gia đình gánh chịu những chi phí phát sinh và nếu tham gia BHXH thì chế độ chăm sóc y tế gánh vác. Nếu ốm đau còn điều trị dài ngày thì nghỉ ốm sẽ mất thu nhập và thu nhập bị gián đoạn, khoản chế độ này sẽ được bù đắp hoặc thay thế bởi chế độ ốm đau. Bởi vậy mục đích của chế độ này là nhằm đảm bảo tính liên tục về thu nhập cho người lao động và gia đình họ, giúp họ ổn định cuộc sống. Việc quy định mức trợ cấp và thời gian trợ cấp tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước. Chế độ này cũng là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. - Chế độ trợ cấp thất nghiệp SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 14 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính Thất nghiệp là loại rủi ro nghề nghiệp mà trong cơ chế thị trường người lao động rất hay gặp phải đây là loại rủi ro có tác động rất lớn đến tất cả vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước… thất nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau và hậu quả vô cùng nặng nề bởi vậy ngày nay tất cả các nước, tất cả các nhà kinh tế, nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng thất nghiệp là vấn đề nan giải khó giải quyết. Thất nghiệp luôn đi đôi với lạm phát. Mục đích của chế độ này góp phần ổn định thu nhập và tâm lý cho người lao động cũng như gia đình họ giúp người lao động bị thất nghiệp sớm có cơ hội và điều kiện quay trở lại thị trường lao động. Góp phần ổn định kinh tế xã hội của mỗi nước bởi vì thất nghiệp ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả những lĩnh vực này… Nếu quan sát thực trạng triển khai Bảo hiểm thất nghiệp ở tất cả các nước trên thế giới thì mức trợ cấp thất nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố sau: quỹ BHXH, tình hình biến động của thị trường lao động; chế độ tiền lương của quốc gia. Điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Mức trợ cấp thất nghiệp luôn luôn nhỏ hơn tiền lương, tiền công trước khi bị thất nghiệp nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ trong thời gian người lao động bị thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp ngắn hay dài phụ thuộc vào thời gian tham gia BHXH của người lao động trước đó và tổ chức lao động khuyến cáo thời gian trợ cấp có thể 13-26 tuần trong 1 năm. Chế độ trợ cấp thất nghiệp cũng được coi là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Hiện nay, Bảo hiểm thất nghiệp được triển khai dưới 2 dạng chủ yếu đó là: triển khai độc lập với BHXH hoặc coi đó là một chế độ của BHXH. - Chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN Đây là một trong những chế độ được triển khai sớm nhất trên thế giới cũng như ở Việt Nam bởi vì nó đáp ứng nhu cầu thực tế trước mắt của mọi người lao động, bởi lẽ đây là loại rủi ro có thể phát sinh bất cứ lúc nào, ở đâu. Hiện nay, trên thế giới có 178 nước triển khai chế độ này. Mục đích là góp phần đảm bảo thu nhập cho người lao động, gia đình họ khi không may gặp tai nạn lao động…, phục hồi khả năng lao động cho người lao động từ đó giúp họ sớm quay lại thị trường lao động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động, trách nhiệm này thực hiện cả khi người lao động còn khỏe mạnh lẫn cả khi bị tan nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đây là chế độ vừa mang tính ngắn hạn, vừa mang tính dài hạn nên việc quản SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 15 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính lý rất khó khăn nó liên quan đến ngành nghề, giới tính, thời điểm xảy ra tai nạn, nơi sảy ra tai nạn… Bởi vậy khi luật hóa chế độ này phải hết sức cụ thể và sát với thực tiễn. - Trợ cấp hưu trí Trong hệ thống 9 chế độ thì chế độ trợ cấp hưu trí là một chế độ quan trọng nhất. Vì chế độ này liên quan đến tất cả người lao động trong xã hội từ khi bước vào độ tuổi lao động đến khi người ta chết. Đặc biệt là mức đóng và mức hưởng của chế độ này luôn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mức phí và trong tổng quỹ BHXH. Ngoài ra hoạt động thu, chi của chế độ này cũng có liên quan đến tất cả các cơ quan, các hoạt động BHXH. Chính vì vậy, chế độ hưu trí được đa số các nước áp dụng và cũng là một chế độ được thực hiện sớm nhất. Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Thể hiện sự quan tâm của chính phủ, người sử dụng lao động không chỉ khi họ còn trẻ khỏe mà cả khi họ đã già yếu không thể lao động được nữa. Sự quan tâm này không chỉ thuần túy là nghĩa vụ và trách nhiệm mà còn là đạo lý của mỗi dân tộc, mỗi một chế độ chính trị xã hội. Ngoài ra, giúp cho người lao động tiết kiệm cho bản thân ngay từ trong quá trình lao động để đảm bảo ổn định cuộc sống khi về già, từ đó giảm bớt gánh nặng cho gia đình và người thân và cho xã hội. Đối tượng, mức trợ cấp và khoảng thời gian trợ cấp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng nước. Chế độ hưu trí là chế độ trợ cấp dài hạn được thực hiện ngoài quá trình lao động. Số tiền trợ cấp thông thường được cơ quan BHXH chi trả định kỳ theo tháng cho người về hưu. Chế độ hưu trí là chế độ mang tính chất hoàn trả và ít nhiều có sự tách biệt qúa trình đóng và hưởng vì người lao động tham gia đóng phí bảo hiểm trong suốt quá trình lao động và được hưởng trợ cấp khi về hưu. Điều này thể hiện tính kế thừa liên tục giữa các thế hệ người lao động để hình thành quỹ hưu trí. Vì vậy, việc xác định mức đóng, mức hưởng rất phức tạp. - Trợ cấp gia đình Chế độ này nhằm hỗ trợ cho người lao động đông con có điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để chăm sóc và nuôi dạy con cái. Khuyến khích người lao động tham gia BHXH và tạo nguồn lao động tương lai. Góp phần tạo sự bình đẳng trong xã hội và từ đó tạo sự ASXH, tính đến hết năm 2006 trên thế giới có trên 86 nước thực hiện trợ cấp gia đình. Đây là chế độ liên quan đến việc làm vì vậy đối tượng được trợ cấp chỉ bao SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 16 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính gồm những người đang lao động và gia đình họ. Trong đó, chỉ có những lao động đông con mới được hưởng trợ cấp và trách nhiệm chủ yếu thuộc về người sử dụng lao động. Những người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với người lao động đông con gặp hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống bằng cách bổ xung các quyền lợi cho người được trợ cấp. Cụ thể là bổ sung vào tiền lương, tiền công thậm trí là bằng hiện vật thiết yếu. Tuy nhiên phần trợ cấp này là bao nhiêu và hình thức chi trả như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. - Trợ cấp thai sản So với nam giới thì lao động nữ mang một số đặc điểm là thể chất tình trạng sức khỏe và tâm sinh lý có những đặc điểm khác hẳn với nam giới và thông thường là kém hơn nam giới. Bởi vậy, nó liên quan đến công việc mà nữ giới đảm nhiệm. Những công việc này ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng làm vợ, làm mẹ của lao động nữ. Nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách BHXH. Vậy khi thiết kế chính sách BHXH cần phải chú ý đến chính sách sử dụng lao động nữ và chính sách đãi ngộ đối với họ. Trong hệ thống chính sách BHXH, lao động nữ không chỉ là đối tượng tham gia BHXH được hưởng trợ cấp mà họ còn là đối tượng nghiêm cứu để hoàn thành toàn bộ hệ thống BHXH nói chung. Thực hiện tốt chế độ trợ cấp thai sản sẽ bù đắp thay thế được nguồn thu nhập cho lao động nữ khi họ sinh đẻ và nuôi con nhỏ. Tái sản xuất cho lao động nữ và những thế hệ lao động kế tiếp, góp phần thực hiện quyền bình đẳng nam nữ và quyền phụ nữ nói chung. - Trợ cấp tàn tật Thực hiện chế độ này nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động không may bị tàn tật, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội, khuyến khích người lao động hăng hái tham gia BHXH. Đây cũng là một chế độ thể hiện tính nhân đạo nhất. Chế độ này vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tuy nhiên, đây cũng là chế độ rất dễ bị lạm dụng trong khâu giám định y khoa. - Trợ cấp tử tuất Đây là một chế độ bảo hiểm nhân đạo nhất trong tổng số 9 chế độ BHXH cho nên hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện, thực hiện chế độ này nhằm góp phần khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống cho gia đình người lao động không may bị chết. Khuyến khích những người còn sống tham gia BHXH và góp phần đảm bảo ASXH cho đất nước. Chế độ này thường được các nước chia làm 2 SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 17 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính phần: + Trợ cấp mai táng, chon cất cho người lao động bị chết. + Trợ cấp dài hạn cho vợ hoặc chồng, bố mẹ 2 bên theo luật quy định nhưng mức trợ cấp tối đa cho những người này không vượt quá tiền lương đang làm việc của người lao động khi còn sống. 1.1.5. Qũy Bảo hiểm xã hội 1.1.5.1 Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH - Khái niệm: quỹ BHXH là quỹ tiền tệ độc lập, tập trung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Qũy BHXH được hình thành chủ yếu từ sự đóng bằng tiền của các bên tham gia BHXH nhằm mục đích chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. - Đặc điểm của quỹ BHXH: + Qũy BHXH ra đời và tồn tại với mục đích ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ. Qũy này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên quản lý theo nguyên tắc cân bằng thu-chi. + Phân phối quỹ BHXH mang tính chất hoàn trả và không hoàn trả. Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là người tham gia và đóng BHXH đồng thời họ là đối tượng được nhận trợ cấp, họ được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau tùy thuộc vào biến cố hoặc rủi ro họ gặp phải cũng như mức đóng và thời gian đóng BHXH của họ. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ cùng tham gia và đóng BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần, nhiều chế độ. Nhưng có người được hưởng ít lần hơn, thậm trí không được hưởng. Chính vì đặc điểm này mà một số đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH nhiều hơn mức đóng của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH. + Qúa trình tích lũy để bảo tồn quỹ và đầu tư quỹ là mang tính nguyên tắc cụ thể. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. + Qũy BHXH là hạt nhân của tài chính BHXH, và nó là khâu tài chính trung gian cùng với tài chính doanh nghiệp và NSNN hình thành nên hệ thống tài chính SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 18 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính quốc gia chịu sự chi phối của pháp luật nhà nước. Tuy nhiên, mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Vì vậy, chúng luôn độc lâp với nhau trong quản lý và sử dụng. + Sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH là do điều kiện kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế-xã hội ngày càng phát triển thì ngày càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thỏa mãn về BHXH ngày càng được nâng cao. Đồng thời kinh tế xã hội phát triển họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH… 1.1.5.2 Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ 3 nguồn sau + Người lao động đóng góp + Người sử dụng lao động đóng góp + Nhà nước bù thiếu Ngoài ra nó còn được hình thành từ một số nguồn khác như lãi đầu tư quỹ nhàn rỗi bổ sung thêm, sự đóng góp của các tổ chức quốc tế và các tổ chức từ thiện khác nếu có. Trong các nguồn hình thành nói trên thì người lao động và người sử dụng lao động đóng góp là cơ bản và chủ yếu. Thông thường nhà nước chỉ bù thiếu. Mức đóng BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định cân đối thu chi cho quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng sau xác định mức phí phải đóng… Việc xác định mức phí đóng BHXH là khá phức tạp vì nó liên quan đến người lao động và người sử dụng lao động và Nhà nước. Phí BHXH được xác định theo công thức: P=f 1+f 2+f 3x Trong đó P-Phí BHXH f 1-Phí thuần túy trợ cấp BHXH f 2-Phí dự phòng f 3-Phí quản lý Vì vậy để xác định mức phí đóng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố, nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu lao động theo ngành, độ tuổi, giới tính… Ngoài ra còn phải xác định được tuổi thọ bình quân của một quốc gia, xác suất ốm đau, tử vong của người lao động… 1.1.5.3 Mục đích sử dụng quỹ BHXH SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 19 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính - Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: đây là khoản chi lớn nhất để thực hiện mục đích lớn nhất của BHXH. Thông thường trên thế giới giới khoản chi này luôn luôn chiếm 80 đến 85% quỹ BHXH. - Chi quản lý bộ máy: khoản chi này giúp cho cơ quan BHXH các cấp tổ chức và thực hiện thành công chính sách BHXH. Nội dung khoản chi này bao gồm: tiền lương cho cán bộ công nhân viên trong ngành và bồi dưỡng nghiệp vụ…. - Chi dự phòng: bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng khoản chi này cũng mang tính chất bắt buộc nhằm đảm bảo quỹ BHXH đủ lớn và an toàn. Đặc biệt là khắc phục kịp thời những biến động lớn trong hệ thống tài chính quốc gia có ảnh hưởng đến quỹ BHXH. - Chi đầu tư: khoản chi này bao giờ cũng được quản lý riêng và nó được lấy từ khoản chênh lệch thu > chi của Qũy BHXH và lấy từ lợi nhuận do đầu tư quỹ mang lại. Chi đầu tư bao gồm: vốn gốc, nguồn vốn bổ xung hàng năm và các khoản chi phí khác để thực hiện đầu tư. - Những chi phí phát sinh ngoài những khoản chi nói trên như chi phí về thanh lý, nhượng làm tài sản. - Nếu quỹ BHXH được hình thành từ 2 loại: quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và việc quản lý thu sẽ được cụ thể hơn. + Qũy BHXH ngắn hạn chi cho các chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh ngề nghiệp. + Qũy BHXH dài hạn chi cho các chế độ dài hạn như: hưu trí và tử tuất. 1.1.5.4 Đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH - Đầu tư là yêu cầu khách quan: do đặc thù người tham gia BHXH đóng phí trong một thời gian dài và rất lâu sau họ mới được hưởng chế độ trợ cấp dài hạn như: hưu trí, tử tuất. Đồng thời số người tham gia đóng phí và hưởng tại một thời điểm thường có sự chênh lệch dương (đôi khi khá lớn) nên quỹ BHXH tại một thời điểm nhất định có số tiền kết dư lớn. Mặt khác, quỹ BHXH cũng luôn phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro, như việc tính toán mức đóng-mức hưởng của đối tượng không khoa học, những biến động xã hội đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ; bị giảm giá trị do lạm phát thông thường, do lạm phát từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước tác động…. - Những đặc thù đó đòi hỏi quỹ BHXH phải được chú trọng đến hoạt động đầu tư tăng trưởng để tránh việc bội chi. Sự quay vòng bảo toàn và tăng trưởng quỹ SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48 Chuyên đề thực tập 20 GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính BHXH là một đặc trưng cơ bản của hoạt động xã hội trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động đầu tư quay vòng vốn để bảo toàn và tăng trưởng giá trị quỹ BHXH là một yêu cầu cần thiết khách quan, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và phát huy tác dụng của chính sách BHXH trong việc đảm bảo ASXH và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển bền vững. - Lợi ích của hoạt động đầu tư quỹ BHXH: mang lại lợi ích cho chính quỹ BHXH, đảm bảo cho sự chi trả thường xuyên các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Ngoài ra nguồn vốn lớn có được từ tín dụng quỹ BHXH sẽ hỗ trợ quan trọng để đầu tư, phát triển một số dự án phát triển kinh tế-xã hội của nhà nước, giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Hiện nay quỹ BHXH thường được đầu tư vào các lĩnh vực như mua các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu công ty; gửi tiết kiệm ở ngân hàng, mua kì phiếu ngân hàng; mua cổ phiếu; cho các công ty vay vốn; trực tiếp liên doanh hoặc ủy thác kinh doanh; kinh doanh bất động sản. Trong đó, mua trái phiếu chính phủ và gửi ngân hàng là an toàn hơn cả và được hầu hết các nước áp dụng. - Nguyên tắc đầu tư của quỹ BHXH: + Nguyên tắc quan trọng đặt lên hàng đầu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH là an toàn (không chỉ đảm bảo được số vốn đầu tư mà còn giữ được giá trị thực sự của vốn), nhằm trước hết bảo toàn được quỹ, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động về chi trả BHXH. Nếu hoạt động đầu tư xảy ra tình trạng không an toàn thì gánh nặng đè lên vai Nhà nước dẫn đến mất ổn định xã hội-chính trị. Mất lòng tin ở nhân dân… + Khi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH cần đảm bảo tính hiệu quả: vì đầu tư không sinh lời thì không thực hiện được mục tiêu tăng trưởng quỹ và ảnh hưởng tới độ an toàn của quỹ và khả năng chi trả trong tương lai… + Phải chú trọng đến tính thanh khoản của dòng vốn (dễ luân chuyển vốn) vì quỹ BHXH luôn vận động không ngừng, đó là quá trình tạo lập và sử dụng quỹ để chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Tóm lại, đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH có vai trò quan trọng và góp phần đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thực hiện ASXH. Song với sự vận động không ngừng của thực tiễn kinh tế, nội dung và hình thức đầu tư cần được tiếp tục nghiên cứu để hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao nhất, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước. SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan