BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
ĐINH THANH PHÚ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
Chuyên Ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Văn Tiến
Học viên
: Đinh Thanh Phú
Lớp
: Cao học Luật, Cần Thơ, Khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp thạc sĩ “Thi hành nghĩa vụ chung về tài sản
của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam” là kết quả nghiên cứu ứng dụng của bản thân
tôi. Đây là kết quả được thực hiện bởi sự hướng dẫn của thầy TS. Nguyễn Văn Tiến,
Khoa Luật dân sự - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi cam kết đảm
bảo tính trung thực, tuân thủ các quy định của Nhà trường về trích dẫn, chú thích, tài
liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn và lời cam kết này.
TÁC GIẢ
ĐINH THANH PHÚ
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT
1
BLDS
Bộ Luật Dân sự
2
BLTTDS
Bộ Luật Tố tụng Dân sự
3
CHV
Chấp hành viên
4
LHNGĐ
Luật Hôn nhân và gia đình
5
TAND
Tòa án nhân dân
6
THA
Thi hành án
7
THADS
Thi hành án dân sự
8
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
TT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ĐỂ THI
HÀNH NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI SẢN ............................................................ 7
1.1. Xác định tài sản chung của vợ chồng là bất động sản để thi hành án ...... 7
1.2. Xác định tài sản chung của vợ chồng là động sản để thi hành án ........... 14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 23
CHƯƠNG 2. KÊ BIÊN, XỬ LÝ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ĐỂ
THI HÀNH NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI SẢN ............................................. 24
2.1. Kê biên tài sản chung của vợ chồng để thi hành nghĩa vụ chung về tài
sản ......................................................................................................................... 24
2.2. Xử lý tài sản chung của vợ chồng để thi hành nghĩa vụ chung về tài sản ..
............................................................................................................................... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 42
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung
và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đây là công đoạn cuối cùng của hoạt động
tố tụng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành nghiêm chỉnh,
góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị
- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước.
Hiện nay, thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng vẫn còn bất cập
khi mà tỷ lệ thi hành án còn chưa cao. Nguyên nhân của tình trạng này là quy định
của pháp luật về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn
bất cập, hạn chế. Cụ thể:
Thứ nhất, bất cập về phương thức bảo quản tài sản thi hành án;
Thứ hai, về giao tài sản đấu giá cho người trúng đấu giá;
Thứ ba, bất cập về thanh toán tiền thi hành án từ việc đấu giá tài sản.
Song song với các bất cập trên, các văn bản hướng dẫn thi hành còn bộc lộ
một số khiếm khuyết trong thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng như:
Trình tự, thủ tục thi hành án còn phức tạp, nhiều công đoạn, quá trình thi hành án
kéo dài; thiếu thống nhất với pháp luật có liên quan; chưa có quy định cụ thể các
biện pháp bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được thi hành án, dẫn tới việc
người phải thi hành án chây ỳ, cố tình kéo dài thi hành án và không tự nguyện thi
hành án. Mặt khác, việc áp dụng các biện pháp chế tài đối với người phải thi hành
án không được quyết liệt, kịp thời nên chưa có đủ sức mạnh để răn đe, hiệu quả.
Hơn nữa, luật thi hành án dân sự và một số luật chuyên ngành khác còn có sự
chưa đồng bộ, nên một số hoạt động thi hành án dân sự chưa thật sự có hiệu quả.
Một số quy định của pháp luật chưa được hướng dẫn cụ thể, nên việc áp dụng chưa
thống nhất trong thực tế dẫn đến hiệu quả tác động của luật chưa cao, trong đó, có
hoạt động thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các quy định nhằm khắc phục những vướng mắc,
bất cập trong thủ tục thi hành án, hạn chế tình trạng án dân sự tồn đọng là nhu cầu có
tính cấp thiết nhằm bảo vệ cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, quyền lợi chính đáng
của người được thi hành án trong việc thi hành nghĩa vụ về tài sản. Bổ sung chế tài
ràng buộc đối với người phải thi hành án, không tự nguyện thi hành án, bổ sung quy
định đối với cá nhân, tổ chức không phải là đương sự trong thi hành nghĩa vụ chung
2
về tài sản của vợ chồng, nhưng không thực hiện các yêu cầu của Chấp hành viên như:
Không cung cấp thông tin về tài sản; không chấp hành quyết định của Chấp hành
viên; không hợp tác với cơ quan thi hành án trong xác minh, cưỡng chế thi hành án
về tài sản, nhất là vấn đề có liên quan đến thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng. Đó cũng là lý do, tác giả lựa chọn đề tài: “Thi hành nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn.
Với mong muốn góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật
hiện hành về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng và nhằm nâng cao
hiệu quả của quá trình thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, luận văn
chỉ ra những hạn chế, bất cập và trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp khắc phục, hạn
chế những bất cập nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu tác giả thấy liên quan đến thi hành
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng có một số công trình nghiên cứu như sau:
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), “Giáo trình Luật Hôn nhân
và gia đình”, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Cuốn sách phân tích những
khái niệm, nội dung cơ bản về chế định đại diện của cha, mẹ đối với con (đại diện
theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền), đang được quy định trong Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014, nhưng giáo trình lại chưa phân tích cụ thể về các bất cập
đang tồn tại trong chế định này.
- Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học – Những điểm mới của Bộ luật dân
sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tp Hồ Chí Minh. Với tài
liệu chuyên khảo trên đây, tác giả đã phân tích, nghiên cứu những điểm mới của Bộ
luật dân sự năm 2015 với mục đích phổ biến các quy định mới, cung cấp cho người
đọc sự nhìn nhận một cách tổng quan và sâu hơn về các quy định của pháp luật dân
sự, đồng thời cũng đưa ra những đánh giá về ưu, nhược điểm của các quy định mới
trong Bộ luật dân sự 2015. Ngoài ra, tác giả còn lồng ghép bình luận, phân tích về sự
thay đổi giữa Bộ luật dân sự năm 2005 và 2015. Vấn đề liên quan đến việc Thi hành
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam được tác giả đề cập
đến khi bình luận các bản án liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Song, vấn đề
liên quan đến đề tài luận văn chưa thực sự được nghiên cứu và phân tích độc lập.
- Học viện tư pháp (2016), Giáo trình Kỹ năng thi hành án dân sự - tập
1,Chương 9, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, trang 364-367. Trong giáo trình này
tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về trình tự, thủ tục
3
giao tài sản cho người mua trúng đấu giá như: Thủ tục nộp tiền, thủ tục giao tài sản,
thời hạn giao tài sản, thủ tục đăng ký chuyển quyền sở hữu tài sản sau khi được
nhận tài sản mua trúng đấu giá. Tuy nhiên, giáo trình chưa đề cập những khó khăn,
vướng mắc, cũng như những hạn chế, bất cập của pháp luật về thi hành nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thi hành án dân sự Việt Nam,
Nxb Tư pháp, Học viện tư pháp. Đây là giáo trình về thi hành án dân sự. Giáo trình
này là công trình nghiên cứu về thi hành án dân sự ở góc độ lý luận, là nguồn nhận
thức quan trọng cho tác giả triển khai đề tài. Tuy vậy, công trình này không đề cập
thực tiễn thi hành, đặc biệt là thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
- Lê Vĩnh Châu (2015), “Bảo vệ quyền lợi của người mua tài sản đấu giá
trong Thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 01, tr. 13-18. Ở bài
viết tác giả đã chỉ ra các quyền của người mua trúng đấu giá tài sản như quyền được
nhận tài sản mua trúng đấu giá, quyền khởi kiện yêu cầu chuyển giao tài sản, quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại xảy ra; thực tiễn về bán đấu giá tài sản và thực thi pháp
luật về bảo vệ quyền của người mua trúng đấu giá tài sảntrong thi hành án dân sự,
đồng thời tác giả cũng đưa ra những giải pháp để bảo vệ quyền lợi của người mua
trúng đấu giá tài sảntrong thi hành án dân sự. Dưới góc độ bài viết nên tác giả
không đi sâu trong việc mở rộng phạm vi quyền của người mua được tài sản thông
qua hoạt động bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
- Mai Thị Thùy Dung, (2016), “Trao đổi một số điểm về quy định xác định
việc chưa có điều kiện thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề
tháng 02/2016), tr.26-28. Bài viết nêu ra những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng
quy định về xác định việc chưa có điều kiện thi hành án nhưng chưa đề cập cụ thể
về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng;
- Nguyễn Doãn Phương (2016), “Một số vướng mắc khi áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp,
Số 8(293), tr. 41-45: Trong bài viết, tác giả giới thiệu nội dung quy định tại Điều 71
của Luật Thi hành án dân sự về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, chỉ ra
những khó khăn, vướng mắc của từng biện pháp cưỡng chế và đề ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự. Đây
là nguồn tri thức để tác giả khai thác và hoàn thiện luận văn của mình.
- Vũ Thị Hồng Yến (2017), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
4
sự thật. Đây là công trình mang tính lý luận và chứa đựng những vấn đề về tài sản
thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của BLDS năm 2015. Tuy nhiên, là
công trình có tính lý luận nên chưa nêu được thực tiễn về xử lý tài sản thế chấp
trong thi hành án dân sự.
- Nguyễn Thị Nhàn và Trần Thị Lành, “Quy định của pháp luật Việt Nam về
xử lý tài sản bảo đảm trong thi hành án dân sự và thực tiễn thi hành”, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 10 (295)-2016, tr.47-52. Tác giả bài viết phân tích quy định của
pháp luật thi hành án dân sự về xử lý tài sản bảo đảm và thực tiễn tổ chức kê biên, xử
lý tài sản bảo đảm để thi hành án. Trong đó, tác giả luận văn chú ý khai thác những
nguyên nhân mà công tác thi hành án gặp khó khăn trong thực tiễn khi quy định của
pháp luật về tín dụng, ngân hàng chưa đồng bộ với pháp luật thi hành án.
- Nguyễn Quang Thái, Đào Thị Thúy Lan (2016), “Bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự vẫn còn là điểm nghẽn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
04/2016. Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra những vướng mắc liên quan đến bán
đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này,
từ đó tác giả đưa ra những giải pháp mang tính gợi mở để góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả trong công tác bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Những công trình nêu trên, đã trình bày vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng để thi hành án dân sự.
Đây là nguồn nhận thức giúp tác giả kế thừa các kinh nghiệm để triển khai công
trình. Với điều kiện hiện nay, Luật Đấu giá, Luật thi hành án dân sự đã có nhiều
sửa đổi, bổ sung so với các quy định trước đây thì một số khía cạnh trong công
trình nghiên cứu là luận cứ để tác giả nghiên cứu và triển khai công trình của mình
theo quy định mới. Công trình này sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quy định của pháp luật về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng để thi
hành án dân sự.
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài nhằm làm rõ việc làm rõ quy định của pháp luật về thi hành nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng theo quy định pháp luật hiện hành. Luận văn sẽ tập
trung phân tích các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, những vướng mắc, bất cập khi
TAND thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Đồng thời đề xuất những
giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật.
- Nghiên cứu các quy định và các văn bản, bản án có liên quan trong việc thi
hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam.
5
- Làm rõ thực trạng áp dụng quy định của của pháp luật về thi hành nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài:
- Nghiên cứu, tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp
luật về Thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của của pháp luật vào thi
hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam. Làm rõ thực
tiễn thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng của nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật thi
hành án về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung:
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về thi hành nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi,
bổ sung năm 2014, Luật Đấu giá 2016 và Bộ luật dân sự năm 2015.
Phạm vi không gian:
Luận văn nghiên cứu các quy định về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của
vợ chồng theo quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi, bổ sung năm
2014, Luật Đấu giá 2016, Bộ luật dân sự năm 2015 Việt Nam hiện hành.
Phạm vi thời gian:
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về thi
hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng kể từ thời điểm Luật Thi hành án dân
sự 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, Luật Đấu giá 2016 và Bộ luật dân sự 2015 có
hiệu lực cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, trong công trình này, tác giả sử dụng các phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích để phân tích các quy định của pháp luật về thi hành
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trong chương 1 và chương 2. Trọng tâm là
phân tích về bất cập của luật về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
6
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong chương 1 và 2 để đối chiếu quy định
của pháp luật hiện hành về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng với thực
tiễn thi hành. Dựa vào phương pháp này, tác giả nhận diện các bất cập cần hoàn thiện.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đánh giá kết quả thi hành về thi
hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng trên thực tế, thuận lợi, khó khăn trong
quá trình tổ chức thi hành của các cơ quan thi hành án dân sự về thi hành nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng trong chương 1 và chương 2 từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần cung cấp thực
trạng trong việc thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Kết quả nghiên
cứu cũng là tài liệu hữu ích cho việc học tập, nghiên cứu Luật THADS và cũng là
những đề xuất để hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự về nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ quy định của pháp luật về
thi hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, những bất cập và hướng hoàn thiện.
Luận văn làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập về thi
hành nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.
Kết quả nghiên cứu nâng cao nghiệp vụ công tác giả của tác giả khi thực
hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về thi hành nghĩa vụ chung về tài sản
của vợ chồng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Xác định tài sản chung của vợ chồng để thi hành án
Chương 2. Kê biên xử lý tài sản chung của vợ chồng để thi hành án
7
CHƯƠNG 1
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
ĐỂ THI HÀNH NGHĨA VỤ CHUNG VỀ TÀI SẢN
1.1. Xác định tài sản chung của vợ chồng là bất động sản để thi hành án
Theo Điều 33 LHNGĐ, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp
nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ
chồng. Theo Điều 74 LTHADS, trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu
tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và
những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự
thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự. Chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu
tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
theo thủ tục tố tụng dân sự khi người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải
quyết và hết thời hạn do luật định.
Theo điểm c Khoản 2 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm
2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự (sau đây tạm gọi là Nghị định 33/2020/NĐCP) đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành
viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và
gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết.
Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình
thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ
gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành
viên trong hộ gia đình biết. Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia
đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa
án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp
lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê
biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá
trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ.
8
Với các quy định như trên về xác định tài sản chung của người phải thi hành
án với người khác nói chung, của vợ chồng nói riêng, là bất động sản để thi hành
án, tác giả nhận thấy có những tồn tại, bất cập như sau:
Thứ nhất, quy định về quyền phân chia tài sản chung của vợ chồng, tài sản
chung của vợ chồng với người khác của CHV trong luật thi hành án dân sự là chưa
thật thuyết phục, chính xác.
Theo Điều 38 LHNGĐ, trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận
chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết. Theo Khoản 2 Điều 59 LHNGĐ, khi ly hôn, tài sản chung của
vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố: Hoàn cảnh của gia đình và của
vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên
trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa
vụ của vợ chồng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình. Đối chiếu giữa điểm c Khoản 2 NĐ số 33/2020/NĐ-CP và
Điều 38, Điều 59 LHNGĐ, tác giả nhận thấy các quy định này là không tương thích.
Một, nếu CHV xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp
luật về hôn nhân và gia đình thì CHV chỉ có thể chia đôi tài sản chung của vợ
chồng. Như, đối với tài sản thuộc quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì Chấp
hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình.
Cách chia này là theo cơ học, dựa vào tổng giá trị chia đều cho các thành viên có
quyền sở hữu, sử dụng tài sản.
Hai, theo Điều 38, Điều 59 LHNGĐ, khi chia tài sản chung của vợ chồng,
Tòa án phải cân nhắc nhiều yếu tố và quyết định chia phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh của mỗi bên vợ chồng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng, tài sản chung
của vợ chồng với người khác như quy định của pháp luật THADS là không đảm bảo
quyền sở hữu, sử dụng của chủ sở hữu, sử dụng.
Ba, theo Điều 64 LHNGĐ, khi chia tài sản chung của vợ chồng, vừa phải căn
cứ vào LHNGĐ vừa phải căn cứ vào Luật Doanh nghiệp năm 2020. Với cách chia
cơ học như trên là không đảm bảo quyền của doanh nghiệp. Ví dụ: Điều 50 Luật
Doanh nghiệp năm 2020.
Bốn, theo Điều 62 LHNGĐ, việc chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử
dụng đất vừa phải căn cứ vào LHNGĐ vừa phải căn cứ vào Luật Đất đai năm 2013.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, việc chia tài sản chung của vợ chồng,
9
của hộ gia đình, phải đảm bảo các yếu tố sau: Về chủ thể được chia tài sản chung là
quyền sử dụng đất (Điều 5 LĐĐ); về thời hạn sử dụng đất (Điều 125 LĐĐ); về hạn
mức được giao đất (Điều 129 LĐĐ) và về mục địch sử dụng đất (Điều 143 LĐĐ).
Năm, khi CHV chia tài sản chung của vợ chồng, chia tài sản chung của vợ
chồng với người khác thì áp dụng Khoản 1 Điều 74 LTHADS hay điểm c Khoản 2 NĐ
số 33/2020/NĐ-CP? Theo quy định tại Khoản 1 Điều 74 LTHADS, khi chưa xác định
được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án
trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người
phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng
đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án chia. Trên cơ
sở phán quyết của Tòa án, CHV xử lý tài sản theo quy định. Trong khi đó, điểm c
Khoản 2 NĐ số 33/2020/NĐ-CP quy định: CHV xác định phần sở hữu của vợ, chồng
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết.
Đối với tài sản chung là quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình, Chấp hành viên chia
theo số lượng thành viên của hộ gia đình. Khoản 2 Điều 164 BLDS quy định: Chủ sở
hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm
dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tương tự, theo Điều 187 BLTTDS, CHV không có
quyền yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của người khác. Với các quy định nêu trên, có
sự không thống nhất trong việc xác định chủ thể, phương thức chia tài sản chung của
vợ chồng, tài sản chung của vợ chồng với người khác để THA. Theo Khoản 1 Điều 74
LTHADS thì Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng, tài sản chung của vợ chồng với
người khác, theo điểm c Khoản 2 NĐ số 33/2020/NĐ-CP thì CHV chia. Đó là chưa kể,
giữa quy định của LTHADS với các luật liên quan đã nêu, có sự không đồng nhất về
chia tài sản chung của vợ chồng, tài sản chung của vợ chồng với người khác để THA.
Ví dụ: Bản án 09/2017/DS-PT ngày 24/0/2017 về tranh chấp liên quan đến
tài sản bị cưỡng chế để thi hành án dân sự1.
Trong bản án này, Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử phúc thẩm nhận
xét: (1) Tài liệu có trong hồ sơ thể hiện ngày 16/11/2014 Chấp hành viên đã niêm
yết hợp lệ thông báo 294A ngày 15/1/2014 đối với ba đương sự, còn 04 đương sự
chưa nhận được văn bản nào của cơ quan thi hành án liên quan đến tài sản chung
1
https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-092017dspt-ngay-2402017-ve-tranh-chap-lien-quan-den-tai-san
-bi-cuong-che-de-thi-hanh-an-42049, truy cập lúc 15h ngày 22.5.2021.
10
của hộ gia đình đã kê biên để thi hành án; (2) đây là việc dân sự chứ không phải là
vụ án dân sự.
Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định: Hủy bản án sơ thẩm số 11/2016/DSST
ngày 02 tháng 11 năm 2016 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình xét xử
vụ án tranh chấp tài sản liên quan đến tài sản cưỡng chế thi hành án, giữa nguyên đơn
ông Đỗ Đức T- Chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự thành phố H; các bị đơn
và đình chỉ giải quyết vụ án.
Trong bản án này, tác giả nhận thấy:
Một, Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án
là đúng theo thẩm quyền quy định tại Điều 26, Điều 27 BLTTDS. Theo Điều 74
LTHADS, Chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài
sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với
người khác theo quy định.
Hai, Tòa án chưa đảm bảo quyền được thỏa thuận chia tài sản chung hoặc
yêu cầu Tòa án giải quyết của các đương sự thông qua việc thông báo văn bản
THADS không đúng luật.
Ba, vụ việc thi hành án này sẽ kéo dài do việc yêu cầu Tòa án giải quyết và việc
thi hành án đan xen. Kết quả của việc thi hành án phụ thuộc vào kết quả giải quyết việc
chia tài sản chung của người phải thi hành án với với người khác của TAND.
Thứ hai, xác định việc Chấp hành viên phân chia tài sản chung của vợ chồng
với người khác làm giảm đáng kể giá trị của tài sản.
Theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 74 LTHADS, đối với tài sản chung
không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì
Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh
toán cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
Quy định này hiện nay chưa rõ và cụ thể. Một, theo Điều 111 BLDS, vật chia được
là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng ban đầu; vật
không chia được là vật khi bị phân chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính
năng sử dụng ban đầu. Về lý luận, vật chia được, vật không chia được là rõ nhưng
về thực tế THADS, khái niệm này vẫn chưa thật cụ thể nên gây khó khăn cho CHV
khi THA.\Ví dụ: Quy định diện tích tối thiểu để tách thửa của UBND cấp tỉnh đối
với quyết định của Tòa án2.\Vụ án ly hôn và chia tài sản chung vợ chồng giữa bà
2
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/quy-dinh-dien-tich-toi-thieu-de-tach-thua-cua-ubnd-cap-tinh-doi-voiquyet-dinh-cua-toa-an, truy cập lúc 22h ngày 5.11.2021.
11
Phạm Thị Thu Ba và ông Ngô Quốc Đạt được TAND thành phố Hà Nội xét xử sơ
thẩm. Bản án phúc thẩm số 145/2011/HNGĐ-PT ngày 04/08/2011 của Tòa Phúc
thẩm TAND TC tại Hà Nội bị Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị để xét xử giám
đốc thẩm về phần phân chia tài sản chung. Nội dung phần kháng nghị số 54/QĐKNGĐT–V5 ngày 18/2/2012 nêu: Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định
chia hiện vật cho ông Đạt được sử dụng 2/3 tầng nhà 60 Ngô Quyền kích thước
(2,06m x 5,7m) x2 =22,8m2 và chia cho bà Ba được sử dụng 1/3 tầng nhà 60 Ngô
Quyền kích thước 2,06m x 5,7m=11,7m2 là không đảm bảo kích thước, diện tích tổi
thiểu được phép tách thửa và cấp GCN QSDĐ của UBND thành phố Hà Nội được
qui định tại Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND.
HĐTP TANDTC không chấp nhận phần kháng nghị này và nhận định: Quy
định của UBND thành phố Hà Nội tại Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND là quy
định về diện tích tối thiểu để tách thửa và cấp GCNQSDĐ chứ không phải diện tích
tối thiểu để chia. Vì vậy, nếu chia để nhập vào cùng sử dụng với thửa khác thì
không thuộc trường hợp qui định tại Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND về diện tích
kích thước, diện tích tổi thiểu được phép tách thửa và cấp GCN QSDĐ. Mặc khác,
quy định về đất chứ không phải quy định về diện tích nhà. Do đó, việc chia những
diện tích nhà đã có khi phân chia tài sản chung, chia thừa kế cũng không bị hạn chế
theo qui định này (quy định về diện tích tối thiểu để tách thửa và cấp GCN QSDĐ).
Với vụ án trên, có một số quan điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án không được quyết định việc phân chia
quyền sử dụng đất cho đương sự mà mỗi phần họ nhận được có diện tích nhỏ hơn
diện tích tối thiểu để tách thửa được qui định tại quyết định của UBND cấp tỉnh nơi
có thửa đất.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Tòa án có quyền phân chia đất mà không lệ
thuộc vào diện tích tối thiểu được tách thửa được qui định tại quyết định của UBND
cấp tỉnh nơi có thửa đất. Bởi vì, trong các hình thức sở hữu thì có sở hữu chung,
trong sở hữu chung có sở hữu chung theo phần nên việc phân chia của Tòa án hay
thỏa thuận với diện tích bao nhiêu là quyền của đương sự không trái với pháp luật
dân sự về hình thức sở hữu.
Từ vụ án trên, tác giả nhận thấy:
Một, các cơ quan tư pháp trong vụ án này có sự không thống nhất về việc áp
dụng Điều 5 BLTTDS. Theo Điều Luật này, trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với
12
nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức
xã hội. Vậy vấn đề đặt ra, việc Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định chia
hiện vật cho ông Đạt được sử dụng 2/3 tầng nhà 60 Ngô Quyền, bà Ba được sử
dụng 1/3 tầng nhà 60 Ngô Quyền kích thước 2,06m x 5,7m=11,7m2 là có vi phạm
điều cấm của luật không?
Hai, việc chia nhà đất như thế nào là chia đúng luật (vật chia được), không
đúng luật (vật không thể chia được). Theo Điều 5 Quy định ban hành kèm theo
Quyết định số 22/2014/QĐ-UBND ngày 20 tháng 6 năm 2014 của Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội, điều kiện về kích thước, diện tích đất ở tối thiểu được
phép và không được phép tách thửa: Có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với
chỉ giới xây dựng (đường giới hạn cho phép xây dựng công trình trên thửa đất)
từ 3 mét trở lên; có diện tích không nhỏ hơn 30 m2 đối với khu vực các phường,
thị trấn và không nhỏ hơn 50% mức tối thiểu của hạn mới giao đất ở mới. Với
quy định này, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chỉ quy định về giao đất ở mới
với diện tích tối thiểu, chứ không quy định về chia nhà ở. Vậy, HĐTP TANDTC
không chấp nhận phần kháng nghị của VKS là đúng hay nội dung kháng nghị
của VKS là đúng?
Ba, hiện nay, pháp luật chưa quy định thống nhất về vấn đề này, nên CHV
khi cưỡng chế thi hành án về sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thì nên thi hành theo
hướng nào. Nếu đây là tài sản chia được, CHV sẽ tiến hành phân chia như Tòa án
đã quyết định trong vụ án trên hay căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 74 LTHADS,
áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản chung của vợ chồng với người
khác? Trong khi đó, hiện nay tình trang nhiều người cùng đứng tên chung trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tư cách "đồng sử dụng", nếu chia diện tích
đất cho những người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì không
đủ diện tích đất nông nghiệp tối thiểu theo quy định3.
Bốn, thi hành đối với tài sản chung có thể chia được nhưng phần tài sản còn
lại của tài sản chưa xác định trong khối tài sản chung để thi hành án.
Theo điểm a Khoản 2 Điều 74 LTHADS, đối với tài sản chung có thể chia
được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với
phần sở hữu của người phải thi hành án. Tuy nhiên, khi chia tài sản như quy định
này vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về thực hiện pháp luật.
Bất thường một "sổ đỏ" đất nông nghiệp có hơn 100 người đứng tên, https://vtv.vn/phap-luat/bat-thuong-mot-sodo-dat-nong-nghiep-co-hon-100-nguoi-dung-ten-20210520132426662.htm, truy cập lúc 19h ngày 25.10.2021.
3
13
Ví dụ: Bàn về vấn đề kê biên, xử lý phần tài sản còn lại chưa xác định trong
khối tài sản chung để thi hành án4.
Theo quyết định dân sự sơ thẩm số: 97/2010/QĐST-DS ngày 28/05/2010 của
Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y: “Bà Nguyễn Thị Đ phải bồi thường cho 03
người được thi hành án với số tiền 262.000.000 đồng và tiền án phí 6.550.000
đồng”. Qua xác minh về điều kiện thi hành án, bà Nguyễn Thị Đ chỉ có tài sản
chung hộ gia đình với ông Trần Văn L (chồng bà Đ), chị Trần Thị Bích C và anh
Trần Minh L (con bà Đ), hộ gia đình có 04 người. Tài sản gồm: quyền sử dụng đất
diện tích 121,3m2 và căn nhà cấp 4 gắn liền với đất. Căn nhà này chưa được cấp
quyền sở hữu cho ai. Ông Trần Văn L làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố
X xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản là của riêng ông.
Quyết định dân sự sơ thẩm ngày 13/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X
xác định: Ông Trần Văn L được ¼ diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản
đồ số 20. Quyết định dân sự phúc thẩm số 243/2018/QĐPT-DS ngày 10/10/2018
của Tòa án nhân dân tỉnh Y xác định ông Trần Văn L được ½ quyền sử dụng trong
diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản đồ số 20 tổ 35, khóm 4, phường 1,
thành phố X.
Tòa án nhân dân tỉnh Y có Công văn phúc đáp cho Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố X, theo đó: Trong trường hợp này, Tòa án chỉ xác định ông Trần Văn
L được ½ quyền sử dụng trong diện tích 121,3m2, theo đơn yêu cầu của ông L.
Qua văn bản giải thích của Tòa án như trên, về việc thi hành án, có các quan
điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án tuyên không rõ nên Cơ quan THADS
chưa có cơ sở để xử lý tài sản theo quy định vì không xác định phần tài sản của bà
Đ trong khối tài sản chung là bao nhiêu % nên không thể thi hành.
Quan điểm thứ hai cho rằng, căn cứ Khoản 2 Điều 9 TTLT 11/2016/TTLTBTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/08/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục
THADS và phối hợp liên ngành trong THADS thì cơ quan THADS phải đưa vụ
việc ra thi hành nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Quan điểm thứ ba cho rằng, nội dung tuyên của Tòa đã rõ, đã đủ cơ sở để
cưỡng chế thi hành án vì Tòa án đã xác định ông Trần Văn L được ½ quyền sử dụng
trong diện tích 121,3m2, ½ phần tài sản còn lại tất nhiên là của bà Đ.
4
https://kiemsat.vn/ban-ve-van-de-ke-bien-xu-ly-phan-tai-san-con-lai-chua-xac-dinh-trong-khoi-tai-san-chungde-thi-hanh-an-56493.html, truy cập lúc 18h ngày 28.12.2021.
14
Theo tác giả, nếu Tòa án xác định tài sản trên là của ông L và bà Đ thì cơ
quan thi hành án phải tiến hành thi hành. Dù việc thi hành này có thể bị khiếu nại do
Tòa án chỉ giải quyết theo yêu cầu của ông L và không xác định phần quyền của bà
Đ nhưng nếu đưa vụ án ra xét xử lại thì bản chất của vụ việc vẫn không thay đổi.
Nếu các đương sự khiếu nại thì giải quyết theo khiếu nại.
Từ các phân tích trên, tác giả kiến nghị như sau:
Một, bỏ quy định về “Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền
sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài
sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự” tại Khoản 1 Điều 74 LTHADS. Việc yêu cầu
Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải
thi hành án trong khối tài sản chung với người khác là quyền của đương sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên các chủ thể trên phải tự mình thực hiện.
Hai, bỏ quy định tại điểm c Khoản 2 NĐ số 33/2020/NĐ-CP về việc Chấp
hành viên xác định phần sở hữu tài sản của vợ, chồng; quyền sử dụng đất chung của
hộ gia đình cho các thành viên của hộ gia đình. Quy định này vừa không đảm bảo
quyền của các chủ sở hữu, sử dụng, là đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, vừa không an toàn cho Chấp hành viên khi phân chia tài sản của đương sự.
Các tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân.
Ba, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ban
hành văn bản liên tịch hướng dẫn về việc xác định tài sản chung chia được, tài sản
chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài
sản, quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 74 LTHADS. Có như vậy, Chấp hành viên
mới có thể áp dụng thống nhất trong việc xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để
thi hành án và tránh những sai sót trong nhận thức và thực hiện pháp luật thi hành
án dân sự và các luật liên quan.
Trong văn bản liên tịch này, các cơ quan trên cũng ban hành quy định về
cách thức, nội dung tuyên án trong các bản án, quyết định của Tòa án, tránh tình
trạng, cơ quan thi hành án phải nhiều lần có văn bản đề nghị Tòa án giải thích
những nội dung chưa rõ trong bản án, quyết định mà Tòa án đã tuyên.
1.2. Xác định tài sản chung của vợ chồng là động sản để thi hành án
Theo Điều 76 LTHADS, Chấp hành viên ra quyết định khấu trừ tiền trong tài
khoản của người phải thi hành án. Số tiền khấu trừ không được vượt quá nghĩa vụ
thi hành án và chi phí cưỡng chế. Ngay sau khi nhận được quyết định về khấu trừ
15
tiền trong tài khoản của người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức đang quản lý tài
khoản phải khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự
hoặc chuyển cho người được thi hành án theo quyết định khấu trừ.
Theo Điều 81 LTHADS, khi phát hiện tài sản chung của vợ chồng do người
thứ ba đang nắm giữ, Chấp hành viên ra quyết định thu khoản tiền đó để thi hành
án. Người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án có nghĩa vụ giao nộp tiền
cho Chấp hành viên để thi hành án. Chấp hành viên lập biên bản thu tiền, cấp biên
lai cho người thứ ba đang giữ tiền và thông báo cho người phải thi hành án. Trường
hợp người thứ ba đang giữ tiền không ký vào biên bản thì phải có chữ ký của người
làm chứng.
Theo Điều 91 LTHADS, khi xác định được người thứ ba đang giữ tài sản của
người phải thi hành án, kể cả trường hợp tài sản được xác định bằng bản án, quyết
định khác thì Chấp hành viên ra quyết định kê biên tài sản đó để thi hành án; trường
hợp người thứ ba không tự nguyện giao tài sản thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc
họ phải giao tài sản để thi hành án.
Theo Khoản 3 Điều 23 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, trường hợp phát hiện
tổ chức, cá nhân đang phải trả tiền, tài sản cho người phải thi hành án mà khoản
tiền, tài sản đó đã được xác định bằng bản án, quyết định của Tòa án đang có hiệu
lực pháp luật thì Chấp hành viên yêu cầu tổ chức, cá nhân đó giao nộp số tiền, tài
sản cho cơ quan thi hành án dân sự để thi hành án. Nếu tổ chức, cá nhân đó không
thực hiện thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết đối
với tổ chức, cá nhân đó để thu tiền, tài sản thi hành án.
Với các quy định trên về xác định tài sản chung của vợ chồng là động sản để
thi hành án, tác giả nhận thấy có những bất cập sau:
Thứ nhất, người thứ ba đang nắm giữ tiền của của vợ chồng nhưng Chấp hành
viên không thực hiện được việc thi hành vì vợ chồng không yêu cầu thi hành án.
Đây là trường hợp mà vợ chồng đồng thời là người phải thi hành án của vụ
án này nhưng là người được thi hành án của vụ án khác. Đối với trường hợp vợ
chồng đồng thời là người phải thi hành án của vụ án này nhưng là người được thi
hành án của vụ án khác, không có tài sản để thi hành nhưng lại không yêu cầu thi
hành án, CHV rất khó khăn trong việc thi hành, mặc dù, về nguyên tắc họ là người
có điều kiện thi hành. Mặc dù Khoản 3 Điều 23 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP đã
quy định như trên về hướng xử lý nhưng CHV không thể thi hành do các luật liên
quan quy định khác.
- Xem thêm -