BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
======
TRẦN THỊ THANH BÌNH
TÍNH NỮ
TRONG THƠ PHAN THỊ THANH NHÀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
======
TRẦN THỊ THANH BÌNH
TÍNH NỮ
TRONG THƠ PHAN THỊ THANH NHÀN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Thị Thúy Hằng
HÀ NỘI, 2018
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Dƣơng Thị Thúy
Hằng đã tận tình chỉ bảo và tin tƣởng tôi khi thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin đƣợc cảm ơn các thầy cô giáo đã giảng dạy chúng tôi, các
thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, Phòng sau đại học Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nội 2 cung cấp kiến thức và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể thực hiện luận
văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè, đồng
nghiệp đã quan tâm giúp đỡ, ủng hộ tôi trong quá trình thực hiện.
Rất mong sẽ nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của các Thầy cô, đồng
nghiệp để chúng tôi hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 21 tháng 07 năm 2018
Tác giả luận văn
TRẦN THỊ THANH BÌNH
LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn của TS.
Dƣơng Thị Thúy Hằng. Luận văn đảm bảo tính trung thực và không trùng lặp
với các đề tài khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều có xuất xứ rõ
ràng.
Hà Nội, ngày 21 tháng 07 năm 2018
Tác giả luận văn
TRẦN THỊ THANH BÌNH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6
6. Cấu trúc luận văn........................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 7
1.1. Khái niệm tính nữ ...................................................................................... 7
1.2. Tác giả Phan Thị Thanh Nhàn ................................................................... 8
1.2.1. Cuộc đời .................................................................................................. 8
1.2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật.............................................................. 11
CHƢƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH – HIỆN THÂN CỦA TÍNH NỮ
TRONG THƠ PHAN THỊ THANH NHÀN................................................... 24
2.1. Cái tôi trữ tình dịu dàng, đằm thắm ......................................................... 26
2.2. Cái tôi trữ tình chở che, yêu thƣơng. ....................................................... 33
2.3. Cái tôi trữ tình cô đơn và chiêm nghiệm.................................................. 41
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN TÍNH NỮ TRONG THƠ
PHAN THỊ THANH NHÀN ........................................................................... 50
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ................................................................................ 50
3.2. Không gian nghệ thuật – Thời gian nghệ thuật ........................................ 59
3.2.1. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 59
3.2.2. Thời gian nghệ thuật.............................................................................. 70
3.3. Hình ảnh nghệ thuật ................................................................................. 75
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 80
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thơ muôn đời vẫn là tiếng nói tự thân, phô diễn tình cảm. Nếu văn
xuôi ghi lại hiện thực bộn bề, thơ lại nắm bắt những khoảnh khắc, tâm trạng ở
mức độ cô đọng nhất. Qua thơ, bạn đọc có thể đồng điệu với tâm tƣ tình cảm
mà nhà thơ gửi gắm trong đó. Có những nhà thơ thiên về triết luận, suy tƣ nhƣ
Chế Lan Viên, Bằng Việt, Hữu Thỉnh…; nhiều tác giả lại nghiêng về sự dạt
dào, sôi nổi nhƣ Xuân Diệu, Phạm Tiến Duật…Ở một số nhà thơ nữ trƣởng
thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, tính nữ, thiên tính nữ là
một “đặc sản” với những biểu hiện khác nhau. Tìm hiểu về điều này cũng
chính là một trong những con đƣờng ngắn nhất để thâm nhập hiệu quả vào thế
giới nghệ thuật của nhà thơ.
1.2. Phan Thị Thanh Nhàn thuộc thế hệ những nhà thơ trƣởng thành
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Ngay từ khi bắt đầu cầm bút, thơ
Phan Thị Thanh Nhàn đã mang đến ấn tƣợng tốt đẹp trong lòng bạn đọc. Bài
thơ “Hƣơng thầm” đoạt giải thƣởng của Báo Văn nghệ năm 1969 đã gây
tiếng vang lớn và khẳng định chỗ đứng của bà trên thi đàn. Đúng 15 năm
sau, “Hƣơng thầm” đƣợc phổ nhạc và đã nhanh chóng lan tỏa trong đời sống
văn hóa, văn nghệ nƣớc nhà. Bên cạnh “Hƣơng thầm”, Phan Thị Thanh Nhàn
còn có nhiều tác phẩm hay khác nhƣ: “Con đƣờng”, “Làm anh”, “Trời và
Đất”, “Rồi có thể”, “Ngày tháng không quên”… Những vần thơ ấy đã có sức
cuốn hút diệu kỳ, làm lay động trái tim nhiều thế hệ.
Sức hấp dẫn của những vần thơ Phan Thị Thanh Nhàn từ đâu? Phải
chăng đó là những vần thơ mà bà đã trút cả tâm can mình vào đó; những vần
thơ không chỉ viết cho riêng mình mà cho tất cả mọi ngƣời; không chỉ viết
cho thời mình đang sống mà nó còn có sự ám ảnh ở tƣơng lai. Đọc thơ bà, bạn
đọc nhận ra cái duyên dáng nữ tính, vừa dịu dàng đằm thắm; vừa trăn trở, lo
âu; vừa da diết, khắc khoải… Tất cả hòa trộn vào nhau, tạo nên những câu thơ
2
đậm tính nữ, không trộn lẫn. Có thể khẳng định, tính nữ là nét nổi trội khi tiếp
cận với sáng tác của nhà thơ này; từ những vần thơ thời kì kháng chiến chống
Mỹ đến những vần thơ thời bình, từ thơ viết cho ngƣời yêu, cho chồng đến
thơ viết cho con cái, cho trẻ em nói chung. Tìm hiểu tính nữ trong thơ Phan
Thị Thanh Nhàn cũng là một trong những con đƣờng để thâm nhập tốt hơn
thế giới nghệ thuật trong thơ nữ sĩ đằm thắm, duyên dáng này.
Trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tính nữ trong thơ Phan Thị
Thanh Nhàn”, góp phần ghi nhận một gƣơng mặt tiêu biểu trƣởng thành từ
thời chống Mỹ và đồng thời góp phần khẳng định một phong cách thơ nữ hiện
đại của văn học Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Từ khi bắt đầu xuất hiện cho đến hiện nay, có thể nói, thơ Phan Thị
Thanh Nhàn đã nhận đƣợc sự quan tâm, trìu mến từ phía độc giả cũng nhƣ các
nhà nghiên cứu. Đã có khá nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về thơ Phan
Thị Thanh Nhàn. Nhìn chung, các tác giả đều chú ý đến sự dịu dàng, đằm
thắm, tinh tế đƣợc thể hiện trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
Phan Thị Thanh Nhàn sáng tác thơ ca ngay từ nhỏ. Từ những năm 1965
– 1966, nữ sĩ đã trình làng sáng tác trên báo, và đến năm 1969, bà đã in chung
tập thơ đầu tiên với hai ngƣời bạn gái là Hoàng Thị Minh Khanh và Thúy
Bắc. Trong bài “Tháng giêng hai – tập thơ của Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng
Thị Minh Khanh, Thúy Bắc”, tác giả Phong Vũ đã giành những lời khen tặng:
“Thơ Phan Thị Thanh Nhàn có sức cuốn hút với sự nhạy cảm, tế nhị và duyên
dáng” [51, tr.108].
Ở một chỗ khác, Xuân Diệu cũng nhận thấy vẻ đẹp ấy: “Bên cạnh tính
chính trị, tƣ tƣởng, tính thời đại…., thơ Phan Thị Thanh Nhàn còn có một tính
cách rất đáng quý, hiện nay còn hiếm: tính phụ nữ” [31, tr.8]. Tác giả cho
rằng Phan Thị Thanh Nhàn là cây bút có sự đằm trong cảm xúc và suy nghĩ,
cái đằm của tâm hồn phụ nữ”.
3
Trong bài “Đọc Hƣơng thầm” (Tác phẩm mới- số 4/1976), tác giả Thu
Vân nhận định: “Phan Thị Thanh Nhàn không sắc sảo nhƣng có một hồn thơ
dễ cảm “nhƣ một bông hoa dịu nhẹ, khiêm nhƣờng, phảng phất, kín đảo”.
Thu Vân nhận thấy “khả năng phát hiện tinh tế những vẻ đẹp của cuộc sống,
tiếng thơ ấm áp ân tình, đề tài bình dị, cảm xúc khoẻ khoắn đƣợc dẫn dắt bởi
con tim hơn là lí trí”. Bên cạnh đó, tác giả cũng thấy những hạn chế của Phan
Thị Thanh Nhàn ở giai đoạn này là “thiếu rung động có suy nghĩ và chiều
sâu”...
Nhà phê bình Thiếu Mai đặc biệt chú ý đến chất nữ tính trong thơ Phan
Thị Thanh Nhàn. Ở bài “Một nét thơ đáng yêu” (Tạp chí Văn học số 1/1978),
tác giả viết: “Dịu nhẹ, duyên dáng và kín đảo, không chỉ khác nhau với những
nhà thơ nam giới mà ngay cả với các nhà thơ phụ nữ cũng không thê lẫn. Đọc
là mến ngay. Và nhớ ngay. Nét dịu nhẹ, kín đáo vừa thế hiện phong cách thơ
độc đáo, giàu nữ tính song không kém phần sáng tạo, dồi dào”. Cùng trong
mạch quan niệm này, nhà thơ Vũ Quần Phƣơng nhận thấy khi đọc thơ Phan
Thị Thanh Nhàn, hãy sống với cảm xúc đƣợc lắng đọng trong từng câu chữ
thay vì chuyện cố công đi tìm tƣ tƣởng. Điểm mạnh của thơ bà là “dễ thân,
dễ thành bạn tâm tình chia sẻ với mọi ngƣời. Giọng thơ giản dị, câu thơ càng
ngày càng đƣợc chăm sóc tỉ mỉ. Tình cảm chín dần trong nỗi thấm thía nội
tâm. Bƣớc tiến của Thanh Nhàn song hành với sự lịch lãm từng trải và sự lao
động kiên trì của bà. Thanh Nhàn ngày càng lặn sâu vào lòng mình, mạnh
dạn mà cũng khá nhuần nhuyễn bộc lộ nỗi riêng tƣ rất cá thể trƣớc cuộc đời”
(Vũ Quần Phƣơng, “Lời tựa tập Phan Thị Thanh Nhàn Thơ với tuổi thơ”,
Nxb Kim Đồng, 2001).
Tìm hiểu thơ Phan Thị Thanh Nhàn, ta nhận thấy cùng những bài thơ
về quê hƣơng, đất nƣớc, con ngƣời, nữ sĩ còn góp một tiếng nói quan trọng
vào khát vọng yêu, khát vọng hạnh phúc muôn đời của phụ nữ. Năm 2008, tác
giả Đặng Tƣơng Nhƣ khi đọc bài thơ “Trời và đất” đã có những cảm nhận
4
tinh tế: “Đọc thơ tình của Phan Thị Thanh Nhàn thấy hiện lên một phụ nữ yêu
hết mình với một tình yêu không đòi hỏi đền đáp, bao giờ cũng lặng lẽ hiến
dâng, một tình yêu luôn giày vò, khắc khoải nhƣng không bao giờ phản kháng
và oán trách” [34, tr.84]. Đến với thơ tình của nữ tác giả này, ta cảm thấy thơ
bà thiên về ngọt ngào, duyên dáng và dịu dàng e ấp của ngƣời phụ nữ Á
Đông.
Trên Thông tấn xã Việt Nam ngày 30/8/2004, tác giả Nguyễn
Kim Anh trong bài “Hình nhƣ mình vẫn cô đơn” đã nói tới “chuyện thơ dịu
dàng hƣơng bƣởi”; “chuyện hƣơng thầm”; “không thế ngờ bài thơ đã đủng
nhƣ cái tên Hƣơng thầm cứ lặng lẽ đến mức ngay cả những ngƣời trong cuộc
tử biệt sinh ly cũng không hề biết. Và rồi ngƣời ta hình dung ra nữ thi sĩ đã
làm bài thơ về cuộc chia ly của chính mình. Họ cho rằng đó là mối tình thầm
của chị”. Tác giả đánh giá khá tinh tế về hồn thơ Thanh Nhàn: “Con ngƣời ấy
giản dị và chân thực đời thơ làm sao. Những kỹ thuật làm thơ chƣa bao giờ
len lỏi vào hồn chị. Ngƣời ta đọc thơ chị nhƣ tâm tình, thấy thƣơng mến chứ
không lạc vào lời thơ trúc trắc. Phan Thị Thanh Nhàn luôn tìm thấy cảm hứng
sáng tạo từ chất liệu của cuộc sống thƣờng nhật, không cố ép mình để có
những chủ đề lớn vƣợt quá khả năng, cảm xúc giản dị, chân thành song
không kém phần sâu lắng”.
Trong bài “Phan Thị Thanh Nhàn: thơ mình mình đọc câu nào cũng
thƣơng”, nhà thơ trẻ Trần Hoàng Thiên Kim cũng nhìn nhận tƣơng tự về
Phan Thị Thanh Nhàn: “Chị đi đến đâu, nơi đó hát Hƣơng thẩm ”; “Chị trải
lòng mình chân thật chứa chất trong những vần thơ ấy, nó nhƣ những trang
nhật ký đƣợc viết bằng thơ vậy”.
Nhìn chung, tìm hiểu thơ Phan Thị Thanh Nhàn chủ yếu tập trung ở
những bài viết riêng lẻ về từng bài thơ, từng tập thơ. “Giọng điệu thơ Phan
Thị Thanh Nhàn” là yếu tố nổi bật đƣợc chú ý trong những bài viết này. Các
bài viết đều nhận thấy đó là một tâm hồn mộc mạc, giản dị, chân thành nhƣng
5
vô cùng sâu lắng. Những yếu tố khác về mặt nội dung, nghệ thuật cũng nhƣ
sự hấp dẫn của tính nữ trong thơ bà vẫn chƣa đƣợc chú ý thỏa đáng.
Đề tài “Tính nữ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn” đƣợc thực hiện từ
sự gợi ý về khoảng trống còn thiếu trong quá trình tìm hiểu thơ Phan Thị
Thanh Nhàn. Chúng tôi hi vọng rằng qua luận văn này có thể có những thâm
nhập hiệu quả vào một phƣơng diện trong thế giới nghệ thuật thơ Phan Thị
Thanh Nhàn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ vấn đề tính nữ trong
thơ và tính nữ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
- Phạm vi nghiên cứu: Các tập thơ của Phan Thị Thanh Nhàn
+ “Tháng giêng hai” (1969), Nxb Văn học
+ “Hƣơng thầm” (1973), Nxb Văn học
+ “Chân dung ngƣời chiến thắng” (1977), Nxb Tác phẩm mới
+ “Bông hoa không tặng” (1987), Nxb Hội nhà văn
+ “Nghiêng về anh” (1992), Nxb Hội nhà văn
+ “Bài thơ cuộc đời” (1999), Nxb Hội nhà văn
+ “Con muốn mặc áo đỏ đi chơi” (2016), Nxb Kim Đồng
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Phƣơng pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu tính nữ trong thơ Phan Thị
Thanh Nhàn một cách hệ thống, thông qua việc tập hợp những dẫn chứng
phục vụ cho từng biểu hiện của tính nữ trong thơ tác giả, từ đó đi đến những
kết luận khoa học.
4.2. Phương pháp lịch sử
Chúng tôi đặt các sáng tác của Phan Thị Thanh Nhàn trong mối tƣơng
quan với lịc sử xã hội và lịch sử văn học qua hai giai đoạn trƣớc 1975 và sau
1975 để thấy đƣợc sự vận động về bút pháp của thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
6
4.3. Phương pháp phân tích
Đây là phƣơng pháp cơ bản đƣợc sử dụng triệt để trong luận văn. Từ
những số liệu, dẫn chứng thống kê; trên cơ sở tôn trọng quy luật vận động nội
tại của mỗi bài thơ, chúng tôi làm rõ những đặc điểm nổi trội về tính nữ trong
thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
4.4. Phương pháp so sánh
Chúng tôi luôn có ý thức đối chiếu những biểu hiện của tính nữ trong
thơ Phan Thị Thanh Nhàn ở từng giai đoạn trên hành trình sáng tạo của bà
cũng nhƣ đối sánh với biểu hiện tính nữ với một số tác giả cùng thời nhƣ
Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi… Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi
hi vọng bƣớc đầu sẽ có một cái nhìn khách quan, khoa học về đối tƣợng tiếp
cận.
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Luận văn bƣớc đầu trình bày quan niệm về tính nữ, sự biểu hiện
tính nữ trong thơ. Từ đó tìm hiểu những phƣơng diện biểu hiện cơ bản của
tính nữ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Tính nữ trong thơ trƣớc hết đƣợc thể
hiện qua việc xây dựng hình tƣợng cái tôi trữ tình. Những phƣơng diện cơ bản
về mặt hình thức thể hiện tính nữ sẽ đƣợc đề cập đến.
5.2. Góp phần khẳng định một phong cách thơ độc đáo, một giọng thơ
trữ tình, đằm thắm, đầy nữ tính.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn “Tính nữ
trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn” gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung
Chƣơng 2: Cái tôi trữ tình – hiện thân của tính nữ trong thơ Phan Thị
Thanh Nhàn
Chƣơng 3: Nghệ thuật biểu hiện tính nữ trong thơ Phan Thị Thanh Nhà
7
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm tính nữ
Tính nữ thƣờng đƣợc sử dụng gần gũi với một số thuật ngữ khác nhƣ
thiên tính nữ, nguyên lí tính Mẫu, nữ tính vĩnh hằng…
Trang 1651, “Đại từ điển tiếng Việt” (Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên) cho rằng
“tính” đƣợc hiểu theo ba nghĩa: 1/ “Tính” là những “đặc trƣng tâm lí ổn định
của riêng mỗi ngƣời (tính nóng, mát tính, tính cách, tâm tính, thiên tính, thú
tính…)”; 2/ “Tính” là những “đặc điểm riêng của sự vật (tính chất, ác tính,
bản tính, cá tính, đặc tính, nhân tính, phẩm tính…)”; 3/ “Tính” đƣợc hiểu là
“giới (đồng tính, đơn tính, lƣỡng tính, nam tính, nữ tính…)”. Trong phạm vi
luận văn này, chúng tôi hiểu từ “tính” theo nghĩa thứ ba, là yếu tố thuộc về
giới.
Từ thủa khai thiên lập địa, tự nhiên đã có sự phân đối khá rạch ròi: ngày/
đêm, sáng/ tối, nóng/ lạnh, âm/ dƣơng, nam/ nữ… Trong đó, ngƣời nam và
ngƣời nữ không chỉ khác nhau về cấu tạo cơ thể, các chức năng mang tính
sinh học mà còn có những đặc điểm khác biệt rõ rệt về tính cách, về xu hƣớng
tình cảm…Allan Pease có một kết luận dễ hiểu nhƣng hoàn toàn đúng đắn:
“Đàn ông, đàn bà sinh ra là đã khác nhau rồi”. Tựu trung, về đặc điểm giới,
nhìn chung đàn ông thiên về sự mạnh mẽ, vững chãi, tổng thể, đơn giản…;
trong khi đó, phụ nữ lại thiên về sự đa cảm, yếu đuối, chi tiết…Tất cả những
điều này cũng đƣợc thể hiện rõ nét trong đời sống vật chất và tinh thần của
họ, trong đó có hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật. Trong bài viết “Phụ
nữ và sáng tác văn chƣơng” (Tạp chí Văn học số 6/ 1996), nhà phê bình
Vƣơng Trí Nhàn nhận xét: “Hình nhƣ do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ
bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh dở dang
của đời sống. Mặt khác với cái cực đoan sẵn có – tốt, dịu dàng, rộng lƣợng
8
thì không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng –
từng cây bút nữ tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm.” Ở
một nơi khác, trong cuộc tranh luận “Cách viết của phụ nữ so với nam giới có
gì khác”, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã chú ý đến sự khác biệt giữa hai
giới. Bà cho rằng, “thế mạnh của phụ nữ khi viết văn chính là ở chỗ họ đƣa
tất cả cuộc đời, tâm hồn họ vào trong trang sách, hoặc nói nhƣ phƣơng tây,
họ tự ăn mình”. Cùng trong trƣờng suy tƣ đó, Nguyễn Hoàng Văn ở bài viết
“Chín nẻo thuyền quyên” đã gọi tính nữ trong văn chƣơng là “nàng” và khẳng
định: “Với văn chƣơng, bình dân hay bác học, nàng thƣờng là cái gì đó yếu
đuối, nhỏ nhoi. Chốn mom sông quãng vắng nàng lặn lội thân cò. Nơi đồng
không mông quạnh nàng chơ vơ đơn độc. Nhƣng với tấm thân yếu đuối, nàng
còn trần ải những đoạn trƣờng…”. Cách nhận xét của Nguyễn Hoàng Văn
mặc dù ít nhiều mang tính một chiều, khi chủ yếu bàn đến hình tƣợng ngƣời
phụ nữ trong văn chƣơng, chứ chƣa thực sự quan tâm đến bộ phận văn
chƣơng nữ giới. Tuy nhiên, đó cũng là những gợi ý hữu ích cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận văn.
Chúng tôi cho rằng, tính nữ, hay thiên tính nữ có thể hiểu với hai nội
hàm: 1/ Đó là xu hƣớng nghiêng về những nét rất riêng của nữ giới qua đó
ngƣời phụ nữ biểu hiện giới tính mình một cách trọn vẹn, đẹp đẽ nhất; 2/Đó
là những thiên chức riêng của ngƣời phụ nữ. Ở luận văn này, chúng tôi sử
dụng thuật ngữ tính nữ theo cách hiểu thứ nhất. Tìm hiểu tính nữ trong thơ
Phan Thị Thanh Nhàn đồng nghĩa với việc tìm hiểu những khía cạnh biểu
hiện nét riêng biệt đẹp đẽ của hình tƣợng cái tôi trữ tình biểu hiện trong tác
phẩm; bởi cuối cùng, đến với thơ cũng chính là đến với hình tƣợng cái tôi trữ
tình của nhà thơ.
1.2. Tác giả Phan Thị Thanh Nhàn
1.2.1. Cuộc đời
9
Phan Thị Thanh Nhàn – bút danh cũng là tên thật, sinh ngày 9 tháng 8
năm 1943 tại phƣờng Từ Liêm, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Với tám anh chị em, Phan Thị Thanh Nhàn đã có một tuổi thơ tràn
ngập tình thƣơng của gia đình. Bố mất sớm, mẹ nhà thơ vất vả nuôi đàn con
nhỏ trƣởng thành; đứa em trai hi sinh trong chiến trƣờng – tất cả những điều
đó đã in đậm trong kí ức của Phan Thị Thanh Nhàn. Hình ảnh ngƣời mẹ tần
tảo sớm hôm nuôi đàn con nhỏ trƣởng thành vì chồng mất sớm và đứa em trai
hy sinh trong chiến trƣờng đã in đậm trong kí ức nhà thơ. Bà đã dành những
trang viết trang trọng và xúc động nhất trong suốt cả đời thơ của mình để tặng
riêng cho họ. Cội nguồn tình yêu thƣơng gắn bó từ gia đình là nơi vun mầm
thuở ban đầu rất có ý nghĩa cho hồn thơ đầy nữ tính và cũng tràn đầy khát
vọng sống là nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn sau này.
Con đƣờng đến với văn chƣơng của Thanh Nhàn đƣợc khơi nguồn từ
chính cái nôi văn hóa của gia đình. Cha của bà rất say mê đọc các tác phẩm
“Tam quốc”, “Hồng lâu mộng”, “Thủy hử”….Chị gái đầu cũng là ngƣời say
mê văn chƣơng, thích tụ tập bạn bè đọc thơ và nói chuyện. Lớn lên trong môi
trƣờng đó nên ngay từ nhỏ, Thanh Nhàn đã tập tành viết nhật ký, làm thơ và
đƣợc bạn bè cùng trang lứa gọi đùa là “nhà thơ”. Mối lƣơng duyên ấy đã gắn
kết cuộc đời Thanh Nhàn với thơ làm một. Khi mới mƣời bảy tuổi, cùng với
Dƣơng Thị Xuân Quý, bà đã là học viên của lớp báo chí trƣờng Tuyên giáo
Trung ƣơng, sau đó trở thành phóng viện của báo Hà Nội mới. Nghề làm báo
đã chắp cánh cho ƣớc mơ từ thuở nhỏ của Thanh Nhàn đƣợc bay cao. Bà đến
với thơ ở lứa tuổi đẹp nhất của đời ngƣời. Sự kiện ba bài thơ “Hƣơng thầm”,
“Xóm đê”, “Bản mới” đạt giải nhì cuộc thi thơ của báo Văn nghệ đã trở thành
dấu mốc đƣa Phan Thị Thanh Nhàn trở thành một trong những nhà thơ nữ tiêu
biểu của kháng chiến chống Mỹ nhƣ: Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ…
Với Phan Thị Thanh Nhàn, thơ chính là những trang đời của bà. Năm
1967, bà kết hôn với nhà nghiên cứu dân tộc học Thi Nhị, đồng thời cũng là
10
nhà thơ. Đó là ngƣời biết đồng cảm, sẻ chia với bà, yêu thƣơng bà và là một
bờ vai chở che cho những giông bão cuộc đời bà, yên bình và sâu lắng.
Nhƣng ngƣời chồng mà bà đã dành nhiều tình cảm yêu mếm trong thơ đã mãi
ra đi khi bà mới ngoài ba mƣơi tuổi để lại trong bà nỗi đau đớn khôn nguôi.
Bà từng tâm sự: “Đối với tôi lúc ấy cuộc đời mình thế là hết. Đối với tôi nỗi
đau ấy khó có thể chia sẻ cùng ai bởi chỉ khi ai đó mất ngƣời thân yêu nhất
thì mới hiểu đƣợc sự mất mát trong cuộc đời” [50].Nữ sĩ đã ghi lại những
trang đời đã qua trong cuộc đời mình qua những dòng thơ rất chân thật:
“Hun hút hai hàng cây
gió thổi dài ngơ ngác
thành phố vắng một ngƣời
đƣờng không ai dạo chơi
Một ngƣời mang đi hết
bao nhiêu là thông minh
chẳng còn ai hóm hỉnh
ai cũng đều nhạt tênh”
(Một ngƣời)
Nỗi cô đơn thẳm sâu, dai dẳng, trở thành một trạng thái cảm xúc
thƣờng trực trong tâm hồn vốn đa cảm của nhà thơ. Nữ thi sĩ còn chịu nỗi đau
lớn khi mất đi ngƣời cha mà bà rất mực yêu thƣơng, kính trọng; nỗi đau mất
đi ngƣời em trai – nhân vật chính trong bài thơ “Hƣơng thầm”. Sự cộng
hƣởng của những nỗi đau mất mát những ngƣời thân yêu đã tạo nên một Phan
Thị Thanh Nhàn sâu lắng trong cuộc đời và văn chƣơng. Thơ chính là sự phản
chiếu cuộc đời, số phận nhà thơ.
Có thể nhận ra sự phong phú và đa dạng về đề tài trong các sáng tác
của Phan Thị Thanh Nhàn: cuộc sống chiến đấu của quân và dân ta trong
những năm kháng chiến chống mỹ (“Thƣ Hà Nội”, “Bài thơ tải đạn”,
11
“Đƣờng vào”...); cảnh sắc quê hƣơng đất nƣớc (“Ninh Bình”, “Nhớ Hải
Phòng”, “Trống mái”…); những con ngƣời vất vả, nghèo khó ở quê hƣơng
bà – xóm đê nghèo Yên Phụ, Hồ Tây, Hà Nội (“Xóm đê”, “Thành phố tôi
yêu”...); tình cảm với những ngƣời thân yêu trong gia đình, tình yêu, tình bạn
(“Tình mẹ”, “Gửi em trai”, “Tóc của mẹ tôi”, “Nhớ bạn”, “Hƣơng thầm”,
“Một ngƣời”…). Qua những vần thơ đó, chúng ta nhận ra một Phan Thị
Thanh Nhàn đằm thắm, đôn hậu, đầy nữ tính; luôn thao thức kiếm tìm và
khao khát yêu thƣơng.
Phan Thị Thanh Nhàn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Uỷ viên Ban
chấp hành Hội trong giai đoạn 2001-2005. Ngoài làm thơ, bà còn viết báo,
truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi. Mới đây bà còn cho ra đời tập chân dung
văn học “Sự cực đoan đáng yêu”. Tập sách là tấm lòng yêu quý của bà muốn
gửi đến tất cả bạn bè. Tuy nhiên, thơ ca mới chính là ngƣời bạn thủy chung, là
một cõi đi về êm đềm nhất khi tâm hồn nhà thơ mệt mỏi. Những vui buồn,
yêu thƣơng, những lo âu trăn trở đều đƣợc bà gửi vào những trang thơ đầy
xúc động. Thơ với bà, vì vậy là những tâm sự từ sâu thẳm cõi lòng con ngƣời.
1.2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật
Để tạo nên một hồn thơ đặc sắc đòi hỏi sự giàu có về tâm hồn và bản
lĩnh ngƣời cầm bút. Một tâm hồn giàu cảm xúc, tinh tế lại đƣợc gắn bó với
cuộc sống hiện thực phong phú sẽ tạo nên một tài năng thơ ca. Ở nhà thơ Phan
Thị Thanh Nhàn, tài năng đƣợc tạo nên bởi sự kết hợp của những yếu tố ấy.
Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Phan Thị Thanh Nhàn là hành trình
của cái tôi trữ tình hòa nhập cảm hứng với bƣớc đi của thời đại bằng một tâm
hồn cảm xúc, khao khát yêu thƣơng. Đó còn là hành trình tìm kiếm diện mạo
của chính mình – một hành trình dài, không mệt mỏi của nhà thơ để từ đó tác
giả tìm ra ý nghĩa của cuộc sống, của đam mê và lí tƣởng. Qua những tập thơ
đó, nữ thi sĩ thể hiện niềm khát khao cháy bỏng thể hiện mình. Từ tập thơ đầu
tay “Tháng giêng hai” (Thơ in chung, 1969) đến “Con muốn mặc áo đỏ đi
12
chơi” (2016) là quá trình sáng tạo nghệ thuật không ngừng của Thanh Nhàn.
Qua bảy tập thơ, độc giả không chỉ thấy đƣợc quá trình phát triển liên tục của
thơ Thanh Nhàn mà còn nhận ra nét riêng trong thơ bà. Những vần thơ đƣợc
bà chắt chiu từ chính cuộc đời mình: mộc mạc, chân thành và đầy nữ tính.
Tìm hiểu sáu tập thơ của nữ sĩ có thể chia quá trình sáng tác thơ ca của Phan
Thị Thanh Nhàn thành hai giai đoạn: trƣớc năm 1975 và sau năm 1975.
1.2.2.1. Giai đoạn trƣớc năm 1975
“Tháng giêng hai” là tập thơ đầu tay in chung của nhà thơ – tập thơ
đánh dấu tên tuổi tác giả trên thi đàn văn học, đồng thời cũng định hình bản
sắc thơ ca của nữ sĩ. Trong mƣời bài thơ in trong thi phẩm này, nhà thơ chủ
yếu đi sâu vào khai thác tâm trạng của chính bản thân và cuộc sống hiện thực
muôn vẻ. Qua những trang thơ của mình, tác giả vẽ lên một bức tranh cuộc
sống rộng lớn: một Hà Nội chịu nhiều đau thƣơng nhƣng kiên cƣờng bất
khuất trong những năm kháng chiến chống Mỹ, vẻ đẹp của thiên nhiên trên
những miền đất nƣớc hay hình ảnh những cô gái đập đá mở đƣờng cho đoàn
xe ra tiền tuyến – những ngƣời con gái hồn nhiên vui tƣơi mà dũng cảm, anh
hùng. Bằng sự tinh tế, tác giả đã vẽ lên bức tranh cuộc sống bình dị mà vẫn
giàu chất thơ. Đó cũng chính là điểm tạo nên sự hấp dần ở tập thơ đầu tay của
Phan Thị Thanh Nhàn. Nhìn ngắm một đóa hoa chớm nở, nữ sĩ có những cảm
xúc đặc biệt trƣớc sức sống mãnh liệt của cánh hoa mong manh:
“Ôi đóa hoa đầu tiên nở
tròn trong gió lạnh
Mỏng manh và tƣơi tắn
Đỏ muôn tia mặt trời”
(Hoa mặt trời)
Trƣớc mắt chúng ta là một bức tranh yên bình, tƣơi đẹp về cuộc sống
con ngƣời nơi miền Tây Bắc tổ quốc. Cảnh sắc thiên nhiên hòa quyện giàu
chất thơ:
13
“Bản mới nằm nghiêng bên suối trong
Vƣờn ai luống cải đã lên vồng
Sân nhà lốm đốm hoa cam trắng
Rào thƣa xanh mƣợt lá trầu không”
(Bản mới)
Đọc tập thơ “Tháng giêng hai”, ta nhận thấy những rung động đáng
yêu của ngƣời con gái thanh xuân khi mới yêu lần đầu. Cô gái đang yêu cảm
biết đƣợc cái đẹp, cái thi vị của mối tình đầu. Nữ thi sĩ Thanh Nhàn đã diễn tả
tinh tế điều này:
“Cầm tay anh lần ấy
Tôi xấu hổ cúi đầu
Cửa đừng nghe trộm thấy
Tôi trả bằng lòng đâu”
(Cửa nhà tôi)
Sự bẽn lẽn của cô gái đã đƣợc nhà thơ diễn tả tinh tế trên từng câu chữ.
Có thể nói, đọc tập thơ “Tháng giêng hai” ta nhận ra những trăn trở,
nghĩ suy kín đáo của Phan Thị Thanh Nhàn về cuộc sống, về hạnh phúc và cả
những phút chia ly, xa cách. “Tháng giêng hai” là khúc hát tâm hồn của ngƣời
phụ nữ ở lứa tuổi đẹp nhất của đời ngƣời. Dù viết về đề tài nào, tác giả đều có
những tìm tòi khám phá trong cách diễn đạt, lựa chọn ngôn từ. Chính điều đó,
thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã sớm chiếm đƣợc sự cảm tình của độc giả từ buổi
ban đầu.
Phần “Những búp vàng” trong tập “Tháng giêng hai” xuất bản năm
1969 đã ghi dấu ấn của Phan Thị Thanh Nhàn trên thi đàn. Tuy vậy, thơ bà
“vẫn chƣa nhiều sức nặng”, vẫn còn lẫn trong thơ của nhiều ngƣời. Phải đến
khi “Hƣơng thầm”, “Xóm đê”, “Bản mới” đƣợc giải nhì trong cuộc thi thơ của
báo Văn nghệ năm 1969 – 1970, nữ sĩ mới bộc lộ hết nét đặc sắc của riêng
mình. Hƣơng thầm trở thành bài thơ định hình tên tuổi Phan Thị Thanh Nhàn.
14
Nhắc đến Phan Thị Thanh Nhàn là nhắc đến “Hƣơng thầm”, và ngƣợc lại. Mỗi
câu, mỗi chữ trong bài thơ đều đẹp đẽ, trong trẻo đến nao lòng. Câu chuyện về
những rung cảm đầu đời của đôi bạn trẻ từng học chung một lớp, có sự cảm
mến dành cho nhau đã đƣợc Phan Thị Thanh Nhàn chuyển tải bằng những vần
thơ nhẹ nhàng, chậm rãi. Khung cửa sổ không khép, chùm hoa bƣởi, chiếc
khăn tay… những hình ảnh “biết nói”, qua bao năm tháng, lƣu giữ lại trong
lòng bạn đọc những ấn tƣợng không thể phai mờ về câu chuyện tình yêu có
thực của ngƣời em trai nhà thơ và cô gái hàng xóm. Sức lan tỏa âm thầm mà
mãnh liệt của câu chữ, tình cảm trong bài thơ giúp cho Hƣơng thầm xứng đáng
trở thành một trong những thi phẩm viết về tình yêu hay nhất trong thơ ca hiện
đại.
Sự ra đời của tập thơ “Hƣơng thầm” năm 1973 đã đánh dấu sự nhuần
nhị trong bút pháp của Phan Thị Thanh Nhàn. Bên cạnh nét mộc mạc, giản dị
khi viết về cuộc sống đời thƣờng trong tập “Tháng giêng hai”, thơ Phan Thị
Thanh Nhàn lúc này đã tạo đƣợc nét riêng mới lạ với những hình ảnh thơ đẹp
mang âm hƣởng hào hùng của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nƣớc. Đọc tập thơ “Hƣơng thầm”, ta cảm nhận thấy nữ thi sĩ đã mở rộng
hơn tầm nhìn, phản ánh đƣợc nhiều dáng vẻ của cuộc sống chiến đấu và lao
động. Phan Thị Thanh Nhàn qua ngôn từ tinh tế đã vẽ lên chân dung những
mẫu ngƣời đẹp, tiêu biểu của cả thời đại. Đó là hình ảnh ngƣời em gái nhỏ đi
sửa đƣờng cho đoàn xe ra trận, mới mƣời bảy tuổi hồn nhiên hay hát hay
cƣời, thút thít vì nhớ nhà; nhƣng “Máy bay giặc đến vừa rồi/ Bọn em góp đạn
bắn rơi chiếc đầu/ Cô ta hôm ấy cũng đau/ Bị bom ép đến những đầu ù tai/
Nhƣng vùng dậy lại nhƣ thôi/ Chạy đi cứu chữa những ngƣời bị thƣơng”
(Thƣ em gái); là những ngƣời lính giản dị, mỗi ngƣời một vẻ hợp thành gƣơng
mặt sƣ đoàn chiến thắng:
“Tập ảnh Sƣ đoàn là ảnh cá nhân
Mỗi gƣơng mặt giấu bao điều thầm kín
15
Tôi đoán sao kỷ niệm từng ngƣời?
Chỉ biết một điều rất giản đơn thôi:
Mỗi vẻ mặt với tôi thân thiết thế
Khi chiếc võng dù đung đƣa nhè nhẹ
Và tôi nghe anh kể chuyện sƣ đoàn.
Những gƣơng mặt này tôi chƣa hề quen
Lúm đồng tiền bên má chàng lính trẻ
Mấy nếp nhăn trên trán ngƣời chính ủy
Họ có giống nhau đâu
mỗi ngƣời một vẻ
Nhƣng tất cả đã làm nên một gƣơng mặt anh hùng
Gƣơng mặt của sƣ đoàn chiến thắng”
(Gƣơng mặt sƣ đoàn)
Họ là những con ngƣời đã sớm tôi luyện để có đƣợc một “tinh thần
thép”. Trong mƣa bom bão đạn, những ngƣời lính đó vẫn kiên cƣờng, bản
lĩnh, sống và cống hiến cả cuộc đời mình cho tổ quốc thân yêu. Với sức sống
bất diệt, những con ngƣời tuổi trẻ đó đã vƣợt lên gian khó làm nên chiến
thắng rực rỡ thống nhất đất nƣớc năm 1975.
Không chỉ ngợi ca những ngƣời chiến sĩ anh hùng trong chiến đấu mà
bà còn dành những trang thơ đặc biệt ca ngợi vẻ đẹp của những con ngƣời
trong lao động sản xuất nơi hậu phƣơng. Đó là hình ảnh cô gái mù nuôi ong
dâng mật ngọt cho đời:
“Mỗi mùa hoa một hƣơng quen
Bầy ong mách với riêng em mùa về
Thay cho mắt ngắm say mê
Em tôi cảm biết hƣơng quê trăm miền
Đậm đà mật nhãn Hƣng Yên
Thủ đô – mật của hoa tim say nồng
- Xem thêm -