Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn so sánh cơ chế thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại việt nam với ...

Tài liệu Luận văn so sánh cơ chế thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại việt nam với hoa kỳ

.PDF
55
1
80

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ HUỲNH THỊ HOÀI TRÂM SO SÁNH CƠ CHẾ THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VỚI HOA KỲ CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ - LUẬT TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT SO SÁNH CƠ CHẾ THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VỚI HOA KỲ SINH VIÊN THỰC HIỆN: HUỲNH THỊ HOÀI TRÂM Khóa: 41 MSSV: 1651101030148 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. TRƯƠNG THỊ TUYẾT MINH TP HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN “Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Trương Thị Tuyết Minh, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam kết này.” Ký tên Huỳnh Thị Hoài Trâm DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT BHTG Bảo hiểm tiền gửi DC Phó kiểm soát viên thuộc Cục kiểm soát tiền tệ liên bang Hoa Kỳ (Deputy Comptroller) FDIC Công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang Hoa Kỳ (Federal Deposit Insurance Corporation) FED Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Federal Reserve System) GSNH Giám sát ngân hàng NHNN Ngân hàng nhà nước NHQG Ngân hàng quốc gia NHTW Ngân hàng trung ương OCC Cục kiểm soát tiền tệ liên bang Hoa Kỳ (Office of Currency) the Comptroller of the TCTD Tổ chức tín dụng TT,GSHTNH Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng TT,GSNH Thanh tra, giám sát ngân hàng TTNH Thanh tra ngân hàng TTTC Thị trường tài chính UBGSTCQG Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ HOA KỲ ................................7 1.1. Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam ......................................................................................................7 1.2. Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ .........................................................................................................9 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................12 Chương 2: SO SÁNH MÔ HÌNH THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ HOA KỲ.....................................................13 2.1. Các mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng trên thế giới .13 2.1.1. Phân loại theo đối tượng (lĩnh vực) được giám sát: ......................13 2.1.2. Phân loại theo định chế chủ thể: ....................................................14 2.2. Mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam .......15 2.3. Mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ ..........16 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................20 Chương 3: SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VỚI HOA KỲ ............................21 3.1. Quy định về chủ thể Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng.........21 3.1.1. Quy định về chủ thể Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam ..................................................................................................21 3.1.2. Quy định về chủ thể thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ .....................................................................................................24 3.2. Quy định về đối tượng Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng.....31 3.2.1. Quy định về đối tượng Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam ..................................................................................................31 3.2.2. Quy định về đối tượng thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ .....................................................................................................34 3.3. Quy định về nguyên tắc Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng ..36 3.3.1. Quy định về nguyên tắc Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam ..................................................................................................36 3.3.2. Quy định về nguyên tắc thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ .....................................................................................................39 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................43 KẾT LUẬN ..............................................................................................................44 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh có đối tượng kinh doanh đặc biệt là tiền tệ. Do đó, ngành Ngân hàng giữ vai trò như là huyết mạch của nền kinh tế quốc gia, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ; là nguồn động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, chính bản thân hoạt động ngân hàng lại tiềm ẩn những rủi ro lớn. Các rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp, rủi ro thanh khoản,… là điều không thể nào tránh khỏi. Nếu không có một cơ chế kiểm tra, giám sát phòng ngừa rủi ro một cách hiệu quả thì những tổn thất có thể gây ra cho khách hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung là không thể lường trước được. Cho nên, hoạt động thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng (TT,GSHTNH) ra đời là hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật và tạo sự bình đẳng, phát triển bền vững cho thị trường tiền tệ. “Hoạt động TT,GSHTNH ngày càng được chú trọng ở nhiều nước trên thế giới thông qua việc áp dụng các biện pháp theo tiêu chuẩn Basel II, Basel III và khuôn khổ CAMELS. Đây là một trong những yếu tố then chốt quyết định sự phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững của hệ thống ngân hàng, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội.”1 Tùy thuộc vào hình thức tổ chức và cơ cấu hoạt động về tín dụng của mỗi quốc gia là khác nhau mà việc TT,GSHTNH sẽ khác nhau. Tại Việt Nam, TT,GSHTNH được nhận định đóng vai trò nòng cốt, hạt nhân của ngành ngân hàng. Trên thế giới, với những nước có hệ thống tài chính phát triển mạnh mẽ như Hoa Kỳ, chính sách thanh tra, giám sát lại không được phát huy hết khả năng. Xuất phát từ sự khác biệt trong pháp luật TT,GSHTNH, đặc biệt là trong cơ chế thanh tra, giám sát ngân hàng (TT,GSNH), tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “So sánh cơ chế thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam với Hoa Kỳ” nhằm tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt trong cơ chế hoạt động của thanh tra, giám sát với hệ thống ngân hàng giữa hai quốc gia, từ đó, đưa ra những đánh giá nhận xét về hai cơ chế này. Khi nhắc đến pháp luật về TT,GSNH tại Hoa Kỳ, không thể không nhắc đến cuộc khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ, là nguồn cơn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 – 2009. Khi một ngân hàng bị phá sản, đổ vỡ, đặc biệt là ngân hàng lớn, thì các ngân hàng khác sẽ đổ vỡ kéo theo (gọi là hiệu ứng dây 1 Nguyễn Thị Ái Linh (2017), “Định hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động TT,GSNH”, Tạp chí Tài chính, số 659, tháng 6/2017, tr.54 1 chuyền vì mối quan hệ đặc biệt liên ngân hàng về tín dụng, thanh toán), gây ra hậu quả khôn lường. Vì đặc trưng quá độc lập và chia nhỏ theo chức năng của các cơ quan TT,GSNH tại Hoa Kỳ nên đã không ngân cản được hiệu ứng dây chuyền xảy ra tại quốc gia này. Sự phá sản của một số định chế tài chính lớn ở Hoa Kỳ đã gây ra sự đổ vỡ của không chỉ hệ thống tài chính Hoa Kỳ mà còn gây ra sự đổ vỡ của hệ thống tài chính quốc gia khác trên phạm vi toàn cầu. Còn tại Việt Nam, từ năm 2010 trở về trước, hoạt động TT,GSHTNH vẫn chưa thực sự hiệu quả: hoạt động còn mang tính đơn lẻ, lỏng lẻo, nhiều “đại án” liên quan đến hệ thống ngân hàng gây rúng động; vai trò chỉ đạo thanh tra từ trung ương đến các chi nhánh còn mờ nhạt; các chính sách hạn chế với nguồn lực chưa phân bổ cụ thể,… Tình trạng này có thể gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thông ngân hàng và tăng cao những rủi ro khó lường. Hiện nay, đã ban hành một số quy định về TT,GSHTNH được ghi nhận tại Chương V – TT,GSNH của Luật Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam 2010; Nghị định 43/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng; Thông tư 08/2019/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 03/2015/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện Nghị định 26/2014/NĐ-CP về Tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng do Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành; Văn bản hợp nhất 16/VBHN-NHNN năm 2019 hợp nhất Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng. Cơ quan TT,GSHTNH của Việt Nam thành lập tháng 8/2009 theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Tác giả cho rằng không có cơ chế nào là hoàn thiện ngay từ đầu, cần có những nghiên cứu chuyên sâu để có nhìn toàn diện hơn nữa về hoạt động TT,GSHTNH hiện nay, có thể cụ thể trong từng khía cạnh như cơ chế hoạt động, cơ quan đứng đầu, mô hình và đối tượng…; để đưa ra những đề xuất hoàn thiện hoạt động này. Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả đưa ra kiến nghị dựa trên cơ sở phân tích cơ chế của hoạt động TT,GSHTNH của hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ (bao gồm mô hình, chủ thể, đối tượng và nguyên tắc của hoạt động). 2. Tình hình nghiên cứu Đề tài “So sánh cơ chế thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam với Hoa Kỳ” liên quan đến pháp luật hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ trong hoạt động TT,GSNH nên có rất nhiều nguồn tài liệu tham khảo và các công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan. Về giáo trình, tác giả chủ yếu dựa trên nền tảng lý thuyết và cơ sở lý luận trong Giáo trình Luật Ngân hàng (tái bản lần thứ nhất) năm 2015 của trường Đại 2 học Luật TP. Hồ Chí Minh; cung cấp kiến thức chung về thanh tra trong lĩnh vực tiền tệ nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Về bài viết trong một số tạp chí chuyên ngành, tác giả Nguyễn Thị Ái Linh đã có bài viết “Định hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động TT,GSNH” đăng trên Tạp chí Tài chính số 659 năm 2017 xoay quanh vấn đề về thực trạng hoạt động TT,GSNH và hướng đi tương lai của hoạt động này. Bài viết “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về cơ quan GSNH ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Chu Thị Thanh An trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 320 năm 2014 đã phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về cơ quan giám sát ngân hàng (GSNH) ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định này. Về các công trình nghiên cứu, tác giả tìm hiểu một số công trình nghiên cứu về hoạt động TT,GSNH tại Việt Nam, có thể kể đến các công trình nghiên cứu của trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh như: Đề tài nghiên cứu “Giải pháp cải thiện hiệu quả hoạt động thanh tra GSNH” của tác giả Nguyễn Đức Bình năm 2012 đã khái quát hoạt động thanh tra GSNH và nghiên cứu tình huống Công ty cho thuế tài chính II và cho vay VINASHIN của các ngân hàng thương mại (NHTM), Đề tài “Hoàn thiện hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam đối với hệ thống NHTM Việt Nam” của tác giả Hà Trang Phương Anh năm 2016;… Và công trình khác trên cả nước như Luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động thanh tra, giám sát của Thanh tra NHNN tại Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan năm 2014. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ cung cấp kiến thức để tác giả nghiên cứu về pháp luật TT,GSHTNH tại Việt Nam. Về các tài liệu liên quan đến pháp luật TT,GSNH tại Hoa Kỳ, cần tìm kiếm các nguồn tài liệu tiếng Anh, vì hiện tại chưa có công trình cụ thể nào nghiên cứu về vấn đề này; trong đó có tài liệu “Lessons from the history of bank examination and supervision in the United States, 1863-2008” của tác giả Eugene N. White nghiên cứu năm chế độ TT,GSNH riêng biệt trong lịch sử ngân hàng Hoa Kỳ và làm sáng tỏ những khó khăn trong việc xây dựng một chế độ hiệu quả đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Tác giả tìm hiểu một số tài liệu liên quan trong lĩnh vực pháp luật ngân hàng nước ngoài như Luận văn Thạc sĩ “Địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo pháp luật của một số nước trên thế giới” của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang năm 2015. Nhìn chung, có khá nhiều tài liệu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến khóa luận giúp tác giả có thể tiếp cận một cách toàn diện đầy đủ về pháp luật 3 TT,GSHTNH, đặc biệt là cơ chế TT,GSHTNH tại Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề so sánh cơ chế TT,GSHTNH với quốc gia khác là đề tài mới mẻ và chưa có công trình nghiên cứu nào trước đó. Đây cũng là động lực để tác giá nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật liên quan đến khía cạnh này, cũng như những yếu tố kinh tế - chính trị xoay quanh nó, thông qua tiếp cận hai hệ thống ngân hàng của hai quốc gia với thể chế khác biệt là Việt Nam và Hoa kỳ để có thể đưa ra những đánh giá tổng quan nhất về các cơ chế hoạt động TT,GSHTNH hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu Cơ quan TT,GSNH được thành lập tại Việt Nam mới hơn 10 năm, thực hiện hoạt động TT,GSNH mới được thúc đẩy từ những năm 2010-2016 trở về sau. Mặc dù pháp luật về TT,GSNH đã tồn tại trong Luật NHTM và các văn bản dưới luật nhưng vẫn còn những điểm cần điều chỉnh, hoàn thiện thêm. Tác giả chọn đề tài khóa luận này với mục đích hướng đến là: - Phân tích và so sánh cơ sở hình thành và mô hình TT,GSHTNH của Việt Nam và Hoa Kỳ, làm tiền đề để so sánh pháp luật về cơ chế hoạt động này giữa hai quốc gia. - Nghiên cứu khái quát quy định pháp luật về cơ chế TT,GSNH tại Việt Nam (chủ thể, đối tượng, nguyên tắc thực hiện), một số vướng mắc trong quy định về cơ quan TT,GSNH thời kỳ trước khủng hoảng kinh tế năm 2007-2009, những thay đổi và vì sao lại có sự thay đổi. - Pháp luật Hoa Kỳ quy định như thế nào về vấn đề TT,GSNH và khác biệt gì so với Việt Nam? Cơ chế TT,GSHTNH được áp dụng ở nước này ra sao và quy định ở đâu? So sánh sự khác biệt hai cơ chế tại Việt Nam và Hoa Kỳ; từ đó đưa ra một số kiến nghị đối với Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Để đảm bảo sự phù hợp và đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu mà tác giả hướng đến là những kiến thức lý luận chung, quy định pháp luật hiện hành và thực trạng áp dụng quy định pháp luật về cơ chế TT,GSNH tại Việt Nam, cũng như là các lý luận, đạo luật và thực tiễn áp dụng của Hoa Kỳ về cơ chế TT,GSHTNH. Theo đó, phạm vi nghiên cứu của tác giả là tìm hiểu và phân tích các quy định pháp luật về cơ chế (chủ thể, mô hình, đối tượng và nguyên tắc) của TT,GSHTNH (1) đối với Việt Nam: tại Luật NHNN Việt Nam 2010; Nghị định 43/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của 4 Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng; Thông tư 08/2019/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 03/2015/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện Nghị định 26/2014/NĐ-CP về Tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng do Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành; Văn bản hợp nhất 16/VBHN-NHNN năm 2019 hợp nhất Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng. Cơ quan TT,GSHTNH của Việt Nam thành lập tháng 8/2009 theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ cũng như thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về TT,GSNH… (2) Đối với Hoa Kỳ: tại các đạo luật chủ yếu được các cơ quan TT,GSNH sử dụng: Bộ 12 USC (United State Cores); Cục kiểm soát tiền tệ liên bang (OCC) điều lệ theo Đạo luật ngân hàng quốc gia (12 USC 1 và tiếp theo), các hiệp hội tiết kiệm liên bang điều lệ theo Đạo luật Cho vay của Chủ sở hữu Nhà năm 1933 (12 USC 1461 và tiếp theo); quy định của OCC nằm trong tiêu đề 12 của Bộ Quy tắc Liên bang, "Ngân hàng và Ngân hàng" (12 CFR 1– 199); Đạo luật Dự trữ liên bang quy định các mục đích, cấu trúc và chức năng của Hệ thống cũng như vạch ra các khía cạnh hoạt động và trách nhiệm giải trình của Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED); Đạo luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) liên bang điều lệ và nội dung hoạt động TT,GSNH của Công ty BHTG Liên bang Hoa Kỳ (FDIC). Bên cạnh đó mỗi cơ quan ban hành các điều lệ và sổ tay hướng dẫn trong hoạt động thanh tra ngân hàng (TTNH) và GSNH. 5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, cụ thể như sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc tìm hiểu, tra cứu, lựa chọn các thông tin, nguồn tài liệu liên quan đến khóa luận. Tác giả tiến hành phân tích các vấn đề được đặt ra đầu mỗi chương và cuối mỗi chương sẽ tổng hợp lại thành một kết luận chung nhất, truyền tải các nội dung đó xuyến suốt cả khóa luận. Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng khi liên hệ những đặc điểm pháp luật giữa hai hệ thống ngân hàng Việt Nam và Hoa Kỳ trong cơ chế TT,GSHTNH. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp đánh giá những nội dung đã so sánh và phân tích ở các chương (đặc biệt là nội dung so sánh ở chương 2). Từ đó, dựa trên cơ sở phương pháp nhận xét để đưa ra những ý kiến về hai cơ chế TT,GSHTNH và ý nghĩa kinh tế của chúng. 6. Bố cục tổng quát của khóa luận 5 Ngoài phần mở đầu, để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu là so sánh quy định pháp luật TT,GSHTNH giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, khóa luận được kết cấu thành các chương như sau: Chương I: Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam và Hoa Kỳ Chương II: So sánh mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam và Hoa Kỳ Chương III: So sánh pháp luật về cơ chế thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam và Hoa Kỳ 6 Chương I CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ HOA KỲ 1.1. Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam Trước năm 1986, NHNN Việt Nam hoạt động mang tính phục vụ tự cung tự cấp, không theo cơ chế thị trường. Sau năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước đã có những thay đổi về chính sách hoạt động ngân hàng. Mô hình hệ thống ngân hàng phát triển từ một cấp sang hai cấp2. Thay đổi này giúp hoạt động điều hành, quản lý giám sát và kinh doanh ngân hàng tiệm cận mạnh mẽ với cơ chế kinh tế thị trường. Đồng thời, NHNN bắt đầu hình thành các công cụ chính sách như dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản…và hình thành bộ máy thanh tra, giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ, tín dụng3, trong đó có TT,GSHTNH. Qua hơn hai mươi năm phát triển, hoạt động ngân hàng tại Việt Nam đang giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế - tài chính quốc gia. Trước hết, hoạt động ngân hàng góp phần vào việc kiềm chế lạm phát, cụ thể: Để làm giảm lượng tiền trong lưu thông khi xảy ra lạm phát, các ngân hàng thu hút lại lượng tiền nhàn rỗi trong nhân dân vào ngân hàng thông qua các hoạt động miễn, giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa trong các lĩnh vực ưu tiên; tăng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút lượng nội tệ từ lưu thông vào ngân hàng và tránh tình trạng người gửi tiền rút tiền VND ra mua ngoại tệ (USD,...) để bán kiếm lời gây mất giá đồng tiền trong nước so với ngoại tệ; phát hành trái phiếu để huy động và cân bằng lại nguồn vốn trung, dài hạn; và các chính sách tiền tệ khác. Tiếp đến, hoạt động ngân hàng góp phần ổn định tỷ giá: Để giữ cho cán cân tỷ giá hối đoái luôn ở trạng thái cân bằng, NHNN thay đổi lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh cung - cầu ngoại hối khi tỷ giá có biến động mạnh; tiến hành mua bán ngoại hối trên thị trường thông qua các công cụ nghiệp vụ thị trường mở, cụ thể là NHNN thông qua các NHTM sẽ tung ngoại tệ dự trữ ra bán trực tiếp trên thị trường làm tăng cung về ngoại hối khi tỷ giá cao và ngược lại mua ngoại tệ vào khi tỷ giá thấp. Hơn nữa, hoạt động ngân hàng giúp 2 Mô hình hệ thống ngân hàng một cấp trong thời kỳ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cụ thể NHNN là ngân hàng thực hiện mọi hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng. Ngược lại, với mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp, NHNN chỉ giữ vai trò là NHTW và cơ quan quản lý nhà nước, còn hoạt động ngân hàng sẽ được thực hiện bởi các TCTD thuộc nhiều thành phần kinh tế, hoạt động cạnh tranh và bình đẳng. (Tham khảo Trần Vũ Hải (2010), Giáo trình luật Ngân hàng Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, tr.37) 3 Hồng Quân, “Mô hình ngân hàng hai cấp: Một cuộc cách mạng”, https://thoibaonganhang.vn/mohinh-ngan-hang-hai-cap-mot-cuoc-cach-mang-48288.html, truy cập ngày 27/6/2021. 7 cung ứng vốn kịp thời cho sản xuất thiết yếu: Hệ thống ngân hàng triển khai các chương trình, chính sách tín dụng ngân hàng, các gói, sản phẩm cho vay ưu đãi phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng trong các lĩnh vực ưu tiên, theo chỉ đạo của Chính phủ như nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội... Cuối cùng, hoạt động ngân hàng giữ vững thanh khoản cho cả hệ thống ngân hàng: Để đảm bảo khả năng đáp ứng tức thời nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng theo cam kết, hệ thống ngân hàng đưa ra mức tối thiểu tiền mặt phải duy trì thường xuyên, đẩy mạnh hoạt động BHTG,... Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng phải thường xuyên đối mặt với một số rủi ro khi tiến hành hoạt động của họ. Các rủi ro chính trong hoạt động ngân hàng bao gồm: Một là, rủi ro tín dụng, xuất phát ở hai góc độ là rủi ro từ huy động vốn và rủi ro trong cho vay, phát sinh khi người vay vốn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã hứa. Rủi ro này khả năng gây ra tổn thất lớn đối với các ngân hàng, như tổn thất về tài chính, giảm giá trị thị trường của vốn ngân hàng, trong trường hợp nghiêm trọng hơn có thể làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị thua lỗ, thậm chí là phá sản ngân hàng. Đối với nền kinh tế, một khi rủi ro tín dụng xảy ra, uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng ảnh hưởng dẫn đến người gửi tiền và các tổ chức đang có tiền gửi tại ngân hàng ồ ạt rút tiền và chấm dứt quan hệ, gây mất cân bằng thị trường tiền tệ đột ngột. Hai là, rủi ro thanh khoản, xảy ra khi mà ngân hàng đang trong tình trạng thiếu vốn hoạt động, không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu chi trả và cho vay đối với khách hàng, cũng như nhu cầu đầu tư cho nền kinh tế. Rủi ro này xảy ra có thể ảnh hưởng đến người gửi tiền khi mà đến cả nhu cầu rút tiền đột xuất hoặc thường xuyên của khách hàng ngân hàng cũng không đáp ứng được. Ba là, rủi ro thị trường, xảy ra do biến động bất lợi của lãi suất, tỷ giá, giá chứng khoán và giá hàng hoá trên thị trường, bao gồm: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro vốn cổ phần, rủi ro hàng hóa. Bốn là, rủi ro hoạt động, phát sinh từ việc thực hiện các chức năng kinh doanh của ngân hàng, có thể do nguyên nhân nội bộ (quy định, con người, hệ thống) hoặc bên ngoài (rủi ro tác nghiệp, pháp luật, thiên tai,...); ảnh hưởng rất lớn đến tài sản và uy tín của ngân hàng. Và nhiều rủi ro khác, như rủi ro danh tiếng liên quan đến độ tin cậy của kinh doanh; rủi ro kinh tế vĩ mô liên quan đến nền kinh tế tổng hợp mà ngân hàng đang hoạt động trong đó. Tất cả các rủi ro này đều có nguy cơ đe dọa đến hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng và gây ảnh hưởng toàn bộ nền kinh tế. Thị trường càng hoạt động sôi nổi, rủi ro càng cao và khó phát hiện. Có thể thấy, với vai trò vô cùng quan trọng thì việc hoạt động ngân hàng phát sinh những rủi ro nói trên gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế - tài chính của 8 cả một quốc gia. Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam với tư cách trung gian tín dụng cần phải quản trị tốt rủi ro cũng như đảm bảo an toàn tiền gửi của người gửi tiền, an toàn tín dụng trong hệ thống ngân hàng, từ đó đảm bảo an toàn cho cả dòng chảy kinh tế - tài chính. Chính vì vậy, cần sự ra đời của pháp luật liên quan đến TT,GSHTNH để đánh giá mức độ an toàn, khả năng rủi ro của các TCTD, từ đó khuyến nghị các TCTD có biện pháp khắc phục rủi ro, đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Việc TT,GSNH xoay quanh các nội dung về giám sát hoạt động quản trị, các nghiệp vụ chính, cũng như các rủi ro có thể xảy ra (rủi ro thị trường, ro thanh khoản, rủi ro chuyển đổi,…). Do đó, để đảm bảo thực hiện một cách hiệu quả, cần sự có mặt của cơ quan TT,GSNH mang quyền lực nhà nước. 1.2. Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ Thị trường tài chính (TTTC) Hoa Kỳ (trong đó có hệ thống ngân hàng) vốn là được biết đến là TTTC mạnh mẽ trên thế giới, đứng đầu không chỉ về số lượng mà còn về chi nhánh. Trong lịch sử phát triển của tài chính – tiền tệ, có hai mô hình thu hút đầu tư được hình thành: Mô hình thứ nhất tập trung vào tài chính ngân hàng, được gọi là Mô hình lục địa; Mô hình thứ hai được gọi là Anglo-Saxon, mà TTTC của Hoa Kỳ được đặc trưng bởi mô hình này. Đặc điểm chính của mô hình AngloSaxon là tỷ lệ vốn cổ phần cao, sự tham gia hạn chế của các ngân hàng trong việc cho vay đối với nền kinh tế và sự tồn tại của một số lượng lớn các quỹ đầu tư khác nhau. Đặc biệt, đặc trưng tiêu biểu của mô hình này là ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do; trong đó phải kể đến Lý thuyết Bàn tay vô hình (Invisible Hand) của Adam Smith4. Theo đó, vai trò của Chính phủ - chủ thể góp phần kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của nhà đầu tư với sự tham gia ngày càng lớn và sự xuất hiện ngày càng đa dạng các công cụ tài chính mới trên thị trường để khắc chế lòng tham nhà đầu tư và rủi ro trong hệ thống tài chính, ngân hàng một cách kịp thời – bị loại bỏ và xem nhẹ. Tại Hoa Kỳ, “việc thiếu vắng sự điều tiết kịp thời, mạnh tay của Chính phủ, “bàn tay vô hình” có thể dẫn dắt thị trường tự do đến trạng thái hỗn loạn”5; khủng hoảng tài chính là trạng thái như vậy. Cuộc khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ (2008) là minh chứng tiêu biểu, khiến Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới phải nhìn nhận lại cơ chế giám sát hệ thống tài chính của mình. 4 Smith đã tuyên bố rằng, trong nền kinh tế thị trường tự do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và xu hướng lợi ích riêng cho cá nhân mình, và chính các hành động của những cá nhân này lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho toàn cộng đồng thông qua một "bàn tay vô hình". 5 Trịnh Thị Hoa Mai (2009), “Vai trò của Nhà nước đối với TTTC. Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, số 25/2009, tr. 202 9 Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ là do sự yếu kém của cơ chế giám sát tài chính ngân hàng trước sự phát triển của TTTC ngân hàng, các công cụ, sản phẩm tài chính. Chẳng hạn như chuẩn mực cho vay bị xem nhẹ khi mà ngân hàng cho vay với những con nợ “dưới chuẩn”, hệ thống GSNH không có những hành động kịp thời trước sự phát triển chằng chịt của chứng khoán hóa,…6 Do vậy, Chính phủ Hoa Kỳ bên cạnh đưa ra các giải pháp tức thời để khắc phục những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng, đã rà soát lại thể chế, khuôn khổ pháp lý hiện hành về giám sát tài chính nói chung và GSNH nói riêng để ngăn chặn nguy cơ bùng nổ cuộc khủng hoảng tương tự7. Pháp luật TT,GSNH ra đời tại Hoa Kỳ được xem như là một “dây cương” để giữ cho các định chế tài chính hoạt động ngân hàng tránh vượt tầm kiểm soát trong điều kiện TTTC ngân hàng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và đầy phức tạp tại quốc gia này. Tóm lại, việc đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng chính là để bảo đảm an toàn cho nền kinh tế một quốc gia, hỗ trợ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia đó, phần nào mang ý chí và nguyện vọng của chính nhà nước đó. Việt Nam và Hoa Kỳ cũng không nằm ngoài quy luật này. Theo quan điểm của Ủy ban Basel về GSNH thì “sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, có thể đe doạ đến sự ổn định về tài chính trong cả nội bộ quốc gia đó và trên trường quốc tế.”8 Do đó, điều cấp thiết là cần phải ngày càng nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính của các quốc gia và khu vực trên thế giới nói chung và đặc biệt quan tâm đến chính thanh tra, giám sát nghiệp vụ ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, vì quá trình phát triển TTTC - ngân hàng giữa hai quốc gia là khác nhau nên pháp luật và cơ chế TT,GSHTNH giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có điểm 6 Phan Thị Mai Trang (2014), Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động GSNH sau khủng hoảng, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 31-32 7 Hoa Kỳ đã thực hiện chương trình khảo sát từ 30/5 đến 9/6/2007, với hơn 25 cuộc tọa đàm và nhiều hoạt động chuyên môn khác được Hoa Kỳ chuẩn bị dày đặc, công phu. Các bài trình bày ngắn gọn, thiết thực đã chuyển tải nhiều thông tin bổ ích, phức tạp về cơ chế thanh tra – giám sát tài chính (trong đó có TT,GSNH) ở Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, vì tính chất phức tạp của hệ thống cơ quan TT,GSNH nên Chính phủ liên bang đã thành lập hàng loạt các diễn đàn cơ quan như Hội đồng kiểm tra các định chế tài chính liên bang (FFIEC), Ủy ban hạ tầng thông tin ngân hàng (FBIIC), Ủy ban giáo dục và kiến thức tài chính, Hội nghị cơ quan GSNH cấp bang (CSBS),…để bàn thảo, gợi ý đưa ra chính sách, chuẩn mực,… và mong trở thành chuẩn mực chung cho các các cơ quan giám sát khác nhau áp dụng thống nhất toàn Liên bang. Nhưng hiện tại các tổ chức này mới chỉ mang tính chất diễn đàn mà chưa đủ tài lực để vạch ra chính sách chống rủi ro một cách có hiệu lực cho ngành tài chính - ngân hàng đầy phức tạp tại Hoa Kỳ. 8 Trần Ngọc Linh, “Các nguyên tắc Basel về TT,GSNH hiệu quả”, https://tinnhanhchungkhoan.vn/cac-nguyen-tac-basel-ve-thanh-tra-giam-sat-ngan-hang-hieu-quapost147830.html, truy cập ngày 28/3/2021. 10 khác biệt. Thị trường ngân hàng Việt Nam với lịch sử phát triển non trẻ, còn trong quá trình xây dựng. Mô hình hoạt động và đối tượng phục vụ của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì đa dạng, như Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn phục vụ chủ yếu là nông dân; Ngân hàng Chính sách xã hội phục vụ chủ yếu là hộ nghèo, hộ cận nghèo; NHTM thì phục vụ cho các doanh nghiệp, chủ đầu tư;… Do đó, cơ chế TT,GSNH của Việt Nam còn thiếu sự đồng bộ, chặt chẽ. Pháp luật TT,GSNH ra đời là đai an toàn để Việt Nam kiểm soát những rủi ro có thể phát sinh, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, đối tượng phục vụ của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ là các quốc gia thiếu vốn, các doanh nghiệp và tập đoàn lớn. Cho nên, pháp luật TT,GSNH ở Hoa Kỳ có mặt song song với tốc độ phát triển của thị trường ngân hàng sôi động, vừa bảo đảm an toàn, vừa là kiềm hãm sự ra đời của hàng loạt công cụ tài chính, định chế tài chính mới với những nguy cơ tiềm ẩn trong hệ thống. 11 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 1 khắc họa hai cơ sở khác nhau để hình thành nên pháp luật TT,GSHTNH mỗi quốc gia: Hoạt động TT,GSHTNH tại Việt Nam ra đời để quản trị tốt rủi ro, bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng mới tồn tại hơn hai mươi năm, từ đó bảo vệ dòng chảy kinh tế - tài chính mà hệ thống ngân hàng giữ vai trò chủ chốt. Trong khi đó, nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của cơ chế TT,GSNH tại Hoa Kỳ bao gồm: Sự phát triển mạnh mẽ của TTTC – ngân hàng cùng nhiều loại hình công cụ tài chính ra đời tạo nên một hệ thống tài chính – ngân hàng phức tạp, khác biệt với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới; Cơ chế thị trường hoạt động “vô chính phủ” với sự tự do quá mức gây nên sự hỗn loạn mà tiêu biểu là các cuộc khủng hoảng kinh tế; thêm vào đó, cơ chế TT,GSNH ở Hoa Kỳ chưa được chú trọng đúng mức. Do đó, khi cuộc khủng kinh tế năm 2007- 2009 bùng nổ gây ra sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn đã khiến Hoa Kỳ nhìn nhận lại cơ chế TT,GSNH của nước mình. Hoa Kỳ không nằm ngoài quy luật rằng pháp luật TT,GSNH ra đời nhằm “đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng cũng như dòng chảy kinh tế - tài chính” mà Việt Nam và Ủy ban Basel đang nhận định, nhưng là sự biến tướng khác đi và nhanh hơn để phù hợp với thực tiễn của TTTC Hoa Kỳ. Đây cũng là bài học trong tương lai khi hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa. 12 Chương 2 SO SÁNH MÔ HÌNH THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ HOA KỲ 2.1. Các mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng trên thế giới 2.1.1. Phân loại theo đối tượng (lĩnh vực) được giám sát: Trên thực tế, hệ thống tài chính phân chia thành nhiều lĩnh vực, trong đó chủ yếu là ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán (ngoài ra ở một số quốc gia còn có hưu trí, nguyên vật liệu,…). Việc giám sát tài chính bao gồm cả giám sát hệ thống ngân hàng và các bộ phận tài chính khác nhằm hướng đến mục tiêu chung là phát triển hệ thống tài chính lành mạnh, bền vững, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư và người gửi tiền. Mỗi quốc gia sẽ có cơ chế GSNH tương thích với mô hình giám sát tài chính riêng, tùy theo đối tượng/lĩnh vực phù hợp với đặc điểm tài chính của quốc gia đó. Cụ thể: Mô hình giám sát thể chế, còn gọi là Mô hình cơ quan giám sát chuyên ngành – dựa trên cách tiếp cận truyền thống. Cụ thể, trong hệ thống tài chính, mỗi chuyên ngành/lĩnh vực sẽ có cơ quan riêng giám sát toàn diện lĩnh vực mà mình đảm nhiệm “với mục tiêu: đảm bảo nguyên tắc kinh doanh, bảo vệ khách hàng và ổn định hệ thống tài chính.”9 Đối với hệ thống ngân hàng, cơ quan TT,GSNH thuộc Ngân hàng trung ương (NHTW) và đảm nhiệm việc thanh tra, giám sát toàn bộ hệ thống ngân hàng. Cơ quan này hoạt động độc lập với cơ quan thanh tra, giám sát của chuyên ngành/lĩnh vực khác, tránh tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm. Hoạt động của cơ quan TT,GSNH được chuyên môn hóa với những kỹ thuật, nghiệp vụ riêng và hoạt động dưới những quy định, nguyên tắc và chuẩn mực khác biệt. Thêm vào đó, cơ quan TT,GSNH hỗ trợ NHTW trong việc dự báo và ra quyết định. Ví dụ: Ủy ban Quản lý NHTW Trung Quốc (CBRC) là cơ quan TT,GSHTNH, thực hiện giám sát hoạt động và các định chế tài chính trên toàn lãnh thổ; Bộ phận GSNH trực thuộc NHTW Séc,… Mô hình giám sát theo chức năng: việc thanh tra, giám sát được thực hiện căn cứ vào hoạt động kinh doanh của thực thể mà không quan tâm đến hình thức pháp lý của thực thể đó. Do đó, một tổ chức có thể chịu nhiều sự giám sát của nhiều cơ quan khác nhau. Loại hình dịch vụ cung cấp liên quan càng nhiều lĩnh vực, tổ chức chịu sự giám sát của càng nhiều cơ quan. Mô hình này thường được áp dụng tại các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển, với sự ra đời của nhiều sản phẩm 9 Nguyễn Thị Hòa, “Các mô hình giám sát tài chính phổ biến trên thế giới và liên hệ với Việt Nam”, https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/links/cm100?dDocName=SBV333980, truy cập ngày 03/5/2021. 13 tài chính phức tạp, kết hợp nhiều lĩnh vực (như ngân hàng - bảo hiểm, chứng khoán - bảo hiểm hay ngân hàng - chứng khoán…). Trong lĩnh vực ngân hàng, bất kỳ tổ chức nào liên quan đến hoạt động ngân hàng, cho dù có nằm trong hệ thống ngân hàng hay không, đều chịu sự giám sát của cơ quan chuyên trách trong hoạt động TT,GSNH. Thường NHTW được chỉ định là cơ quan chịu trách nhiệm thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Ví dụ: NHTW Italia, Pháp,… Mô hình Cơ quan giám sát hợp nhất – tức là chức năng giám sát ở các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán được tập trung vào một cơ quan giám sát duy nhất. Cơ quan giám sát duy nhất này có thể giám sát toàn bộ hệ thống tài chính (hợp nhất toàn bộ) hoặc chia thành hai đến ba lĩnh vực (giám sát hợp nhất từng phần). Cơ quan giám sát duy nhất này sẽ thực hiện thanh tra, giám sát cả lĩnh vực ngân hàng. Ví dụ: Cơ quan giám sát tài chính HFSA của Hungary 10, Hội đồng Tiền tệ Quốc gia CMN của Brazil11,... Mô hình giám sát lưỡng đỉnh - dựa trên nguyên tắc giám sát theo mục tiêu và dẫn đến sự phân chia chức năng giám sát đối với hai cơ quan12. Hoạt động ngân hàng sẽ được giám sát theo cơ chế: một cơ quan giám sát an toàn sẽ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, một cơ quan khác tập trung vào giám sát hoạt động giao dịch nhằm bảo vệ lợi ích khách hàng. Hai cơ quan này là những cơ quan độc lập, có quyền chủ động trong việc giám sát và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Ví dụ các quốc gia áp dụng mô hình lưỡng đỉnh như: Đức, Australia, Áo, Thổ Nhĩ Kỳ, Hà Lan… 2.1.2. Phân loại theo định chế chủ thể: Hầu hết ở các quốc gia, việc TT,GSHTNH được giao cho cơ quan TT,GSNH (tên gọi khác nhau) là một cơ quan chuyên môn có hoặc không có định chế độc lập với cơ quan quản lý nhà nước khác. Tùy thuộc vào định chế này, các nước trên thế giới sẽ áp dụng các mô hình TT,GSHTNH phù hợp. Hiện nay có ba mô hình phổ biến: Mô hình thứ nhất, Cơ quan TT,GSNH là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của NHTW, chịu sự chỉ đạo, giám sát của NHTW 10 Trước năm 2000, Hungary thành lập Cơ quan TTNH và thị trường vốn, đến sau năm 2000 thì hợp nhất Cơ quan TTNH và thị trường vốn, Thanh tra bảo hiểm và Thanh tra Quỹ hưu trí thành Cơ quan giám sát tài chính Hungary. 11 Hội đồng Tiền tệ quốc gia (CMN) chịu trách nhiệm về quản lý thanh khoản, bảo vệ tiền tệ và giám sát. 12 Cụ thể: “một cơ quan với chức năng giám sát an toàn (prudent) chịu trách nhiệm đảm bảo sự an toàn của cả hệ thống tài chính, và một cơ quan tập trung vào giám sát hoạt động kinh doanh (conduct-ofbusiness) (các hoạt động cụ thể của các tổ chức tài chính trên thị trường) nhằm bảo vệ lợi ích của khách hàng.” - Nguyễn Thị Hòa, tlđd (7). 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan