TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------
TRẦN ĐỨC HUY
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN ĐỨC HUY
KHOÁ: 42
MSSV: 1753801011072
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN HOÀNG PHƯỚC HẠNH
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Khoá luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Phước Hạnh,
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả Khoá luận
Trần Đức Huy
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
LQC
Luật Quảng cáo
LTM
Luật Thương mại
QCTM
Quảng cáo thương mại
BVHTTDL
Bộ Văn hoá- Thể thao- Du lịch
CQNB
Cơ quan ngang bộ
UBND
Uỷ ban nhân dân
BTTTT
Bộ Thông tin và truyền thông
HĐTĐSPQC
Hội đồng thẩm định sản phẩm quảng
cáo
FTC
Federal Trade Commission (Uỷ ban
thương mại liên bang Hoa Kỳ)
4A
American Association of Advertising
Agencies (Hiệp hội quảng cáo truyền
hình Hoa Kỳ)
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ....................5
Khái quát về quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông
.......................................................................................................................5
1.1.1. Khái quát về quảng cáo và quảng cáo thương mại .................................5
1.1.
1.1.2. Khái quát về phương tiện truyền thông được sử dụng trong quảng cáo
thương mại ............................................................................................................7
1.1.3.
Đặc điểm của quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông
...............................................................................................................10
Các hình thức quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông
.....................................................................................................................12
1.2.1. Quảng cáo thương mại trên phương tiện truyền thông đại chúng ........12
1.2.
1.2.2.
Quảng cáo thương mại trên phương tiện truyền thông xã hội ..............14
1.3. Đại sứ thương hiệu trong quảng cáo thương mại trên các phương tiện
truyền thông .........................................................................................................16
1.3.1. Khái niệm đại sứ thương hiệu ...............................................................16
1.3.2. Vai trò của đại sứ thương hiệu ..............................................................17
1.4. Vai trò điều chỉnh của pháp luật trong hoạt động quảng cáo thương mại
trên các phương tiện truyền thông .....................................................................18
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN
TRUYỀN THÔNG ..................................................................................................20
2.1. Những vấn đề pháp lý về quảng cáo thương mại trên các phương tiện
truyền thông .........................................................................................................20
2.1.1. Quy định pháp luật về chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo thương mại
trên các phương tiện truyền thông ......................................................................20
2.1.2. Quy định pháp luật về điều kiện quảng cáo thương mại trên các phương
tiện truyền thông .................................................................................................24
2.1.3. Quy định pháp luật về đại sứ thương hiệu trong quảng cáo thương mại
trên các phương tiện truyền thông ......................................................................30
2.2. Thực trạng áp dụng về pháp luật quảng cáo thương mại trên các phương
tiện truyền thông ..................................................................................................32
2.2.1. Sự phổ biến trong quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền
thông bằng hình thức đại sứ thương hiệu ...........................................................32
2.2.2.
Quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông vi phạm pháp
luật
...............................................................................................................35
CHƯƠNG 3: CƠ CHẾ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG- KINH NGHIỆM TỪ CÁC
NƯỚC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ......................................40
3.1. Cơ chế quản lí nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo thương mại trên các
phương tiện truyền thông ...................................................................................40
3.1.1. Thẩm quyền quản lí lĩnh vực quảng cáo thương mại trên các phương tiện
truyền thông ........................................................................................................40
3.1.2.
Cơ chế thẩm định sản phẩm quảng cáo thương mại trên các phương tiện
truyền thông ........................................................................................................42
3.1.3.
Cơ chế xử lí vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo thương mại trên các
phương tiện truyền thông ...................................................................................44
3.2. Một số quy định pháp luật về quảng cáo thương mại trên các phương
tiện truyền thông ở các nước và gợi mở cho Việt Nam ....................................46
3.2.1. Quy định pháp luật về quảng cáo ở Hoa Kỳ và Thái Lan ....................47
3.2.2. Xu hướng thay đổi chính sách pháp luật về quảng cáo thương mại trên
các phương tiện truyền thông trên thế giới.........................................................49
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ................................................................52
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự bùng nổ
của truyền thông trong mọi lĩnh vực, quảng cáo càng trở nên phổ biến hơn cả và gắn
liền với mọi mặt của đời sống xã hội. Quảng cáo chính là phương tiện hiệu quả nhất
để truyền tải thông điệp và thể hiện quan điểm một cách rõ ràng của nhà sản xuất đến
với người tiêu dùng, là cầu nối vững chắc không thể thiếu trong quá trình hình thành,
vận hành và phát triển của bất kì một thương hiệu nào. Quảng cáo còn là một sản
phẩm trí tuệ đòi hỏi tính sáng tạo cao từ đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp để có thể
kích thích được cảm quan của người tiêu dùng và tác động đến sức mua của họ đối
với sản phẩm. Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt từ thị trường, sức ép từ việc ngày
càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào việc kinh doanh trong cùng một lĩnh vực,
mỗi đơn vị cũng sẽ lựa chọn cho mình một hướng đi riêng lẻ nhưng vẫn đảm bảo
được sức hút, thì quảng cáo chính là một hoạt động được sử dụng thường xuyên và
liên tục. Trải dài quá trình lịch sử hình thành quảng cáo, cho đến thời điểm hiện tại,
sự phát triển của công nghệ ngày càng vượt bậc, nhu cầu sử dụng các phương tiện
truyền thông cũng tăng cao, chính vì lẽ đó mà quảng cáo thương mại trên các phương
tiện truyền thông vẫn có một chỗ đứng riêng, mở rộng về hình thức quy mô, thay đổi
từng ngày để phù hợp với xu thế của thời đại, hấp dẫn đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, sự thay đổi nào cũng có những bất cập nếu không được đặt trong
một khuôn khổ nhất định. Việc quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền
thông cũng không ngoại lệ. Khi việc quảng cáo thương mại trên các phương tiện
truyền thông phát triển cũng đồng nghĩa với việc sẽ nảy sinh những tồn động, xuất
hiện những trường hợp lợi dụng kẻ hở của luật và gây ảnh hưởng bất lợi đến với
người tiêu dùng. Mặc dù kể từ khi quảng cáo bắt đầu nở rộ tại Viêt Nam vào đầu
những năm 2000, hệ thống pháp luật đã kịp thời ban hành Pháp lệnh số 39/2001/PLUBTVQH10 ngày 16 tháng 11 năm 2001 về quảng cáo, cho đến năm 2012 đã có văn
bản luật chuyên ngành là Luật quảng cáo số 16/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm
2012 (Luật Quảng cáo 2012) để hoàn thiện hơn việc điều chỉnh hoạt động quảng cáo
và vẫn còn hiệu lực cho đến thời điểm hiện tại. Song, vẫn còn nhiều vấn đề bị bỏ ngỏ
và chưa thật sự phù hợp với tình hình thực tiễn dẫn đến việc vi phạm pháp luật về
quảng cáo thương mại của các chủ thể vẫn còn tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau, đặc biệt là việc quảng cáo trên các phương tiện truyền thông. Đó là những vấn
đề như: Trách nhiệm của một đại sứ thương hiệu khi quảng cáo sai sự thật, hay sự
quy định chồng chéo giữa các văn bản chuyên ngành, cơ chế quản lí của nhà nước
1
trong hoạt động quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông…
Chính vì lẽ đó, mà tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về quảng cáo thương
mại trên các phương tiện truyền thông” làm khoá luận tốt nghiệp để tìm hiểu,
nghiên cứu, tổng hợp, từ đó có thể đưa ra một giải pháp cụ thể, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tài liệu nước ngoài
Hiện nay các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài về quảng cáo
ngày càng phổ biến. Tuy nhiên các công trình này chủ yếu tập trung về khía cạnh
kinh tế cũng như nghiệp vụ quảng cáo, cụ thể là:
Iu.A.Suliagin và V.V.Petrov (2007), Nghề quảng cáo, Nhà xuất bản Thông tấn
Hà Nội. Sách tập trung làm rõ khái niệm, bản chất và thể loại chính của quảng cáo,
các công cụ quảng cáo và ngôn ngữ quảng cáo, những yếu tố tâm lí và giáo dục quảng
cáo.
Arrmand Dayan (2001), Nghệ thuật quảng cáo, Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh. Sách đưa ra một ý niệm toàn vẹn về những cơ cấu chuyển động cần có của
quảng cáo, cách tiếp cận quảng cáo và cách thực hiện một chiến dịch quảng cáo.
Asty Almaida, A. Nur Baumassepe, Widi Fatima Azzahra, Social Media
Infuencers vs. Brand Ambassador for Brand Image, Economic and Business Faculty,
Department of Management, University of Hasanuddin, Indonesia. Công trình nghiên
cứu tập trung khía cạnh pháp lý về đại sứ thương hiệu trong quảng cáo thương mại.
2.2. Tài liệu trong nước
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu các đề tài pháp luật về quảng cáo trong những
năm gần đây đã trở nên rộng mở khi ngày càng có nhiều tác giả lựa chọn chủ đề này
để làm đề tài cho các luận án, luận văn của mình. Điều đó cho thấy pháp luật về quảng
cáo vẫn cần có những điều chỉnh hoàn thiện hơn. Một số tài liệu học thuật có thể kể
đến như:
Nguyễn Thị Tâm (2016), Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại,
Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội- Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam.
Trịnh Thị Hiền Trang (2014), Pháp luật về quảng cáo trên mạng internet ở
Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Tô Thị Phương (2015), Pháp luật về quảng cáo thương mại trên trang thông
tin điện tử, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Thị Hồng Nga (2019), Pháp luật về quảng cáo thương mại trên mạng
internet ở Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
2
Minh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu hiện có chủ yếu nghiên cứu bao quát
về pháp luật quảng cáo thương mại, hoặc là quảng cáo thương mại trên internet, cũng
như một số bất cập hạn chế của pháp luật Việt Nam, còn hạn chế các công trình
nghiên cứu về pháp luật quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông và
một số vấn đề xung quanh. Do đó trong khoá luận của mình tác giả sẽ tập trung nghiên
cứu về pháp luật quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông, đi cùng
với những điểm mới so với các luận án, luận văn trước đó như:
i)
Hình thức quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông mới
xuất hiện cần sự điều chỉnh của pháp luật;
ii)
Trách nhiệm pháp lý của một đại sứ thương hiệu;
iii)
Quản lí nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo thương mại theo cơ chế “hậu
iv)
kiểm” với hội đồng thẩm định sản phẩm quảng cáo;
So sánh pháp luật nước ngoài và xu hướng thay đổi pháp luật nước ngoài
trong lĩnh vực quảng cáo, gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Với khoá luận tốt nghiệp “Pháp luật về quảng cáo thương mại trên các
phương tiện truyền thông”, tác giả mong muốn đạt được những mục đích sau:
Thứ nhất, hệ thống và khái quát những lý luận chung về quảng cáo và quảng
cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông.
Thứ hai, phân tích làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về pháp luật quảng
cáo trên các phương tiện truyền thông, những vấn đề khúc mắc khi áp dụng pháp luật
trong đời sống xã hội.
Thứ ba, tìm hiểu quy định của pháp luật các nước về quảng cáo thương mại
trên các phương tiện truyền thông ở các nước, từ đó đưa ra những gợi mở cho pháp
luật Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài khoá luận là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật về quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông hiện nay.
Trong đó tập trung nghiên cứu vào các quy định của luật về sản phẩm, nội dung quảng
cáo, cơ chế quản lí nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo cùng với trách nhiệm pháp lý
của một đại sứ thương hiệu khi thực hiện quảng cáo thương mại trên các phương tiện
truyền thông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
3
hành về quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông như Luật Quảng
cáo 2012, Luật Thương mại số 36/2005/QH11 của Quốc hội ngày 14 tháng 6 năm
2005 (Luật Thương mại 2005), các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn có
liên quan.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp
chủ yếu sau:
Phương pháp phân tích tổng hợp. Tác giả vận dụng phương pháp này trong
suốt toàn bộ khoá luận để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra được
những kết luận thể hiện rõ quá trình nghiên cứu.
Phương pháp so sánh. Khoá luận đã sử dụng phương pháp này để so sánh đối
chiếu quy định của pháp luật Việt Nam về quảng cáo thương mại trên các phương
tiện truyền thông với các nước, từ đó đưa ra được những phương hướng hoàn thiện
pháp luật Việt Nam.
6. Bố cục tổng quát của Khoá luận
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quảng cáo thương mại trên các
phương tiện truyền thông
Chương 2: Những vấn đề pháp lý và thực trạng áp dụng pháp luật quảng cáo
thương mại trên các phương tiện truyền thông
Chương 3: Cơ chế quản lí hoạt động quảng cáo thương mại trên các phương
tiện truyền thông- Kinh nghiệm từ các nước và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢNG CÁO
1.1.
THƯƠNG MẠI TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
Khái quát về quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông
1.1.1. Khái quát về quảng cáo và quảng cáo thương mại
Ngày nay, không khó để chúng ta bắt gặp những mẫu tin quảng cáo từ trên
đường phố đến những kênh truyền hình, báo chí, mạng xã hội… Dù muốn hay không,
quảng cáo cũng đã len lỏi và tiếp cận vào mọi ngóc ngách trong đời sống xã hội của
con người với nhiều phương thức khác nhau.
Quảng cáo đã xuất hiện từ rất sớm trong suốt chiều dài lịch sử. “Theo Từ Điển
Bách Khoa Vương Quốc Anh (Encyclopedia Britanica), 1000 năm trước Công
nguyên, ở vùng đồng bằng Mesopotalia khu vực Lưỡng Hà đã có bảng quảng cáo
bằng đất nung đặt tiền thưởng cho ai tìm được một nô lệ bỏ trốn”1. Đây được xem là
dấu ấn khai sinh ra ngành quảng cáo trên thế giới. Cho đến năm 1941, khi đoạn phim
quảng cáo truyền hình đầu tiên được phát trên đài New York City NBC để quảng cáo
đồng hồ Bulova Watch trong thời lượng 20 giây, “đã khởi đầu cho một cuộc cách
mạng về quảng cáo truyền hình”2. Tại Việt Nam, mãi cho đến khoảng đầu những năm
2000, quảng cáo lúc này mới thật sự nở rộ khi đời sống người dân được cải thiện, nhu
cầu sản xuất gia tăng việc mua bán hàng hoá ngày càng cao vì trước đó vẫn còn nằm
trong cơ chế quan liêu, bao cấp, chưa được tự do hoá thương mại.
Trải qua những thăng trầm thay đổi, sự phát triển vượt bậc của khoa học công
nghệ, quảng cáo ngày càng chuyển mình đa dạng và phong phú hơn. Chính vì sự ra
đời và tồn tại từ rất sớm của quảng cáo, mà hiện nay có rất nhiều quan điểm về cách
hiểu của thuật ngữ “quảng cáo”.
Ở góc độ ngôn ngữ học, trong từ điển tiếng Việt đã định nghĩa: “Quảng cáo là
trình bày giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết đến nhằm tranh thủ nhiều khách
hàng”3. Theo cách hiểu này, thì quảng cáo chính là sự tập trung đến việc quảng bá để
nhằm đạt mục tiêu trong kinh doanh là bán được hàng hoá, chiêu mộ thu hút được
người tiêu dùng. Thông quá đó có thể nhận thấy được rằng cách tiếp cận về quảng
cáo ở góc độ này vẫn còn sự hạn chế, giới hạn phạm vi về cách hiểu quảng cáo chỉ
hướng đến mục đích sinh lời.
Theo cách tiếp cận về mặt xã hội học, “quảng cáo là quá trình truyền tin có
định hướng tới người mua để kích thích họ hành động mua sản phẩm và dịch vụ mà
Đào Hữu Dũng (2004), Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.16
2
“Lịch sử phát triển ngành quảng cáo trên thế giới”, https://cafebiz.vn/lich-su-phat-trien-nganhquang-cao-tren-the-gioi-20170214173506194.chn, truy cập ngày 05/4/2021
3
Chu Bích Thu, Nguyễn Ngọc Trâm, Phạm Việt Hùng, Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh, tr.372
1
5
quảng cáo đã giới thiệu và đề xuất”4. Phương diện này quảng cáo như một chất xúc
tác giữa nhà kinh doanh và người tiêu dùng.
Với góc độ kinh tế học, bản thân của chính quảng cáo đã là một hoạt động
kinh tế, vì vậy cũng có rất nhiều quan điểm. Theo tác giả Philip Kotler trong cuốn
sách “Marketing căn bản”, thì quảng cáo “là những hình thức truyền thông không
trực tiếp, được thực hiện thông qua những phương tiện truyền tin phải trả tiền và xác
định rõ nguồn kinh phí”5. Hay như Armand Dayan trong cuốn “Nghệ thuật quảng
cáo” cũng nhận định “hoạt động quảng cáo trước hết là nhằm mục tiêu lợi nhuận”6.
Một điểm chung có thể nhận thấy là các tác giả đều nhận định quảng cáo đều
mang tính thương mại. Cả ba góc độ trên đều không phân biệt giữa “quảng cáo” và
“quảng cáo thương mại” (QCTM). Tuy nhiên ở góc độ pháp lý, giữa quảng cáo và
QCTM sẽ có sự phân biệt nhất định. Điều này phụ thuộc vào ý chí của nhà làm luật.
Theo quy định của pháp luật Hàn Quốc thì “quảng cáo là thông tin hoặc giới thiệu
rộng rãi đến người tiêu dùng”7. Có thể nhận thấy trong khái niệm này không có sự
phân biệt giữa quảng cáo và QCTM, mà pháp luật Hàn Quốc theo hướng quảng cáo
chính là QCTM. Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của tác giả, Việt Nam cùng với Hoa
Kỳ là một trong số ít các quốc gia mà có sự phân biệt giữa quảng cáo và QCTM trong
nền luật pháp của mình. Pháp luật Hoa Kỳ cho rằng “vận động tranh cử hoặc các hoạt
động chính trị khác cũng là một hình thức quảng cáo và nó không được xếp vào
QCTM mà là quảng cáo phi thương mại”8.
Ở Việt Nam, Luật Quảng cáo (LQC) 2012 không có khái niệm về QCTM mà
chỉ có khái niệm về quảng cáo9. Tuy nhiên, Luật Thương mại (LTM) 2005 thì ngược
lại với LQC 2012, tức là có quy định về QCTM nhưng không có quy định về quảng
cáo, và cho đến thời điểm hiện tại vẫn còn hiệu lực thi hành10. Về nguyên tắc, LQC
2012 là luật chuyên ngành điều chỉnh về lĩnh vực quảng cáo được ban hành sau có sự
khác biệt nhưng chủ thể có thẩm quyền không ra quyết định bãi bỏ quy định về
Đinh Văn Nhiên (2015), Pháp luật về quảng cáo ở Việt Nam- Hiện trạng và phương hướng hoàn
thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội, tr.8
5
Philip Kotler (2008), Marketing căn bản, Nhà xuất bản Thống Kê, tr.76
6
Armand Dayan (2001), Nghệ thuật quảng cáo, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tr.8
7
Theo khoản 2 Điều 2 Luật Trưng bày và quảng cáo công bằng (Luật số 15699/2018) ở Hàn Quốc
(bản dịch tiếng Anh: “Advertising” to inform or present to consumers widely)
8
Nguyễn Thị Tâm (2016), Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, Luận án tiến sĩ luật học,
Học viện Khoa học Xã hội- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, tr.19
9
Theo khoản 1 Điều 2 LQC 2012 quy định: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới
thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không
có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ
tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”
10
Theo quy định tại Điều 102 LTM 2005 “QCTM là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân
để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình”
4
6
QCTM trong LTM 2005, do đó dẫn đến tình trạng tồn tại song song hai cách hiểu về
quảng cáo. Quảng cáo theo LQC 2012 bao gồm cả QCTM và quảng cáo phi thương
mại. Trong khi đó LTM 2005 thì tập trung vào mỗi QCTM. Quảng cáo phi thương
mại thường là vì mục tiêu chung của cộng đồng, không vì danh lợi của bất kì tổ chức
cá nhân nào. Còn QCTM là giới thiệu về hàng hoá dịch vụ để xúc tiến thương mại,
“có thể thu hút khách hàng đang sử dụng hàng hóa, dịch vụ của công ty khác thông
qua việc nhấn mạnh đặc điểm và những lợi ích của một nhãn hiệu cụ thể hoặc thông
qua việc so sánh tính ưu việt của sản phẩm với các sản phẩm cùng loại”11.
Trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận này, tác giả sẽ tập trung vào những
khía cạnh pháp lý của hoạt động QCTM nói chung và hoạt động QCTM trên các
phương tiện truyền thông nói riêng. Có thể hiểu QCTM mang bản chất là một hoạt
động xúc tiến thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện truyền tin dưới
dạng chữ viết, hình ảnh, âm thanh… nhằm giới thiệu các thông tin về hàng hoá, dịch
vụ, hoặc chính thương nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ đó, từ đó kích cầu khả năng
mua sắm và sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng, đáp ứng mục tiêu về doanh thu của
thương nhân. “QCTM được xem là công cụ marketing hữu hiệu để quảng bá hình ảnh
của thương nhân, hàng hoá, dịch vụ của thương nhân”12. QCTM đối với thương nhân
là một chiếc cầu nối cần thiết để mang sản phẩm dịch vụ của mình đến gần hơn với
người tiêu dùng. “QCTM là một nghệ thuật nhưng cũng là chiến trường giữa các
thương nhân trong kinh doanh”13. Bởi lẽ sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường kinh
doanh thôi thúc các thương nhân phải đưa ra cho mình được những chiến dịch quảng
cáo phù hợp để thu hút được đối tượng khách hàng tiềm năng.
Tóm lại, QCTM cũng là một phần của quảng cáo nói chung. QCTM thể hiện
rõ nét đặc tính sinh lợi nhuận. Trong suốt quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng thuật
ngữ “quảng cáo” cũng thay cho “QCTM”, vì nói đến quảng cáo là nói đến một lợi ích
nhất định về mặt kinh tế.
1.1.2. Khái quát về phương tiện truyền thông được sử dụng trong quảng cáo
thương mại
Với xu thế của thời đại, truyền thông luôn đi đầu và gắn liền với những thành
tựu. “Trong giai đoạn 2016-2020, tổng doanh thu toàn ngành Thông tin và Truyền
thông đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ, đạt hơn 3 triệu tỷ đồng so với gần 2,2 triệu
Hoàng Thị Thanh Hoa, “Phân biệt quảng cáo thông thường và quảng cáo thương mại nhìn từ góc
độ pháp lý”, https://wikiluat.com/2016/05/14/phan-biet-quang-cao-thong-thuong-va-quang-caothuong-mai-nhin-tu-goc-do-phap-ly/, truy cập ngày 07/4/2021
12
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng
hoá và dịch vụ, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.416
13
Nguyễn Thị Liệu (2016), Pháp luật về quảng cáo thương mại trên báo in ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, tr.1
11
7
tỷ đồng năm 2016”14. Có thể nói, truyền thông là một hiện tượng xã hội luôn luôn
vận động và phát triển không ngừng cùng với sự phát triển của loài người. Truyền
thông hiểu đơn giản là sự truyền đạt thông tin, là sản phẩm của xã hội và là tiêu chí
đánh giá mức độ phát triển, hình thành một xu hướng văn hoá mới.
Phương tiện truyền thông mang sứ mệnh kết nối, truyền đạt những nội dung,
những thông điệp mà doanh nghiệp muốn gửi gắm đến công chúng. Trong phạm vi
khoá luận, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu phương tiện truyền thông dưới hai hình
thức: phương tiện truyền thông đại chúng và phương tiện truyền thông xã hội.
Phương tiện truyền thông đại chúng. Đây là loại phương tiện phổ biến và mang
tính bền vững nhất. “Dưới quan điểm xã hội học, truyền thông đại chúng là một định
chế xã hội chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại, hiểu theo nghĩa là đối lập với xã hội cổ
truyền, phong kiến”15. Nói một cách dễ hiểu hơn, đây là loại phương tiện truyền thông
mang hơi thở của thời đại, thoát ly hẳn khỏi những phương tiện truyền thông truyền
thống. “Cùng với ngôn ngữ lời nói, con người thời nguyên sơ cũng đã biết dùng
những loại ký hiệu khác nhau để truyền tin”16. Ngày nay, mọi thứ đã được hoàn thiện
hơn. Những tiêu chí mà một phương tiện truyền thông đại chúng cần phải có là tính
đại chúng, tính công khai và tính khách quan. Một số phương tiện truyền thông đại
chúng nổi bật nhất là báo chí và truyền hình. Hiện nay, báo chí và truyền hình được
điều chỉnh bởi Luật Báo chí số 103/2016/QH13 của Quốc hội ngày 05 tháng 4 năm
2016 (Luật Báo chí 2016). Truyền hình cũng là một sản phẩm của báo chí với đa chức
năng. Trải qua một bề dày lịch sử, cả hai phương tiện này ngày càng phát triển với
nhiều loại hình, mang đến nhiều sự lựa chọn cho công chúng.
Phương tiện truyền thông đại chúng đã và đang đóng vai trò quan trọng trong
việc kết nối và tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của con người. “Chính các
phương tiện truyền thông đại chúng là nhân tố góp phần mạnh nhất vào việc rèn luyện
khả năng thấu cảm cũng như khả năng linh hoạt trí tuệ, khi chúng giúp cho con người
tiếp xúc được với nhiều tư tưởng khác nhau và biết được những vấn đề công cộng
của xã hội”17. Thông qua đó con người có thể tiếp cận với những câu chuyện được
kể bằng trực giác của riêng mình, có những sự chọn lọc cho chính mình.
Đối với riêng QCTM, các phương tiện truyền thông đại chúng còn mang một
Văn Phong, “Những con số ấn tượng của ngành Thông tin và Truyền thông năm 2020”,
https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/infographic/nhung-con-so-an-tuong-cua-nganh-thong-tin-vatruyen-thong-nam-2020-649296, truy cập ngày 08/4/2021
15
Trần Hữu Quang (2017), “Truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại”, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, số 7&8/2008, tr.16-19 (tr.16)
16
Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr.13
17
Daniel Lerner (1973), “Systèmes de communications et systèmes sociaux” (bản dịch tiếng Pháp)
trong Francis Balle và Jean Padioleau (Ed.), Sociologie de l’information, Textes fondamentaux, Nxb
Larousse, Paris, tr.131-145 (tr.142)
14
8
ý nghĩa thực tiễn. Chính vì thế, việc lựa chọn cân nhắc các phương tiện báo chí truyền
hình để thực hiện quảng cáo luôn là sự lựa chọn hàng đầu, nhưng phải nằm trong
khuôn khổ cho phép về tiềm lực tài chính và năng lực marketing của doanh nghiệp.
Phương tiện truyền thông xã hội. Cùng với phương tiện truyền thông đại
chúng, phương tiện truyền thông xã hội ngày càng nhận được nhiều sự lựa chọn và
sử dụng, đặc biệt là trong thời đại bùng nổ công nghệ số, mạng lưới internet phủ sóng
rộng khắp. “Truyền thông xã hội là một nhóm các ứng dụng dựa trên nền tảng web
và di động, cho phép người dùng tạo ra, chia sẻ nội dung trong tương tác xã hội trong
thời gian thực”18. Phương tiện truyền thông xã hội đóng vai trò là một môi trường kết
nối chia sẻ nội dung và tạo sự tương tác lẫn nhau giữa những người sử dụng. Hiện
nay việc quản lí và sử dụng phương tiện truyền thông mạng xã hội được điều chỉnh
bởi Nghị định 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 7 năm 2013 về quản lí,
cung cấp sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
Sự phổ biến và dễ tiếp cận của các ứng dụng công nghệ mới đã mở rộng cả
phạm vi lẫn đối tượng sử dụng phương tiện truyền thông xã hội. Theo số liệu thống
kê, “tính đến tháng 6/2020, Việt Nam có 69.280.000 người dùng sử dụng mạng xã
hội Facebook, chiếm 70,1% toàn bộ dân số. Nền tảng mạng xã hội phổ biến thứ 2 là
Youtube, với trên 15% dân số sử dụng”19. Đặc biệt trong nửa cuối năm 2019, đầu
năm 2020 vừa qua cho đến thời điểm hiện tại, một ứng dụng mạng xã hội mới vừa ra
đời là Tiktok, đã làm khuấy đảo khuynh hướng trào lưu sử dụng mạng xã hội này ở
Việt Nam, không chỉ giới trẻ mà phân bổ đa dạng ở mọi lứa tuổi. Sự phát triển một
cách nhanh chóng của các phương tiện truyền thông xã hội bên cạnh việc tạo dựng
được mảnh đất màu mỡ cho lĩnh vực QCTM, thì cũng sẽ dễ dàng tạo ra tình trạng
bão hoà và đòi hỏi các chủ thể phải sáng suốt khi vận dụng. Bởi lẽ chính các phương
tiện truyền thông xã hội “tồn tại đã là một thách thức, đứng yên có nghĩa là đã thụt
lùi”20.
“Truyền thông xã hội đã tạo ra những thay đổi căn bản trong quan hệ xã hội
giữa công chúng với nhà truyền thông”21. Điều này vừa là ưu điểm giúp cho người
dùng cùng lúc trở thành người sản xuất tin và chia sẻ tin trên phương tiện đó, nhưng
cũng đồng thời là một nhược điểm, gây khó khăn, bất cập cho công tác kiểm duyệt
Dương Thị Phương Chi (2019), Ứng dụng truyền thông xã hội trong hoạt động tiếp thị, Tạp chí
Thông tin và tư liệu, số T3/2019, tr.21-25 (tr.22)
19
Hải Ninh, “Số liệu thống kê: Việt Nam có 69.280.000 người sử dụng Facebook”,
https://vietnamnet.vn/vn/goc-nhin/so-lieu-thong-ke-viet-nam-co-69-280-000-nguoi-su-dungfacebook-700013.html, truy cập ngày 12/4/2021
20
GAM7, Nhi Lê (2019), Mạng xã hội #10yearchallenge, Nhà xuất bản Lao Động, tr.27
21
Đặng Thị Thu Hương (2015), Truyền thông đại chúng, truyền thông xã hội và dư luận xã hội, Tạp
chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 2(12)/2015, tr.64-70 (tr.68)
18
9
nội dung quảng cáo. Đây cũng chính là điểm khác biệt so với phương tiện truyền
thông đại chúng.
Nhìn chung, cả hai loại phương tiện truyền thông đại chúng và truyền thông
cá nhân đều được vận dụng rất linh hoạt trong hoạt động QCTM. Đây đều là những
phương tiện truyền thông hữu hiệu, góp phần giúp cho hoạt động QCTM của các
thương nhân đến gần hơn với công chúng, xây dựng được thương hiệu và kết nối,
nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
1.1.3. Đặc điểm của quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông
1.1.3.1.
Quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông là một hoạt
động xúc tiến thương mại hữu hiệu
QCTM trên các phương tiện truyền thông là một hoạt động xúc tiến thương
mại22 hữu hiệu vì ngoài việc nhằm tìm kiếm khách hàng cho chính thương nhân, thì
nó còn mang ý nghĩa tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh. “Hoạt động xúc tiến
thương mại chỉ hình thành trong cơ chế thị trường, khi mà có nhiều chủ thể kinh
doanh cùng có khả năng cung cấp một loại hàng hoá dịch vụ còn người tiêu dùng thì
có khả năng lựa chọn để mua hàng hoá dịch vụ phù hợp với nhu cầu của mình”23.
Thương nhân có cho mình nhiều sự lựa chọn để thực hiện hoạt động xúc tiến
thương mại, mang sản phẩm, dịch vụ của mình đến gần hơn với người tiêu dùng
nhưng QCTM vẫn là một sự lựa chọn tối ưu. “Với tư cách là một hoạt động thương
mại, hoạt động QCTM phải là một công việc thường xuyên của thương nhân, việc
quảng cáo hàng hoá, dịch vụ phải mang tính bền vững lâu dài, đối tượng quảng cáo
phải mang tính điển hình và đại trà”24. Điều này sẽ giúp phát huy được khả năng xúc
tiến hoạt động thương mại trên diện rộng, có thể mở rộng được đối tượng khách hàng
tiềm năng mà ngay từ ban đầu đôi khi không phải là chủ đích của thương nhân muốn
hướng đến.
Có thể thấy, đặc tính xúc tiến thương mại vốn dĩ là một trong những đặc tính
cơ bản của QCTM. Với việc sử dụng phương tiện truyền thông để thực hiện quảng
cáo, đây được xem là một công cụ xúc tiến thương mại hữu hiệu hơn cả, vì vận dụng
được những công nghệ tân tiến, có nhiều sự lựa chọn kết hợp sáng tạo trong nội dung,
từ đó đón nhận được sự chú ý rộng rãi của công chúng, thực hiện được mục tiêu
quảng bá giới thiệu sản phẩm dịch vụ của mình.
Theo định nghĩa tại khoản 10 Điều 3 LTM 2005 thì “xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy,
tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, QCTM,
trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại”
23
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam tập II, Nhà xuất bản
Tư pháp, tr.130
24
Nguyễn Thị Tâm (2016), tlđd (8), tr.26
22
10
1.1.3.2.
.
Quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông tạo tính tương
tác cao
Trong thời đại ngày nay, một quảng cáo nếu không tạo được sự tương tác giữa
nhà sản xuất với người tiêu dùng thì sản phẩm quảng cáo đó không đạt được mục
đích, đặc biệt là quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, một cách thức quảng
cáo đòi hỏi sư năng động xoay chuyển thức thời. Khác với những hình thức quảng
cáo truyền thống như quảng cáo trên các biển hiệu, quảng cáo trên các công trình
ngoài trời, không có sự tương tác hoặc có chăng cũng rất ít, thì QCTM trên các
phương tiện truyền thông rất cần sự tương tác để duy trì hoạt động quảng cáo. Sự
tương tác ở đây là lượt tiếp nhận và phản hồi của người xem đối với quảng cáo. Nói
đến đây phải kể đến chiến dịch quảng cáo của bột giặt Aba. Từ một nhãn hàng non
trẻ trong lĩnh vực sản xuất xà phòng giặt đồ, chính nhờ quảng cáo với kịch bản được
cho là “nhảm nhí” đi kèm nhiều câu thoại dài dòng không ăn khớp nhưng có “plot
twist” (cú lật ngược), sự kiên trì một mô tuýp trong suốt bảy năm mà quảng cáo Aba
đã thu hút về hàng chục triệu lượt xem trên kênh Youtube của mình, đồng thời “Aba
đã chính thức vươn lên vị trí thứ 3 trên thị trường bột giặt Việt (7% thị phần), vượt
mặt Tide (6%) để trở thành đối thủ của các thương hiệu lớn như OMO, Ariel”25. Từ
đó có thể thấy, thái độ tiếp nhận quảng cáo của người xem phản ánh chất lượng của
nội dung quảng cáo, đồng thời nó còn thể hiện sự quan tâm của công chúng đến với
hàng hoá dịch vụ đang được quảng cáo. Ngoài ra với hình thức quảng cáo trên các
phương tiện truyền thông xã hội, ngày nay cũng rất cần sự tương tác của người dùng
bằng cách chú trọng vào cách thức “share” (chia sẻ) và “hashtag” (chuỗi các kí tự
liên tiếp nhau đặt sau dấu #). Với cách thức này, nhà sản xuất có được sự kết nối với
người tiêu dùng, đồng thời chính nhờ sự tương tác đó của người dùng sẽ làm nhân
rộng chiến dịch quảng bá thương hiệu của họ, hay nói cách khác, chính người tiêu
dùng sẽ thực hiện quảng cáo miễn phí cho thương hiệu đó.
Sự tương tác cao của người dùng dành cho các QCTM chính là một minh
chứng rõ ràng nhất, quảng cáo cũng cần phải đầu tư sáng suốt, thấu hiểu được người
tiêu dùng chứ không chỉ để thoả mãn nhu cầu quảng bá đơn thuần của nhà sản xuất,
đây chính là bước đệm để người tiêu dùng dành ít nhiều sự chú ý cho nhãn hiệu, từ
đó quyết định có lựa chọn tin dùng sản phẩm dịch vụ đó hay không.
Quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông tạo ra giá trị
thông điệp
Đặc điểm này là một trong những đặc điểm nổi bật và riêng biệt nhất của
1.1.3.3.
Minh Nguyệt, “Vũ trụ quảng cáo Aba - chiến lược truyền thông bài bản đằng sau những TVC
"nhảm nhí"”, https://vietnambusinessinsider.vn/vu-tru-quang-cao-aba-chien-luoc-truyen-thong-baiban-dang-sau-nhung-tvc-nham-nhi-a11921.html, truy cập ngày 14/4/2021
25
11
QCTM nói chung và QCTM trên các phương tiện truyền thông nói riêng. Việc tạo ra
giá trị về mặt thông điệp có thể hiểu là nêu bật lên được vấn đề cốt lõi mà nhãn hàng
muốn hướng đến. Thông điệp này phải mang tính xuyên suốt và phải đảm bảo tính
trung thực. “Người tiêu dùng thường có xu hướng thích những thông điệp hướng đến
chính mình hơn là những thông điệp đơn thuần nêu lên điểm nổi bật của sản phẩm”26.
Vì lẽ đó nên các thông điệp mà nhãn hàng đưa ra trong sản phẩm quảng cáo của mình
phải cân bằng được thông tin sản phẩm và xu hướng của khách hàng.
Ngoài ra, QCTM trên các phương tiện truyền thông không chỉ đơn thuần là
dùng để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, mà nó mang được một sức ảnh hưởng về mặt
xã hội đến với công chúng, tạo dựng được thành một chiến dịch và lan toả rộng hơn
những thông điệp tích cực, thông qua đó mới thực hiện quảng bá cho nhãn hiệu của
mình. Tuy nhiên để tạo ra giá trị thông điệp, thì một quảng cáo phải được xây dựng
khôn khéo, chân thành và phải thực sự mang ý nghĩa tốt đẹp, nếu không sẽ bị tình
trạng phản ứng ngược từ chính khán giả, người tiêu dùng. Có thể kể đến một vài chiến
dịch quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đã tạo ra được một giá trị thông
điệp cho cộng đồng ví dụ như: quảng cáo của nhãn hàng dầu ăn Neptune với thông
điệp “về nhà đón Tết, gia đình trên hết”, quảng cáo gây quỹ 6 triệu ly sữa của
Vinamilk, quảng cáo giày Biti’s với thông điệp “đi để trở về”…
Có thể nói, sản phẩm QCTM trên các phương tiện truyền thông đòi hỏi những
yêu cầu chất lượng cao hơn so với sản phẩm quảng cáo thông thường. Một sản phẩm
quảng cáo truyền tải được những giá trị thông điệp đến cộng đồng tức là tạo dựng
được cho khán giả, người tiêu dùng những năng lượng tích cực, thực hiện được mục
tiêu kép về kinh tế và xã hội.
1.2. Các hình thức quảng cáo thương mại trên các phương tiện truyền thông
1.2.1. Quảng cáo thương mại trên phương tiện truyền thông đại chúng
1.2.1.1. Quảng cáo thương mại trên báo điện tử
Các sản phẩm QCTM trên báo chí rất đa dạng. Bên cạnh những sản phẩm
quảng cáo trên các trang báo truyền thống thì ngày nay, việc quảng cáo trên báo điện
tử đang là một hình thức tiệm cận với xu hướng số hoá chung của toàn lĩnh vực.
Trong phạm vi khoá luận này, tác giả tập trung vào hình thức QCTM trên báo điện
tử. Có thể kể đến các hình thức như:
Quảng cáo đăng bài PR (Public Relations). Quảng cáo đăng bài PR là “là hình
thức quảng cáo chuyên sâu, đưa ra thông tin giới thiệu, quảng bá cho sản phẩm,
thương hiệu của doanh nghiệp một cách khéo léo, khách quan, không sa đà vào quảng
Phạm Nam Cường (2012), Hoạt động quảng cáo trên một số phương tiện truyền thông phổ biến ở
Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Ngoại Thương, tr.13
26
12
cáo, văn phong phải phù hợp và đúng tôn chỉ của báo chí”27. Đây là loại hình quảng
cáo cần sự xây dựng sáng tạo nội dung, đưa ra được câu chuyện để có thể thu hút
người xem nhấn vào xem bài báo đó. Nếu bài đăng quá lộ liễu về việc quảng cáo sẽ
tạo tác dụng dược làm cho người xem dễ dàng bỏ qua bài báo đó và không thu hút
được nhiều lượt xem. Do đó, các đầu báo cũng phải cân bằng được mong muốn của
doanh nghiệp và thị hiếu của người đọc, để tránh trường hợp nội dung bài đăng nhàm
chán, “sặc mùi” quảng cáo, gây ra cảm giác ức chế khó chịu cho người đọc.
Quảng cáo đặt banner trên trang chủ. Đây là loại hình quảng cáo dùng hình
ảnh tĩnh hoặc động có kích thước hợp lý theo quy định được đặt trên đầu trang chủ
của báo điện tử hoặc đặt phía dọc trang báo. Loại hình này hầu hết đều có đính kèm
đường link dẫn đến trang quảng cáo chính của sản phẩm. Hình thức quảng cáo này
mang đến một sự tiếp cận thụ động cho người xem, bởi vì khi nhấn vào trang chủ của
báo đó, dù là mục đích muốn xem các bài đăng khác nhưng những quảng cáo này vẫn
mặc định hiển thị. Ưu điểm của quảng cáo này có thể giúp người xem ghi nhớ nhận
diện được thương hiệu khi truy cập nhiều lần vào trang chủ. Ngược lại, khuyết điểm
của loại hình quảng cáo này có thể không thu hút được người xem, chỉ mang tính
hình thức chứ không thể hiện trọn vẹn nội dung quảng cáo.
Đây là hai loại quảng cáo phổ biến được doanh nghiệp lựa chọn sử dụng nhiều
nhất trên báo điện tử. Phương thức này tiết kiệm được nhiều chi phí, tiết kiệm được
thời gian và không phải trải qua khâu biên tập gắt gao như quảng cáo trên báo in.
QCTM trên báo điện tử còn tạo được “tính chủ động của người xem quảng cáo”28,
nghĩa là họ có thể có sự lựa chọn xem hoặc không xem quảng cáo đó, phụ thuộc vào
độ yêu thích và mong muốn tiếp nhận của người dùng.
1.2.1.2. Quảng cáo thương mại trên truyền hình
QCTM trên truyền hình được đánh giá là một trong những phương thức quảng
cáo mang tính đại trà và tiếp cận được với nhiều người tiêu dùng nhất. Bởi lẽ đối
tượng mà sản phẩm quảng cáo tác động đến rất rộng, bao gồm tất cả những người
xem truyền hình không phân biệt giới hạn độ tuổi, xu hướng, ngành nghề. Có thể kể
đến các dạng quảng cáo trên truyền hình như:
Quảng cáo bằng TVC (Television Commercial). Đây là quảng cáo truyền hình
chiếm ưu thế và hiệu quả nhất. Quảng cáo bằng TVC được thực hiện dưới dạng thức
cho phép nhà sản xuất cắt dựng một video kết hợp cùng kĩ xảo, diễn xuất của diễn
viên, trong thời lượng vài chục giây để truyền tải thông điệp quảng cáo đến người
Hoàng Việt Anh, “Các hình thức quảng cáo trên báo điện tử”, https://brandcom.vn/cac-hinhthuc-quang-cao-tren-bao-dien-tu/, truy cập ngày 15/4/2021
28
Hoàng Đại Thanh (2016), Quảng cáo trên báo điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận
văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, tr.16
27
13
xem. Loại quảng cáo này thường được phát sóng có thời lượng trước hoặc sau, hoặc
giữa một chương trình truyền hình. Quảng cáo bằng hình thức TVC “có thể chứng
minh một cách sinh động các thuộc tính sản phẩm và giải thích một cách thuyết phục
lợi ích cho người tiêu dùng tương ứng với sản phẩm”29.
Quảng cáo bằng hình thức nhà tài trợ. Hình thức quảng cáo này trên truyền
hình đã xuất hiện từ lâu. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, khi các chương trình
truyền hình thực tế nở rộ, thì các đơn vị sản xuất rất cần nguồn kinh phí để duy trì
chương trình, việc thu hút các nhà tài trợ chính là nguồn thu lớn nhất mà họ có được,
nên quảng cáo bằng hình thức nhà tài trợ ngày càng được đẩy mạnh. Quảng cáo bằng
hình thức nhà tài trợ có thể xây dựng được sự nhận diện thương hiệu, làm đòn bẩy để
tăng sự chú ý của khách hàng, từ đó có quyết định tin dùng sản phẩm hay không. Khi
xem các chương trình truyền hình, khán giả cũng sẽ không quá khắt khe để từ chối
tiếp nhận sản phẩm quảng cáo được lồng ghép trong đó dưới hình thức nhà tài trợ,
miễn là việc lồng ghép đó không quá lộ liễu và chiếm sóng quá nhiều thời gian trong
suốt chương trình.
“Quảng cáo trên truyền hình ngoài mục đích quảng bá, giới thiệu sản phẩm,
dịch vụ tới người tiêu dùng; thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh doanh nó còn thể
hiện tài năng của nhà làm quảng cáo và văn hoá của một quốc gia”30. Điều này thể
hiện rất rõ trong mỗi sản phẩm quảng cáo trên truyền hình được đầu tư rất trau chuốt,
thường phải trải qua một khâu kiểm duyệt gắt gao để được lên sóng. Đây là một trong
những tiêu chí vừa bảo đảm sản phẩm quảng cáo phù hợp với quy định của pháp luật,
vừa bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Nhìn chung, các hình thức QCTM trên phương tiện truyền thông đại chúng rất
đa dạng, không chỉ giới hạn trong những khuôn khổ mà ngày càng phát triển phụ
thuộc vào tốc độ phát triển của công nghệ cũng như nhu cầu của doanh nghiệp và nhu
cầu của chính người tiêu dùng.
1.2.2. Quảng cáo thương mại trên phương tiện truyền thông xã hội
1.2.2.1. Quảng cáo thương mại trên trang mạng xã hội
Nói đến QCTM trên các phương tiện xã hội, thì quảng cáo trên mạng xã hội
chiếm phần lớn ưu thế. Loại quảng cáo này có thể diễn ra trên các trang mạng xã hội
nhiều người dùng ví dụ như Facebook, Instagram, Zalo… và gần đây nhất là TikTok,
một trang mạng xã hội phá đảo cộng đồng mạng trong năm vừa qua. Mỗi một trang
mạng xã hội lại có cho mình những hình thức quảng cáo riêng lẻ. Có thể kể đến như:
29
Philip Kotler & Kelvin Lane Keller (2016), Marketing Management, Nxb. Person Education,
tr.276
30
Nguyễn Thị Thu Hương (2014), Tác động của quảng cáo trên truyền hình đối với giáo dục tình
cảm gia đình, Khoá luận tốt nghiệp, Trường đại học Văn Hoá Hà Nội, tr.2
14
- Xem thêm -