TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
TRƯƠNG MINH THÔNG
PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP
TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH
VIÊN TRỞ LÊN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP
TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH
VIÊN TRỞ LÊN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRƯƠNG MINH THÔNG
KHOÁ: 42
MSSV: 1753801011177
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HÀ
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Hà, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Người thực hiện
Trương Minh Thông
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
BLDS 2015
Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, có
hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2017
LDN 2005
Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11,
có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2006
LDN 2014
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13,
có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2015
LDN 2020
Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14,
có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2021
NĐ 01/2021/NĐ-CP
Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 04/01/2021 về đăng ký doanh
nghiệp
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN
ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU
HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN ...................................................................... 6
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về quyền định đoạt phần vốn góp trong công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ................................................... 6
1.1.1 Phần vốn góp của thành viên trong vốn điều lệ của công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên .............................................................................. 6
1.1.2 Cơ sở pháp lý về quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên .............................................................................. 9
1.2 Quy định của pháp luật về quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ..................................................... 11
1.2.1 Chủ thể và đối tượng của quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ........................................................ 11
1.2.2 Quy định của pháp luật về quyền chuyển nhượng phần vốn góp trong công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên .................................................... 14
1.2.3 Quy định của pháp luật về quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp
trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ................................. 19
1.2.4 Quy định của pháp luật về quyền để lại thừa kế và tặng cho phần vốn góp
trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ................................. 22
1.2.5 Quy định của pháp luật về quyền trả nợ bằng phần vốn góp trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ........................................................ 24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 26
CHƯƠNG 2. CÁC BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHO CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP TRONG
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN ....... 27
2.1 Bất cập và kiến nghị đối với các quy định liên quan đến phạm vi quyền
của các chủ thể và đối tượng chuyển nhượng ................................................... 27
2.2 Bất cập và kiến nghị đối với các quy định về quyền định đoạt phần vốn
góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ...................... 31
2.2.1 Bất cập và kiến nghị đối với các quy định về quyền chuyển nhượng phần
vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ................... 31
2.2.2 Bất cập và kiến nghị đối với các quy định về quyền yêu cầu công ty mua
lại phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên...... 37
2.2.3 Bất cập và kiến nghị đối với các quy định về quyền tặng cho, để thừa kế,
trả nợ bằng phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên……………………………………………………………………………...40
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 43
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 45
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chế độ sở hữu tư nhân và nguyên tắc tự do hợp đồng đều được công nhận tại
Việt Nam và các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở này, pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam qua các thời kỳ đều có các quy định về vấn đề sở hữu phần vốn góp
trong công ty, đặc biệt là quyền định đoạt phần vốn góp của chủ sở hữu - một trong
những quyền năng quan trọng của chủ sở hữu. Trong trường hợp pháp luật quy định
cụ thể, phù hợp, rõ ràng và tạo thuận lợi cho chủ sở hữu dễ dàng thực hiện quyền định
đoạt phần vốn góp của mình sẽ khuyến khích và thúc đẩy việc thành lập doanh nghiệp
để đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Ngược lại việc hạn chế quá mức quyền định đoạt,
khó khăn trong việc hoàn thành các thủ tục hoặc việc quy định chồng chéo, không
hợp lý về định đoạt phần vốn góp sẽ tạo tâm lý e dè, lo sợ khi quyết định đầu tư, ảnh
hưởng xấu đến môi trường kinh doanh và phát triển xã hội.
Theo thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh năm 2020 thì “phần lớn
các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa”1. Với quy mô vốn không quá lớn
thì việc lựa chọn mô hình công ty cổ phần với chế độ quản trị phức tạp là không phù
hợp. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng có tâm lý e ngại khi lựa chọn mô hình công
ty tư nhân hay công ty hợp danh để khởi sự do tính chịu trách nhiệm vô hạn của loại
hình công ty này.2 Chính vì lẽ đó mà mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn - loại hình
công ty thường được thành lập giữa những người có sự quen biết, tin cậy nhất định
và thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với phần vốn góp tại công ty
- là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất trong nền kinh tế nước ta hiện nay3.
Việc định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên đã được quy định trong Luật Doanh nghiệp của Việt Nam
từ phiên bản năm 1999, trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và đến nay là Luật Doanh
nghiệp 2020 đã có những bước tiến và tác động tích cực. Tuy nhiên trong quá trình
thực thi Luật doanh nghiệp đã xảy ra nhiều tranh chấp liên quan đến định đoạt phần
vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Việc quy định chưa
rõ ràng về một số vấn đề như: thủ tục chuyển nhượng phần vốn góp, quyền định đoạt
đối với phần vốn cam kết góp, quyền định đoạt của các chủ thể chưa phải là thành
1
https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/597/5274/tinh-hinh-dang-ky-doanh-nghiep-thang-12-va-nam2020-.aspx, truy cập ngày 20/5/2021
2
Nguyễn Vinh Hưng (2016), “Công ty TNHH hai thành viên trở lên trong môi trường kinh doanh hiện nay”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (320)/2016, tr. 40
3
Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nhà xuất
bản Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr. 156
1
viên công ty,… đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, ảnh hưởng đến quyền và nghĩa
vụ của chủ sở hữu phần vốn góp. Để tìm ra hướng khắc phục những hạn chế trên,
trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về định đoạt phần
vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo pháp luật
Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề pháp lý về định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên đã được đề cập ở một số công trình nghiên cứu khác nhau.
Trước hết, có thể kể đến giáo trình, sách chuyên khảo tiêu biểu như:
-
Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về
-
chủ thể kinh doanh, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam;
Phạm Hoài Huấn (Chủ biên) (2019), Luật Doanh nghiệp Việt Nam - Tình
-
huống - Dẫn giải - Bình luận, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật;
Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp - Các vấn đề pháp lý
cơ bản, Nhà xuất bản Dân trí;
Tuy nhiên, các giáo trình, sách chuyên khảo đã đề cập sơ lược về nhóm quyền
về tài sản của thành viên, trong đó có quyền định đoạt phần vốn góp và phân tích một
số hình thức định đoạt như: yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp, chuyển nhượng
phần vốn góp của thành viên. Hơn nữa, các tài liệu trên chưa đi sâu vào phân tích cơ
sở lý luận về quyền định đoạt phần vốn góp cũng như phân tích cụ thể và đưa ra nhận
định về các quy định của pháp luật về quyền định đoạt phần vốn góp của công ty
trách nhiệm hữu hạn (sau đây viết tắt là TNHH) hai thành viên trở lên.
Bên cạnh đó, có một số khoá luận tốt nghiệp nghiên cứu chuyên sâu hơn pháp
luật về định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên, tiêu biểu như:
-
Bùi Thị Mỹ Khanh (2012), Chuyển nhượng vốn trong công ty trách nhiệm hữu
hạn - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, khoá luận tốt nghiệp của nhân luật,
Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Khoá luận này đã nêu ra một số
khía cạnh pháp lý liên quan đến việc chuyển nhượng phần vốn góp trong công
ty trách nhiệm hữu hạn - đây là hoạt động định đoạt phần vốn góp. Tuy nhiên
khoá luận chỉ đề cập đến một trong những hình thức của định đoạt phần vốn
góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
2
-
Hoàng Thảo Ngân (2017), Định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014, khoá luận tốt
nghiệp của nhân luật, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Khoá luận
này đã nêu ra khá chi tiết về cơ sở lý luận, các hình thức định đoạt và các kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về định đoạt phần vốn góp trong công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Tuy nhiên khoá luận tốt nghiệp này
nghiên cứu theo Luật Doanh nghiệp 2014, do đó chưa cập nhật được những
thay đổi của Luật Doanh nghiệp 2020.
Ngoài ra, có một số bài báo khoa học như : Bùi Thanh Thảo (2014), Góp ý
hoàn thiện các quy định về quyền định đoạt phần vốn góp của thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2 (81)/2014,
tr. 20 - 28; Nguyễn Văn Hùng (2014), Thủ tục chuyển nhượng vốn trong công ty trách
nhiệm hữu hạn, tài liệu phục vụ hội thảo: Luật Doanh nghiệp và những vướng mắc
trong thực thi, tr.51 - 58, Nguyễn Thị Phương Hà (2021), Quyền yêu cầu công ty mua
lại phần vốn góp của thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên theo Luật Doanh
nghiệp năm 2020, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 06/2021, tr.49 - 52.
Như vậy, các giáo trình, sách chuyên khảo, luận văn, khoá luận tốt nghiệp, báo
cáo khoa học, tạp chí nêu trên đã nghiên cứu pháp luật về định đoạt phần vốn góp
trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ở nhiều khía cạnh, có mức
độ khác nhau và có đóng góp nhất định về lý luận cũng như thực tiễn.
Trên tinh thần học hỏi, tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu từ những công
trình nêu trên, tác giả sẽ đi sâu vào phân tích cơ sở lý luận, những vấn đề về: chủ thể
thực hiện quyền, điều kiện thực hiện, hạn chế quyền định đoạt và nêu bình luận về
quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hai thành viên trở lên, đặc
biệt theo Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 (sau đây viết tắc là LDN 2020).
3. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận có ba mục đích nghiên cứu chính:
Thứ nhất, khoá luận phân tích và làm rõ những quy định của LDN 2020 về
định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên từ cơ sở lý luận,
cách thức áp dụng.
Thứ hai, khoá luận chỉ ra những điểm tiến bộ và hạn chế của LDN 2020 trên
cơ sở so sánh với các phiên bản luật trước đây và thực tiễn áp dụng pháp luật về định
đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.
3
Thứ ba, trên cơ sở phân tích những hạn chế, khoá luận đề xuất hướng hoàn
thiện pháp luật doanh nghiệp về định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH hai
thành viên trở lên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Khoá luận tốt nghiệp nghiên cứu các quy định của
pháp luật Việt Nam về quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên. Trong phạm vi khoá luận này, tác giả chỉ giới hạn nghiên
cứu việc định đoạt phần vốn góp bao gồm: chuyển nhượng phần vốn góp, yêu cầu
công ty mua lại phần vốn góp, để thừa kế và tặng cho phần vốn góp, dùng phần vốn
góp để trả nợ của các chủ thể là tổ chức, cá nhân Việt Nam, không nghiên cứu vấn đề
định đoạt phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài. Để làm sáng tỏ đối tượng nghiên
cứu nêu trên, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề về mặt lý luận về
quyền định đoạt phần vốn góp cũng như những ưu điểm, hạn chế các quy định pháp
luật về định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên và đề xuất một số kiến nghị có liên quan.
Về phạm vi nghiên cứu: Khoá luận tốt nghiệp nghiên cứu các quy định của
pháp luật về định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên, chủ yếu dựa trên LDN 2020, đây là đạo luật trực tiếp điều chỉnh và đang
có hiệu lực áp dụng tại thời điểm tác giả viết khoá luận về định đoạt phần vốn góp
trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Bên cạnh đó, khoá luận
cũng dẫn chiếu đến Luật Doanh nghiệp 20054 (sau đây viết tắt là LDN 2005), Luật
Doanh nghiệp 20145 (sau đây viết tắt là LDN 2014), Bộ luật dân sự 20156 (sau đây
viết tắt là BLDS 2015), Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/01/2021
về đăng ký doanh nghiệp (sau đây viết tắt là NĐ 01/2021/NĐ-CP) và thực tiễn áp
dụng pháp luật để phân tích, làm sáng tỏ hơn đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11, có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2006
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2015
6
Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2017
4
5
4
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khoá luận này, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau đây:
-
Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các
chương của khoá luận để phân tích, bình luận những vấn đề mang tính lý luận
cũng như các quy định của pháp luật về định đoạt phần vốn góp trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên trên cơ sở LDN 2020, LDN 2014,
LDN 2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Bên cạnh đó phương
pháp này cũng được sử dụng nhằm phân tích, bình luận các bản án, vụ việc cụ
thể trên thực tế góp phần làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến định
đoạt phần vốn góp.
-
Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong Chương
2 của khoá luận nhằm khái quát lại các vấn đề đã phân tích làm cơ sở để đưa
ra nhận định, góp ý hoàn thiện các quy định của pháp luật về định đoạt phần
vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
- Phương pháp so sánh luật: Phương pháp này được sử dụng để so sánh một số
quy định của LDN 2020 với LDN 2014, LDN 2005 có liên quan đến định đoạt
phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nhằm
mục đích nhận diện sự tích cực, tiến bộ trong quá trình xây dựng các quy định
về định đoạt phần vốn góp.
6. Bố cục tổng quát của khoá luận
Bên cạnh phần mở đầu, kết luận chung và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của khoá luận gồm 2 chương:
Chương 1: Các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền định đoạt phần vốn
góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Chương 2: Các bất cập và kiến nghị hoàn thiện cho các quy định pháp luật về
định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
5
CHƯƠNG 1
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT
PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI
THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về quyền định đoạt phần vốn góp trong công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.1 Phần vốn góp của thành viên trong vốn điều lệ của công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên
Khác với đa số các loại hình công ty khác, công ty TNHH hai thành viên trở
lên hoàn toàn là sản phẩm của quá trình lập pháp. Nhiều người cho rằng: “Mô hình
công ty cổ phần không thích hợp với các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Các quy định quá
phức tạp trong luật công ty cổ phần không cần thiết cho loại công ty vừa và nhỏ, có
ít thành viên và thường là họ quen biết nhau. Còn chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của
công ty đối nhân không thích hợp với tất cả các nhà đầu tư”.7 Có lẽ là từ những quan
niệm trên, “loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên được xây dựng với sự kế
thừa từ các ưu điểm kết hợp của công ty cổ phần và công ty hợp danh”8. Căn cứ theo
khoản 2 Điều 46 LDN 2020 thì công ty TNHH hai thành viên trở lên có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Do là loại hình
công ty có tư cách pháp nhân nên công ty TNHH hai thành viên trở lên mang đặc tính
pháp lý “tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình”9. Lúc mới thành lập, tài sản của
doanh nghiệp về cơ bản chỉ bao gồm nguồn vốn từ các nhà đầu tư. Do đó, “tại thời
điểm thành lập, tài sản trong doanh nghiệp chính là vốn điều lệ của doanh nghiệp”10
và doanh nghiệp phải chịu các trách nhiệm tài chính bằng phần vốn này tại thời điểm
thành lập công ty. Trên phương diện pháp lý, vốn điều lệ trong công ty TNHH hai
thành viên trở lên là tổng giá trị tài sản do các thành viên công ty đã góp hoặc cam
kết góp khi thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên11. Ngoại trừ một số ngành
nghề kinh doanh đặc thù có yêu cầu về vốn pháp định - số vốn tối thiểu phải có theo
quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp, LDN 2020 không quy định mức
tối thiểu về vốn điều lệ. Như vậy, tuỳ vào nhu cầu, mong muốn của các thành viên,
Bùi Ngọc Cường, Giáo trình Luật Thương mại, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010, Tập I,
tr. 58
8
Nguyễn Vinh Hưng, tlđd (2), tr. 40
9
Điểm c khoản 1 Điều 74 Bộ luật dân sự 2015
10
Phạm Hoài Huấn (chủ biên) (2015), Luật Doanh nghiệp Việt Nam - Tình huống - Dẫn giải - Bình luận,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 24
11
khoản 34 Điều 4 LDN 2020
7
6
vốn điều lệ công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể là một con số “cực khủng”
hoặc thậm chí có thể là số tiền “bé tí”.
Để hình thành vốn điều lệ trong công ty TNHH hai thành viên trở lên thì thành
viên công ty phải thực hiện việc góp vốn. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hợp pháp
hoặc có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do
chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ
thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam thì có thể góp vốn để
thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên.12 Khi xác định thành lập công ty
TNHH hai thành viên trở lên để kinh doanh và đã thực hiện việc đăng ký thành lập
doanh nghiệp, thành viên công ty phải thực hiện các nghĩa vụ về vốn để đảm bảo hoạt
động công ty. Thời hạn để các thành viên thực hiện nghĩa vụ góp vốn là 90 ngày kể
từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, thời hạn này không bao
gồm thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính
để chuyển quyền sở hữu tài sản.13 Trong trường hợp một hoặc một số thành viên đã
cam kết góp vốn và loại tài sản dùng để góp vốn nhưng không thực hiện hoặc góp
không đủ thì thành viên đó phải chịu các nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp
đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trước ngày công ty
đăng ký thay đổi vốn điều lệ và tỷ lệ phần vốn góp của thành viên. Đồng thời khi thực
hiện góp tài sản để thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên, các thành viên
công ty phải thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty. Người góp vốn sẽ
trở thành thành viên của công ty kể từ thời điểm đã thanh toán phần vốn góp và những
thông tin về người góp vốn ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên, trừ trường hợp cam
kết góp vốn khi thành lập công ty. Lúc này thành viên sẽ không còn quyền sở hữu đối
với tài sản góp vốn mà thứ họ nhận lại được chính là phần vốn góp tương ứng với
tổng giá trị tài sản của họ đã góp hoặc cam kết góp vào công ty. Kết thúc của quá
trình góp vốn là mỗi thành viên góp vốn sẽ được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp
cho thành viên tương ứng với giá trị phần vốn đã góp. Phần vốn góp của các thành
viên cũng chính là tài sản mà thành viên có thể định đoạt trong công ty TNHH hai
thành viên trở lên.
Không giống với đa số loại tài sản khác, phần vốn góp không chỉ là một loại
tài sản có thể trị giá được bằng tiền mà nó còn thể hiện tư cách thành viên, các quyền
và nghĩa vụ của thành viên tương ứng với số vốn góp.14.Cá nhân, tổ chức khi thực
Điều 34 LDN 2020
khoản 2 Điều 47 LDN 2020
14
Bùi Thị Thanh Thảo (2014), “Góp ý hoàn thiện các quy định về quyền định đoạt phần vốn góp của thành
viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2 (81)/2014, tr. 20
12
13
7
hiện việc góp vốn để thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên sẽ trở thành
thành viên công ty và dĩ nhiên họ sẽ được hưởng các quyền và nghĩa vụ của thành
viên công ty. Khi sở hữu phần vốn góp, thành viên công ty sẽ được hưởng các quyền
về tài sản cũng như các quyền về quản trị tương ứng với phần vốn góp của mình. Các
quyền về tài sản có thể kể đến như: quyền được chia lợi nhuận tương ứng với phần
vốn góp sau khi công ty đã nộp đủ thuế và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính khác
theo quy định của pháp luật, được chia giá trị tài sản còn lại của công ty tương ứng
với phần vốn góp khi công ty giải thể hoặc phá sản, được ưu tiên góp thêm vốn vào
công ty khi công ty tăng vốn điều lệ. Bên cạnh các quyền về tài sản, chủ sở hữu phần
vốn góp còn được hưởng các quyền về quản trị như: tham dự họp Hội đồng thành
viên, thảo luận, kiến nghị, biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng
thành viên.15 Phần vốn góp đóng vai trò quan trọng trong công ty TNHH hai thành
viên trở lên bởi lẽ các quyết định của Hội đồng thành viên chủ yếu dựa vào tỷ lệ biểu
quyết của thành viên, trong đó số phiếu biểu quyết tương ứng với phần vốn góp. Có
thể hiểu đơn giản là thành viên sở hữu phần vốn góp càng nhiều thì càng có quyền
chi phối đến các quyết định của công ty. Về nghĩa vụ, thành viên công ty có nghĩa vụ
tuân thủ các nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thành viên như: Góp đủ, đúng hạn số
vốn đã cam kết, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và
khoản 4 Điều 47 của LDN 2020, không được rút vốn đã góp ra khỏi công ty dưới mọi
hình thức, trừ trường hợp quy định tại các điều 51, 52, 53 và 68 của LDN 2020, tuân
thủ Điều lệ công ty, chấp hành nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên,…16
Đối với các nghĩa vụ về tài chính, thành viên chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số
vốn đã góp vào doanh nghiệp - đây là một đặc điểm quan trọng của loại hình công ty
TNHH hai thành viên trở lên. Khi cá nhân, tổ chức hoàn tất việc góp vốn của mình
thì họ không còn quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn, thứ họ nhận lại là phần vốn
góp tương ứng với giá trị tài sản góp vốn. Tổng giá trị phần vốn góp của thành viên
sẽ trở thành tài sản công ty, công ty sẽ dùng khối tài sản này để hoạt động, kinh doanh
và tự dùng khối tài sản đó để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của công ty. Trường
hợp tài sản của công ty không đủ để thực hiện các nghĩa vụ tài chính thì thành viên
công ty không có nghĩa vụ dùng tài sản cá nhân của mình để thực hiện thay nghĩa vụ
của công ty.
Như vậy, khi thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên, các thành viên
sẽ thực hiện góp hay cam kết góp vốn để tạo thành tài sản công ty, tổng giá trị tài sản
15
16
khoản 1 Điều 49 LDN 2020
Điều 50 LDN 2020
8
góp vốn sẽ hợp thành vốn điều lệ của công ty. Thành viên góp vốn sẽ trở thành thành
viên công ty TNHH hai thành viên trở lên, qua đó được hưởng các quyền về tài sản
và quản trị của thành viên công ty.
1.1.2 Cơ sở pháp lý về quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên
“Xét về mặt pháp lý, một nội dung quan trọng thể hiện đặc tính pháp lý của
quyền sở hữu, biểu trưng cho đặc quyền của chủ sở hữu, đó là quyền định đoạt đối
với tài sản”.17 Theo Điều 192 BLDS 2015 quy định: “Quyền định đoạt là quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài
sản.” “Hiểu nôm na, quyền định đoạt là quyền quyết định “số phận” thực tế và “số
phận” pháp lý của tài sản”.18 Tuy nhiên, phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành
viên trở lên được xác định là “một loại tài sản vô hình, hay nói cách khác chính là
quyền tài sản của chủ sở hữu”19 nên không thể thực hiện định đoạt về mặt thực tế
được20. Do đó, việc định đoạt tài sản là phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành
viên trở lên là việc định đoạt số phận pháp lý của tài sản này. Việc định đoạt pháp lý
này sẽ được chủ sở hữu thực hiện thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ
sở hữu như bán, trao đổi, tặng cho, thừa kế,… Theo điểm e khoản 1 Điều 49 LDN
2020 quy định “Định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ, tặng cho và hình thức khác theo quy định của pháp luật và Điều
lệ công ty”. LDN 2020 có cách quy định theo hướng mở, theo đó chủ sở hữu có quyền
định đoạt phần vốn góp của mình bằng các hình thức phù hợp với các quy định của
pháp luật và Điều lệ công ty. Như vậy, ngoài các hình thức được quy định trong LDN
2020, các thành viên có thể định đoạt bằng các hình thức khác như: dùng phần vốn
góp làm tài sản thế chấp, trao đổi phần vốn góp, dùng phần vốn để góp vốn vào doanh
nghiệp khác,… Đây là một quy định phù hợp, đảm bảo được quyền lợi của chủ sở
hữu vốn.21
Một trong các căn cứ để LDN 2020 quy định về định đoạt phần vốn góp của
thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên xuất phát từ quyền của thành viên.
Khi góp vốn để thành lập công ty, các thành viên đã bỏ tài sản, thời gian, công sức
Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (3), tr. 172
Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (3), tr. 173
19
Nguyễn Văn Hùng (2014) “Thủ tục chuyển nhượng vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn”, tài liệu phục
vụ hội thảo: Luật Doanh nghiệp và những vướng mắc trong thực thi, tr.52
20
“Định đoạt thực tế là việc chủ thể bằng hành vi của mình quyết định sự tồn tại thực tế của tài sản. Việc định
đoạt thực tế thường được thực hiện bằng hành vi vật chất tác động tới bản thể của tài sản, làm cho tài sản không
còn tồn tại trên thực tế hoặc không còn nằm trong tay của chủ thể.” Xem thêm tại Trường đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh, tlđd (3), tr. 173
21
Bùi Thị Thanh Thảo, tlđd (14), tr. 21
17
18
9
cũng như chịu những rủi ro nhất định từ công việc kinh doanh, do đó, họ xứng đáng
được hưởng các quyền của thành viên công ty, và hiển nhiên có các quyền về tài sản,
trong đó có quyền định đoạt phần vốn góp thuộc sở hữu của mình. “Về nguyên tắc,
quyền định đoạt là một quyền “tối thượng” của chủ sở hữu”.22 Tuy nhiên, quyền định
đoạt đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp cũng có những hạn chế nhất định. Theo
khoản 1 Điều 196 BLDS 2015 thì “quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp
do luật quy định”. LDN 2020 tại các Điều 51, Điều 52 và Điều 53 quy định trong một
số trường hợp, chủ sở hữu phần vốn góp chỉ có thể định đoạt dưới một số hình thức
nhất định như: người thừa kế không muốn làm thành viên công ty có thể chuyển
nhượng hoặc yêu cầu công ty mua lại, người nhận nợ bằng phần vốn góp không được
Hội đồng thành viên chấp thuận làm thành viên công ty có thể chào bán và chuyển
nhượng phần vốn góp đó,... Trong những trường hợp đó, chủ sở hữu phần vốn góp
chỉ được thực hiện quyền định đoạt dưới những hình thức luật định, không thể định
đoạt dưới hình thức khác. Quy định này của LDN 2020 về định đoạt phần vốn góp
của thành viên là phù hợp. Công ty TNHH hai thành viên trở lên mang đặc tính của
một loại hình “công ty đóng”, có sự hạn chế sự thâm nhập của người bên ngoài công
ty nên cần có những quy định để hạn chế định đoạt và một số điều kiện để thực hiện
quyền định đoạt phần vốn góp của thành viên. Đồng thời, thành lập công ty là nhằm
đầu tư, kinh doanh sinh lời. Nếu không quy định về việc hạn chế việc chuyển nhượng
thì rất có thể làm mất đi tính ổn định của công ty - trong một số trường hợp định đoạt
có thể dẫn đến việc thay đổi thành viên, thay đổi cơ cấu hay thậm chí là làm giảm
vốn điều lệ của công ty, khiến cho mục đích thành lập công ty không được thực hiện.
Bên cạnh các thành viên công ty, trong một số trường hợp người không phải
là thành viên công ty cũng được định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH hai
thành viên trở lên. Cơ sở phát sinh quyền định đoạt phần vốn góp của những người
không phải thành viên công ty xuất phát từ quyền của chủ sở hữu phần vốn góp.
Quyền của chủ sở hữu phần vốn góp không chỉ giúp thành viên công ty được định
đoạt phần vốn góp của mình mà còn giúp những người không phải thành viên công
ty được định đoạt phần vốn góp trong công ty khi họ sở hữu phần vốn góp này một
cách hợp pháp. Thông qua nhiều hình thức khác nhau như: nhận thừa kế, được tặng
cho, nhận trả nợ bằng phần vốn góp,… những chủ thể không là thành viên công ty có
được quyền sở hữu đối với phần vốn góp. Tuy nhiên có thể vì lý do không muốn hay
không được Hội đồng thành viên chấp thuận trở thành thành viên công ty mà họ
không trở thành thành viên công ty. Lúc này nếu pháp luật không quy định cho những
người sở hữu phần vốn góp này được quyền định đoạt phần vốn góp của mình thì họ
22
Trường đại học Luật thành số phố Hồ Chí Minh, tlđd (3), tr. 178
10
sẽ không có căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình, xâm phạm quyền sở hữu
hợp pháp của họ.
Như vậy, quyền của chủ sở hữu phần vốn góp và quyền của thành viên công
ty là căn cứ phát sinh quyền định đoạt trong công ty TNHH hai thành viên. Việc định
đoạt phần vốn góp này cũng có những điều kiện nhất định và có thể dẫn đến gia nhập
thêm thành viên ngoài vào công ty.
1.2 Quy định của pháp luật về quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.2.1 Chủ thể và đối tượng của quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Về nguyên tắc, chủ sở hữu phần vốn góp có thể thực hiện việc định đoạt thông
qua hình thức chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ, tặng cho và hình thức khác
theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Tuy nhiên, các cá nhân, tổ chức nhận
chuyển nhượng, được tặng cho hay nhận phần vốn góp theo các hình thức khác trong
nhiều trường hợp không trở thành thành viên công ty. Cụ thể trong một số trường hợp
như: người thừa kế phần vốn góp không muốn trở thành thành viên công ty, người
được tặng cho không thuộc đối tượng thừa kế theo pháp luật và không được Hội đồng
thành viên chấp thuận trở thành thành viên công ty. Như vậy, đối với các chủ thể chưa
phải là thành viên công ty hoặc không thể làm thành viên công ty thì họ có quyền
được định đoạt phần vốn góp ra sao. Bên cạnh đó phần vốn góp trong công ty TNHH
hai thành viên trở lên là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết
góp vào công ty TNHH hai thành viên trở lên. Vấn đề được đặt ra là các chủ thể có
quyền định đoạt phần vốn góp trong thời hạn cam kết không. Trong phần này tác giả
sẽ làm rõ hai vấn đề chính: Thứ nhất, chủ thể nào được quyền định đoạt phần vốn
góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên. Thứ hai, phần vốn góp nào là đối
tượng của quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.
1.2.1.1 Chủ thể có quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên
Quyền của chủ sở hữu và quyền của thành viên công ty đã tạo điều kiện cho
các chủ thể được quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên
trở lên. Các chủ thể đó bao gồm:
Thứ nhất, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Cá
nhân, tổ chức có thể thông qua nhiều cách thức để trở thành thành viên công ty TNHH
hai thành viên trở lên như: góp vốn thành lập công ty, nhận chuyển nhượng một phần
11
hoặc toàn bộ phần vốn góp của thành viên công ty, nhận thừa kế, nhận tặng cho,…
Khi đã trở thành thành viên công ty và sở hữu một phần vốn góp nhất định, cá nhân,
tổ chức đó sẽ có các quyền của thành viên, bao gồm cả các quyền về tài sản, trong đó
có quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên. So với
các chủ thể chưa phải là thành viên công ty, thành viên công ty TNHH hai thành viên
trở lên có phạm vi quyền định đoạt cao hơn. Nếu là thành viên công ty thì họ được
định đoạt bằng hình thức chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ, tặng cho và hình
thức khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty23. Đối với những chủ thể
không trở thành thành viên công ty thì họ chỉ được định đoạt dưới hình thức chuyển
nhượng hoặc yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình24. Điểm khác biệt về
phạm vi quyền định đoạt của thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên so với
các chủ thể chưa phải là thành viên công ty là do thành viên công ty ngoài là chủ sở
hữu đối với phần vốn góp còn mang tư cách là thành viên. Tư cách thành viên công
ty TNHH hai thành viên trở lên đã tạo nên sự khác biệt về phạm vi quyền định đoạt
này. Khi cá nhân, tổ chức hình thành ý tưởng kinh doanh và muốn cụ thể hoá ý tưởng
ra thực tế thì cần thành lập doanh nghiệp để thực hiện. Doanh nghiệp suy cho cùng là
sản phẩm từ ý chí của chủ sở hữu. Chủ sở hữu doanh nghiệp đã bỏ ra ý tưởng, tài sản,
thời gian và sức lực của mình để cụ thể ý tưởng kinh doanh và hướng tới mục tiêu lợi
nhuận thì dĩ nhiên họ phải có quyền lợi cao hơn các chủ thể chưa là chủ sở hữu công
ty (chủ sở hữu trong công ty TNHH hai thành viên trở lên là các thành viên công ty).
Trong khi đó, tuy cũng là chủ sở hữu phần vốn góp nhưng các cá nhân, tổ chức không
là thành viên công ty đã không có đóng góp, cống hiến cho công ty. Do đó, pháp luật
đã quy định phạm vi quyền định đoạt của những chủ thể này hẹp hơn so với thành
viên công ty. Thiết nghĩ, việc quy định sự khác biệt về phạm vi định đoạt phần vốn
góp như vậy là phù hợp, góp phần nâng cao vị thế của thành viên công ty.
Thứ hai, các chủ thể khác sở hữu phần vốn góp nhưng chưa phải hoặc không
trở thành thành viên công ty. Trường hợp chủ thể sở hữu phần vốn góp nhưng chưa
phải là thành viên công ty đó là: người nhận chuyển nhượng đã hoàn thành thủ tục
chuyển giao quyền sở hữu nhưng chưa hoàn thành thủ tục xác nhận tư cách thành
viên, người hưởng thừa kế, người được tặng cho phần vốn góp đang trong quá trình
hoàn thành thủ tục gia nhập thành viên, người nhận thanh toán phần vốn góp do thành
viên công ty dùng phần vốn góp để trả nợ đang làm thủ tục gia nhập thành viên.
Trường hợp chủ sở hữu phần vốn góp không trở thành thành viên công ty đó là: người
được hưởng thừa kế nhưng không muốn trở thành thành viên công ty, người được
23
24
điểm e khoản 1 Điều 49 LDN 2020
khoản 4 và điểm b khoản 7 Điều 53 LDN 2020
12
tặng cho không thuộc đối tượng thừa kế theo pháp luật và không được Hội đồng thành
viên chấp thuận trở thành thành viên công ty, người nhận thanh toán do thành viên
dùng phần vốn góp để trả nợ không được Hội đồng thành viên chấp thuận. Thành
viên công ty bằng hành vi pháp lý đơn phương hay thông qua các giao dịch đã chuyển
quyền sở hữu phần vốn góp của mình cho các chủ thể kể trên. Tuy nhiên, vì lý do họ
chưa được xác nhận tư cách thành viên hay không là thành viên công ty nên quyền
định đoạt đối với phần vốn góp của họ sẽ có những hạn chế nhất định. Đối với các
chủ thể không trở thành thành viên công ty thì họ có thể định đoạt phần vốn góp của
mình thông qua hình thức yêu cầu công ty mua lại hoặc chuyển nhượng theo quy định
của pháp luật. Các trường hợp chủ sở hữu chưa phải là thành viên công ty sẽ được
tác giả phân tích tại Chương 2.
1.2.1.2 Đối tượng của quyền định đoạt phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên
Phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên được xác định là
tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công ty TNHH
hai thành viên trở lên. Thành viên phải góp vốn cho công ty đủ và đúng loại tài sản
đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, không kể thời gian vận chuyển,
nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài
sản. Như vậy, phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên sẽ bao gồm
phần vốn đã thực góp và phần vốn cam kết góp. Vấn đề đặt ra là thành viên công ty
có quyền định đoạt đối với phần vốn cam kết góp hay không.
Theo quy định của BLDS 2015 về tài sản hình thành trong tương lai thì tài sản
chưa hình thành là một loại của tài sản hình thành trong tương lai25. Phần vốn cam
kết góp có thể được xem là tài sản hình thành trong tương lai không. Theo tác giả thì
phần vốn cam kết góp có thể được xem là tài sản hình thành trong tương lai bởi những
lý do như sau: Thứ nhất, phần vốn góp là một loại tài sản, cụ thể nó là quyền tài sản.
Thứ hai, phần vốn cam kết góp chưa được hình thành tại thời điểm cam kết góp. Tại
thời điểm cam kết, thành viên chỉ thoả thuận về nghĩa vụ góp vốn của mình, thời hạn
góp vốn, tài sản sẽ dùng để thực hiện nghĩa vụ góp vốn và số vốn góp tương ứng với
tài sản cam kết góp,… Tài sản góp vốn có thể tài sản cam kết đã hiện hữu trên thực
tế như: bất động sản, động sản có sẵn của thành viên, tiền thuộc sở hữu của thành
viên,… hoặc tài sản cam kết này chưa hiện hữu như: các khoản nợ chưa thu hồi, số
tiền có thể vay ngân hàng, tiền mượn từ các chủ thể khác,… Tuy nhiên xét đến cùng
25
Điểm a khoản 2 Điều 108 BLDS 2015
13
thì dù là dùng tài sản đã hiện hữu hay chưa để cam kết góp vốn vào doanh nghiệp thì
phần vốn góp đó vẫn chưa được chuyển vào doanh nghiệp. Phần vốn cam kết góp sẽ
được thành viên thực hiện trong khoảng thời gian 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, đã đảm bảo tính “hình thành trong tương lai”.
Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để xác định phần vốn cam kết góp vào công ty TNHH
hai thành viên trở lên là một loại tài sản hình thành trong tương lai. Do đó thành viên
công ty hoàn toàn có quyền định đoạt với loại tài sản này. Bên cạnh đó tại khoản 2
Điều 47 LDN 2020 quy định trong thời hạn thực hiện nghĩa vụ góp vốn thì thành viên
có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết. Quyền định
đoạt phần vốn góp là một trong những quyền của thành viên công ty. Như vậy, trong
thời hạn cam kết góp vốn, thành viên công ty hoàn toàn có thể định đoạt phần vốn
góp của mình, bao gồm phần vốn đã góp và phần vốn cam kết góp theo quy định của
pháp luật.
1.2.2 Quy định của pháp luật về quyền chuyển nhượng phần vốn góp trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên
không chỉ đơn thuần là hợp đồng chuyển giao giá trị tài sản, mà còn liên quan đến
việc chuyển giao tư cách thành viên. Với đặc điểm là một loại hình công ty “đóng”,
hình thành trên cơ sở quen biết, tin cậy của các thành viên và có sự hạn chế sự thâm
nhập của người ngoài vào công ty ở một mức độ nhất định, các quy định của LDN đã
cho thấy quyền định đoạt của thành viên đối với phần vốn góp trong một số trường
hợp không chỉ phụ thuộc vào ý chí của riêng họ và không đương nhiên được tự định
đoạt tư cách thành viên gắn với phần vốn góp.26
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “chuyển nhượng là chuyển quyền sở hữu”27. Theo
cách định nghĩa này thì chuyển nhượng phần vốn góp có thể bao gồm thừa kế, tặng
cho, trả nợ bằng phần vốn góp.28 Tuy nhiên theo quy định của LDN 2020 tại điểm e
khoản 1 Điều 49 “định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ, tặng cho và hình thức khác theo quy định của pháp luật và Điều
lệ công ty”, Điều 52 về chuyển nhượng phần vốn góp và Điều 53 về xử lý phần vốn
góp trong một số trường hợp đặc biệt cho thấy cách hiểu trên là chưa hợp lý. “Bên
cạnh đó mục đích của các bên trong hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp là nhằm
vào lợi nhuận, bên chuyển nhượng nhận được bồi hoàn giá trị phần vốn góp còn bên
Bùi Thị Thanh Thảo, tlđd (14), tr. 21
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 188
28
Bùi Thị Mỹ Khanh (2012), Chuyển nhượng vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn - những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 13
26
27
14
- Xem thêm -