Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luậ...

Tài liệu Luận văn nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
111
1
133

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHẠM VÕ THẢO LIÊN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. VÕ THỊ KIM OANH TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan Luận văn Thạc sĩ “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Võ Thị Kim Oanh, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Phạm Võ Thảo Liên DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ đƣợc viết tắt BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao HĐXX Hội đồng xét xử UBND Ủy ban nhân dân HĐND Hội đồng nhân dân TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ............................................................................ 5 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu ............ 6 5. Kết cấu của luận văn ............................................................................................. 7 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ..................................................................................................... 9 1.1. Khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam............................................ 9 1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ....................................................................................... 14 1.3. Mối quan hệ giữa “xét xử độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” ................ 16 1.4. Mối quan hệ giữa nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật với một số nguyên tắc khác trong Bộ luật Tố tụng hình sự .................................................................................................................................... 18 1.5. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự ....................................... 22 1.6. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển quy định nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................................................................... 24 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................. 28 Chƣơng 2: NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................................. 29 2.1. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập ............................................................. 29 2.2. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật .............................. 40 2.3. Chế tài về việc vi phạm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ............................................................................................ 43 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................. 49 Chƣơng 3: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT ........................................................................................ 50 3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .................................................................................................. 50 3.2. Những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ............................................. 56 3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, bất cập ......................................... 66 3.4. Giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .................................................................... 72 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................. 77 KẾT LUẬN ................................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 1 PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 1 Phụ lục 1...................................................................................................................... 1 Phụ lục 2...................................................................................................................... 7 Phụ lục 3.................................................................................................................... 14 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong các nguyên tắc hoạt động của Tòa án, nguyên tắc độc lập xét xử là một trong những đặc thù của việc thực hiện quyền tư pháp và là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong tổ chức hoạt động của nhà nước pháp quyền. Hệ thống Tòa án nước ta những năm qua đã và đang vận hành theo nguyên tắc đó. Tòa án không chỉ là cơ quan xét xử các tranh chấp trong xã hội mà phải còn là nơi bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, công lý. Sự độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử nhằm thực hiện đúng đắn, đầy đủ quyền tư pháp được quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Trên cơ sở bảo đảm tính độc lập của Tòa án, hằng năm ngành Tòa án đã xét xử hàng nghìn vụ án, góp phần bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng về mặt thực tiễn, chưa có đủ cơ chế để bảo đảm tuân thủ nguyên tắc độc lập xét xử, mà cụ thể là, tính độc lập của Thẩm phán trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự chưa được bảo đảm; vị trí, vai trò của Hội thẩm trong quá trình xét xử vụ án hình sự chưa được đề cao. Ngoài mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thì Thẩm phán, Hội thẩm còn có mối quan hệ với các luật sư, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội. Thực tế, trong rất nhiều trường hợp, Thẩm phán, Hội thẩm bị ảnh hưởng, tác động từ phía luật sư, các tổ chức, cá nhân, các cơ quan Nhà nước, làm sai lệch quá trình tố tụng, ảnh hưởng không ít tới hoạt động tố tụng nhằm hướng tới việc xét xử có lợi cho mình. Do đó, việc nghiên cứu nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án là một vấn đề cần thiết và kịp thời, trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh hoạt động cải cách tư pháp, coi Tòa án là trung tâm của hoạt động xét xử. Vì những lý do trên, tác giả quyết định thực hiện đề tài “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Đề tài 2 này sẽ góp phần phân tích rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Từ đó, đề xuất những phương án nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nói chung và sự tuân thủ theo nguyên tắc xét xử độc lập nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua khảo sát, tác giả nhận thấy đã có một số công trình khoa học nghiên cứu và từng đề cập về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật như sau: Về giáo trình, sách chuyên khảo: Trường Đại học luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân; Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức; Trần Văn Biên & Đinh Thế Hưng (chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Bộ Luật tố tụng hình sự, Nxb. Hồng Đức; Lê Tiến Châu (2009), Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Trẻ; Lê Tiến Châu (2009), Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp; Võ Thị Kim Oanh (2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Hoàng Thị Sơn & Bùi Kiên Điện (1999), Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân; Nguyễn Tất Viễn (2019), Các nguyên tắc hiến định trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp; Lê Huỳnh Tấn Duy (2020), Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với ản án hình sự sơ thẩm, Nxb. ĐHQG TP.HCM; Tô Văn Hòa (2007), Tính độc lập của Tòa án – nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam, Nxb. Lao động… Các giáo trình và sách tham khảo nêu trên đều đề cập nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật với những khía cạnh tiếp cận khác nhau. Nguyên tắc này thường được nhắc đến như là một trong những nguyên tắc hiến định trong tố tụng hình sự Việt Nam. Vì vậy, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chỉ được thể hiện với dung lượng rất ít trong phạm vi nghiên cứu của các tác giả. Đối với quyển “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với ản án hình sự sơ thẩm”, tác giả luận văn đã tham khảo, đồng thời sử dụng một số bản án được nêu trong quyển sách, cùng những phân tích, bình luận của tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy dùng để minh chứng cho một số phân tích liên quan đến nguyên tắc xét xử độc lập. 3 Về các bài viết khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành Luật: Đã có những bài viết liên quan đến nguyên tắc này đăng trên các tạp chí, bài báo chuyên ngành luật. Điển hình là một số bài viết: Trần Thị Thu Hằng (2018), “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn thực hiện và kiến nghị”, Tạp chí Toà án; Ngô Cường (2018), “Về tính độc lập và quyền miễn trừ của Thẩm phán”, Tạp chí Toà án nhân dân; Hoàng Anh Tuyên (2015), “Những nội dung sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc xét xử trong Dự thảo Bộ Luật tố tụng hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Kiểm sát; Nguyễn Quang Hiền (2012), “Nguyên tắc "Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” - thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Kiểm sát; Nguyễn Đăng Dung (2014), “Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định của Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao (2012), “Tư pháp độc lập - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;… Nhìn chung, nội dung của các bài viết chỉ dừng lại ở việc nêu lên một hoặc một vài khía cạnh cụ thể của nguyên tắc này mà chưa nghiên cứu một cách tổng thể, có hệ thống. Với luận văn Thạc sĩ: Tác giả đã tìm đọc một số đề tài của Hà Duy Hiển (2016), “Vai trò của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự Việt Nam”, Đại học quốc gia Hà Nội; Phan Bá Bảy (2015), “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, Đại học quốc gia Hà Nội; Hoàng Hồng Phương (2011), “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Đại học quốc gia Hà Nội... Những luận văn trên đều nhắc đến nội dung của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và mối liên hệ của nó với các nguyên tắc khác trong Bộ luật Tố tụng hình sự, phân tích thực tiễn áp dụng nguyên tắc này trong nội bộ ngành tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng. Các tác giả nói trên cũng đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị mang tính xây dựng nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về vấn đề này góp phần vào quá trình cải cách tư pháp trong thời gian tới tại Việt Nam. Tuy nhiên, trừ luận văn của tác giả Hà Duy Hiển có vận dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (chưa sửa đổi, bổ sung) vào nội dung của mình, các tác giả khác đều viện dẫn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Hiến pháp để phân tích nội dung, ý nghĩa và thực tiễn thực hiện nguyên tắc. 4 Với Luận án Tiến sĩ: Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, công trình khoa học có ảnh hưởng nhất đến tác giả đề tài luận văn này phải kể đến đề tài của Quản Thị Ngọc Thảo (2015), “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Luận án tiến sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội. Những nội dung mà tác giả Quản Thị Ngọc Thảo đề cập trải rộng từ Tổng quan tình hình nghiên cứu nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở trong nước và nước ngoài; Những vấn đề lý luận của nguyên tắc này thông qua việc phân tích nguồn gốc và khái niệm của nguyên tắc, các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc và quy định của Luật Tố tụng hình sự một số quốc gia về nguyên tắc này. Ngoài ra, tác giả luận án còn phân tích chi tiết các quy định pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn áp dụng, đánh giá hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc này trong giai đoạn 2006 - 2015; Các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong xét xử vụ án hình sự. Những kiến thức lý luận và cách thức trình bày trong luận án là một tài liệu vô cùng đáng quý để tác giả luận văn học hỏi và kế thừa. Với giới hạn của một luận văn thạc sĩ, trong quá trình thực hiện và chỉnh sửa luận văn, tác giả luận văn đã nghiên cứu và kế thừa luận án của tác giả Quản Thị Ngọc Thảo, đặc biệt là phần khảo sát lấy ý kiến từ các vị Thẩm phán, Hội thẩm trong thực tiễn xét xử vụ án hình sự. Tuy rằng có tham khảo và kế thừa, nhưng về bản chất, các phân tích trong luận văn thạc sĩ này là dựa trên nội dung của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, các nội dung được trích dẫn trong luận văn cũng được tác giả tham khảo thêm từ ý kiến và quan điểm khác nhau của nhiều chuyên gia khác trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đối với các câu hỏi khảo sát, tác giả luận văn cũng có chỉnh sửa lại các điều luật cho phù hợp với luật mới và nội hàm của một số câu hỏi cũng khác với bản khảo sát của luận án. Về đối tượng tham gia khảo sát, tác giả Quản Thị Ngọc Thảo lấy ý kiến các đối tượng là Thẩm phán, Kiểm sát viên, luật sư công tác tại một số địa bàn ở cả 3 miền, các giảng viên và nhà khoa học… với 400 phiếu khảo sát. Trong khi đó, tác giả luận văn chỉ thực hiện khảo sát với 50 đối tượng giới hạn là Thẩm phán và Hội thẩm. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng tiến hành phỏng vấn chuyên gia với một số đối tượng tham gia khảo sát và tiến hành phân tích, bổ sung thêm các vụ việc vi phạm nguyên tắc 5 Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật diễn ra trong thực tiễn, được các phương tiện truyền thông công bố công khai để làm rõ hơn thực trạng thi hành nguyên tắc này. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố trên, đa phần đề cập về lý luận và hệ thống của Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, liên kết nó với thực tiễn tại Việt Nam, kinh nghiệm của thế giới… và chỉ ra những giải pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện nguyên tắc này một cách tối ưu nhất. Tuy nhiên, đa số những tác phẩm trên đều đưa ra những định nghĩa, phân tích nguyên tắc dựa trên Bộ luật Tố tụng hình sự cũ, chỉ có một vài giáo trình và sách tham khảo mới xuất bản những năm gần đây đề cập nguyên tắc này kèm theo diễn giải về nó khi áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự mới năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, những nghiên cứu được công bố của các tác giả trên đa phần chỉ phân tích những vấn đề bất cập còn tồn tại khi thực hiện nguyên tắc này về mặt lý luận, hoặc nếu có chỉ ra vướng mắc thì cũng không nêu lên được vụ việc cụ thể diễn ra như thế nào. Do đó, tại Chương 1 và Chương 2 luận văn này, tác giả đã kế thừa từ những nghiên cứu và lý luận của những người đi trước và quan điểm riêng mà tác giả đúc kết được. Đối với thực tiễn áp dụng pháp luật và những đề xuất giải pháp được đề cập tại Chương 3, tác giả luận văn đã kết hợp những nghiên cứu của các học giả trong ngành với quá trình trao đổi, khảo sát của tác giả với những Thẩm phán, Hội thẩm trong thực tiễn xét xử của họ, đồng thời trình bày thêm một số vụ việc cụ thể vi phạm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từng được các cơ quan truyền thông đưa tin trước đó. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; đặc biệt là sự độc lập của Hội thẩm đối với Thẩm phán trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã đề ra, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: 6 - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. - Phân tích để làm rõ Luật thực định về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật qua các quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. - Khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về sự độc lập giữa Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật để phát hiện những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó xác định nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập đó. - Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc xét xử độc lập trên phạm vi cả nước. - Mối quan hệ của nguyên tắc xét xử độc lập với các nguyên tắc khác thông qua Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, các văn bản pháp luật khác có liên quan. - Tham khảo các văn bản pháp luật nước ngoài có nội dung về xét xử độc lập. - Nghiên cứu nguyên tắc xét xử độc lập gắn liền với quy trình xét xử trên lý thuyết và thực tiễn thông qua các Biên bản nghị án, bản án của Tòa án… 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ đặt ra, luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lênin mà cụ thể là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả của luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học pháp lý hình sự nói chung và khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng đó là: 7 - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học: Nghiên cứu các quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực, hướng dẫn và các giá trị hệ thống hóa hay biện luận cho một nội dung trong văn bản pháp luật: Hiến pháp năm 2013; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; - Phương pháp điều tra xã hội học: Phát phiếu điều tra đến các Thẩm phán và Hội thẩm để nghiên cứu tình hình thực tiễn. - Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Đặt câu hỏi cụ thể với các Thẩm phán, Hội thẩm và ghi lại những ý kiến, trao đổi của họ về tình hình thực tiễn. - Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Phân tích một cách có hệ thống về các quy định trong quá khứ có liên quan đến nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu so sánh: So sánh những quy định pháp luật và truyền thống pháp lý của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Việt Nam với những quy định pháp luật và truyền thống pháp lý của một số quốc gia có quy định nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để từ đó xác định điểm tương đồng và khác biệt, giải thích sự khác biệt đó và đánh giá rút kinh nghiệm cho Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu đánh giá: Nghiên cứu những quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật, lý thuyết pháp lý, chính sách pháp luật, hoạt động pháp lý có liên quan đến nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Việt Nam. - Một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác được sử dụng như: Phương pháp phân tích – tổng hợp; Phương pháp Logic biện chứng; Phương pháp hệ thống; Phương pháp tổng kết thực tiễn. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 03 Chương. 8 Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2: Nội dung của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 9 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Thuật ngữ “nguyên tắc” được hiểu theo nghĩa chung nhất là “điều cơ bản đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”1 hoặc “những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, làm chỗ dựa để xem xét làm việc” 2. Như vậy, nguyên tắc được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động nào đó. Nguyên tắc pháp luật là vấn đề mang tính nền tảng, là xuất phát điểm để xác định nội dung tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội và là những tiêu chí để đánh giá giá trị của pháp luật đối với các chủ thể của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để thực hiện được mục đích phát hiện nhanh chóng, kịp thời, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cần phải có những định hướng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Những định hướng này thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc trong việc đấu tranh, xử lý tội phạm trong từng giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án và được gọi là nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự. Hiện nay, trong khoa học pháp lý, khái niệm về nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự được các học giả, nhà khoa học phân tích như sau: Tác giả Hoàng Thị Sơn đưa ra khái niệm nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự “là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số hoạt động tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự quy định”.3 Trong bài báo khoa học của mình, tác giả Nguyễn Ngọc Chí cho rằng, “Nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự là những phương châm, định hướng quan trọng chi 1 Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 694. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb. Giáo dục Hà Nội, tr. 508. 3 Hoàng Thị Sơn (1999), Những nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr. 5. 2 10 phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự”.4 Theo tác giả Lê Cảm, những nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự là nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự và được định nghĩa như sau: “Nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật Tố tụng hình sự, cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự thông qua một hay nhiều quy phạm (chế định) của nó của nguyên tắc tương ứng mà ta nghiên cứu”.5 Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm "Nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự là những tư tưởng, quan điểm, phương châm và định hướng chi phối hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự".6 Như vậy, có thể nhận thấy, mặc dù còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về khái niệm nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự, nhưng các học giả đều có điểm chung, đó là thừa nhận nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự là những quan điểm, tư tưởng, phương châm mang tính định hướng và chi phối hoạt động xây dựng, áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự. Những điều này không nằm ngoài mục đích bảo đảm hiệu quả cho hoạt động tố tụng, bảo đảm việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tố tụng hình sự có ba chức năng cơ bản, đó là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử.7 Theo Từ điển Luật học, xét xử “là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Không một ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án”. 8 Xét 4 Nguyễn Ngọc Chí (2008), “Các nguyên tắc cơ bản trong Luật Tố tụng Hình sự - những đề xuất sửa đổi, bổ sung”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24, tr. 242. 5 Lê Cảm (2015), “Các nguyên tắc luật tố tụng hình sự trong dự thảo luật tố tụng hình sự”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học pháp lý, tr. 45 - 46. 6 Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Nxb, Hồng Đức, tr. 55. 7 Lê Tiến Châu (2009), Chức năng xét xử trong Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 27. 8 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (1999), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 576. 11 xử bảo đảm sự ổn định của xã hội, giữ vững kỷ cương của pháp luật, bảo vệ quyền con người. Bằng việc xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Tòa án nhân danh công lý, nhân danh Nhà nước và sự công bằng của pháp luật để ra bản án hoặc phán quyết đối với từng hành vi phạm tội cụ thể. Độc lập là “đứng một mình, không dựa vào ai, không nhờ cậy ai, không bị ai kiềm chế”.9 Độc lập cũng có nghĩa là một mình tự lập, hành động không phụ thuộc vào người khác. Có quan điểm cho rằng, độc lập xét xử được xuất hiện từ tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp của Montesquieu, "…không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không được tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp”. Bản chất của quyền tư pháp là quyền xét xử, là việc nhân danh nhà nước giải quyết tranh chấp, giải quyết xung đột xã hội trên cơ sở pháp luật và lẽ công bằng, thông qua xét xử, theo các thủ tục tố tụng luật định, thông thường và chủ yếu là do Tòa án thực hiện. Quyền tư pháp độc lập là một tiêu chí đánh giá Nhà nước pháp quyền bên cạnh các tiêu chí: sự tối thượng của pháp luật, đặc biệt là sự tối thượng của hiến pháp và cơ chế bảo vệ sự tối thượng của pháp luật, hiến pháp – bảo hiến; bảo đảm tính chất chính trị và pháp lý của luật pháp (dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiệu lực, khả thi…). Một nền tư pháp độc lập là nền tảng cho sự thịnh vượng của các nền kinh tế, bởi vì chỉ có tư pháp độc lập, công dân mới có thể mong đợi các phán quyết của Tòa án dựa trên sự thật và pháp luật mà không chịu ảnh hưởng bởi bất kỳ tác động bất hợp pháp nào.10 Vậy nên, quyền tư pháp độc lập đòi hỏi sự khách quan và vô tư của người thực hiện công việc xét xử, mà cụ thể là độc lập trong toàn bộ công tác xét xử. Độc lập xét xử là một thuộc tính không thể thiếu trong bất kỳ quốc gia nào. Độc lập xét xử không ngoài mục đích bảo đảm sự công bằng tối cao của pháp luật, giữ vững sự cân bằng và kiểm soát các quyền lực của nhà nước, bảo vệ quyền con người. Độc lập xét xử ở nước ta bao gồm các thành tố cơ bản sau: sự độc lập của quyền tư pháp, sự độc lập của thiết chế thực hiện quyền tư pháp, sự độc lập của những người thực hiện quyền lực tư pháp. Hay nói một cách khác, sự độc lập của quyền tư pháp với các quyền lực nhà nước khác, sự độc lập của cơ quan Tòa án với các cơ quan quyền lực khác 9 Hoàng Phê (chủ biên) (1994),Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 316. Phí Thành Chung (2018), “Quyền Tư pháp và một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN VN”, Tạp chí Tòa án, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/quyen-tu-phap-va-mot-so-nguyen-tac-co-ban-cuanha-nuoc-phap-quyen-xhcn-vn, truy cập ngày 04/02/2021. 10 12 cũng như giữa các cơ quan Tòa án với nhau, sự độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử, sự độc lập của Thẩm phán, sự độc lập của Hội thẩm. Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Cũng như bất kỳ cơ quan nhà nước nào khác, Tòa án cũng phải quản lý cán bộ, quản lý ngân sách và cơ sở vật chất của đơn vị; Tòa án còn phải phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền và bảo vệ pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu của Tòa án vẫn là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Đó chính là sự tổng hợp một chuỗi hoạt động của Tòa án kể từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến khi ra bản án, ra quyết định thi hành án (đối với vụ án hình sự). Chủ thể được nhà nước trao quyền nhân danh nhà nước để thực hiện việc xét xử đó là Thẩm phán và Hội thẩm. Do tính chất quan trọng của hoạt động xét xử nên pháp luật quy định xét xử phải tuân theo những trình tự thủ tục và những nguyên tắc nhất định. Đối với các vụ án hình sự, chủ thể này càng khẳng định vai trò, trách nhiệm quan trọng của mình khi là nơi đại diện duy nhất của Nhà nước phán định một người là có tội hoặc không. Một bản án hình sự khi được phán quyết sẽ quyết định không chỉ trực tiếp đến quyền tự do của con người, tài sản vật chất đính kèm mà còn là cả tính mạng của cá nhân người bị kết án, ảnh hưởng đến cả cuộc sống gia đình của họ. Vì thế, quyết định của Tòa án phải là quyết định khách quan, chính xác và độc lập xét xử phải là một nguyên tắc hoạt động quan trọng của Tòa án. Việc Hội đồng xét xử đưa ra một bản án dựa trên sự độc lập, công bằng, khách quan, tuân thủ pháp luật không chỉ là mục tiêu của những nhà thực hiện chính sách pháp luật mà còn là kì vọng của toàn xã hội. Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014) cũng không nằm ngoài những mục tiêu đó. Nguyên tắc này gồm 2 nội dung. Một là xét xử độc lập, hai là xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà là sự độc lập trong khuôn khổ pháp luật. “Chỉ tuân theo pháp luật” là cụm từ nói lên định hướng hoạt động của Hội đồng xét xử, nghĩa là ngoài việc tuân 13 theo các quy định của pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm không bị bắt buộc, không cần tuân theo một ai khác, một cái gì khác. Hội đồng xét xử không thể có sự can thiệp từ phía lập pháp, hành pháp và cả từ hệ thống tòa án, từ phía xã hội vào việc xét xử của các Thẩm phán và Hội thẩm. “Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều cần cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện. Thẩm phán và Hội thẩm phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này là tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm. Từ những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt buộc thể hiện quan điểm của Nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong pháp luật Tố tụng hình sự, theo đó chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm (thành viên Hội đồng xét xử) mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, chính xác (mà không chịu chi phối bởi bất kỳ một sự tác động nào). “Có thể khẳng định rằng, sự ra đời của Tòa án gắn liền với hoạt động xét xử và xét xử là đặc điểm quan trọng nhất khi nói đến Tòa án… Hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực tư pháp”.11 Việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập bởi vì kết quả xét xử thể hiện nền công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả các mối quan hệ và cũng là thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp. Chính vì vậy, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam được coi là tiền đề nền tảng của hoạt động tư pháp hình sự trong nhà nước pháp quyền, là bảo đảm quan trọng cho việc xét xử được bình đẳng, dân chủ, khách quan. Tính độc lập của Tòa án thể hiện ở việc Tòa án phải có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư, không thiên vị, dựa trên bản 11 Hoàng Thị Quỳnh Chi (2014), “Nhận thức về nguyên tắc “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật””, Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/congtac-kiem-sat/nhan-thuc-ve-nguyen-tac-khi-xet-xu-tham-phan-va-ho-d10-t3614.html?Page=8#new-related, truy cập ngày 04/02/2021. 14 chất của sự việc và theo luật pháp mà không chịu những hạn chế, tác động hay ảnh hưởng không phù hợp, hoặc sự dụ dỗ, đe dọa hay can thiệp sai trái, một cách trực tiếp hay gián tiếp, từ bất cứ chủ thể nào, với bất cứ lý do nào.12 Muốn đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Trong quá trình nghiên cứu và xử lý vụ án hình sự, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là kim chỉ nam giúp HĐXX tự giác nâng cao trách nhiệm của mình, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết luận của Viện Kiểm sát đưa ra. 1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 1.2.1. Đặc điểm Từ khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của nguyên tắc này như sau: Thứ nhất, về mặt vị trí, đây là nguyên tắc hiến định bảo đảm cho việc xét xử công bằng, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013; Điều 23, Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014 và tiếp tục được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 với tư cách là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng của Tố tụng hình sự. Các chủ thể áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự phải tuân thủ các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự bảo đảm Thẩm phán, Hội thẩm được độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật. Thứ hai, về mặt phạm vi, nguyên tắc này chi phối không chỉ trong quá trình diễn ra phiên tòa xét xử, mà còn từ thời điểm Hội đồng xét xử được phân công thụ lý vụ án 12 Nguyễn Đăng Dung (2014), “Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định của Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Nghiên cứu Lập Pháp, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208218, truy cập ngày 04/02/2021. 15 hình sự, nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát cho đến khi giải quyết xong vụ án. Khi bắt đầu tiếp cận với hồ sơ vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm chính thức độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và đưa ra các kết luận về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm, không lệ thuộc vào quan điểm, chính kiến của thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Khi tiến hành xét xử, họ không bị lệ thuộc vào những ý kiến của những cơ quan, tổ chức, người có chức vụ quyền hạn hay một người nào đó, không phụ thuộc vào ý kiến của những cơ quan, những người tiến hành và tham gia tố tụng. Khi đưa ra phán quyết, để bảo đảm sự độc lập của Hội thẩm trong khi xét xử, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định Thẩm phán phải là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án đều phải được giải quyết bằng cách biểu quyết và quyết định theo đa số. Phạm vi của độc lập còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa các cấp xét xử. Tòa án cấp trên không được quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới trước khi xét xử một vụ án hình sự cụ thể. Đồng thời, khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, Thẩm phán cũng không bị lệ thuộc bởi các nhận định, những phán quyết của Tòa án cấp dưới. Thứ ba, pháp luật là chuẩn mực, là căn cứ duy nhất để Thẩm phán và Hội thẩm xem xét, đối chiếu với sự việc đã xảy ra, với hành vi được đưa ra xét xử. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ đưa ra các phán quyết của mình về việc phạm tội và hành vi phạm tội của bị cáo một cách chính xác, phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án đã xảy ra. Ngoài việc tuân theo pháp luật khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc bởi bất kỳ điều kiện nào. Tòa án nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý để xét xử nên cần phải căn cứ vào pháp luật để đưa ra các phán quyết cho từng vụ án hình sự cụ thể. Vì thế, Hội đồng xét xử, mà cụ thể là Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, nhưng độc lập trong khuôn khổ tuân theo pháp luật. Điều này có nghĩa là khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ, phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được tùy tiện, chủ quan trong việc áp dụng pháp luật. Bởi phán quyết của họ không phải biểu hiện trực tiếp cho quan điểm, thái độ của riêng cá nhân họ về vụ án, mà phán quyết này chính là thái độ của Nhà nước khi sử dụng pháp luật để răn đe những hành vi phạm tội và người phạm tội. Bản án của Hội đồng xét xử luôn đi kèm với việc “nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, nên chủ thể phải chịu trách nhiệm cho những hậu quả của sự
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan