Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn nguyên tắc độc lập của tòa hành chính ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Luận văn nguyên tắc độc lập của tòa hành chính ở việt nam hiện nay

.PDF
83
1
77

Mô tả:

TRẦN THỊ THÙY DƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH -----------***------------ NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TÒA HÀNH CHÍNH … TRẦN THỊ THÙY DƯƠNG MSSV: 1753801014031 NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TÒA HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Niên khóa: 2017 - 2021 Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Mạnh Hùng 2021 TP.HCM – Năm 2021 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH -----------***------------ TRẦN THỊ THÙY DƯƠNG MSSV: 1753801014031 NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TÒA HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Niên khóa: 2017 - 2021 Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Mạnh Hùng TP.HCM – Năm 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng. Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng, tham khảo một số nhận xét, đánh giá cũng như các số liệu của cá nhân, tổ chức đã cập nhật trước đó nhưng đều đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Người thực hiện khóa luận Trần Thị Thùy Dương LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy, Cô trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh vì những kiến thức và kinh nghiệm mà Thầy, Cô đã giảng dạy, trau dồi cho tôi trong khoảng thời gian học tập tại trường. Đây là nền tảng để tôi có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này và cũng là hành trang vô giá trên con đường học tập và công tác trong tương lai. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy Nguyễn Mạnh Hùng – giảng viên Khoa Luật Hành chính trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khóa luận. Đồng thời, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh ủng hộ, động viên để tôi thực hiện tốt khóa luận này. Cuối cùng, dù đã cố gắng hết sức để hoàn thành khóa luận nhưng vì kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế và thời gian nghiên cứu gấp rút nên cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ Thầy, Cô và các bạn để hoàn thiện đề tài hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn. DANH MỤC VIẾT TẮT Viết đầy đủ STT 1 2 3 4 5 6 7 Viết tắt Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm Hiến pháp 1946 1946 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm Hiến pháp 1959 1959 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Hiến pháp 1980 Nam năm 1980 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Hiến pháp 1992 Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Hiến pháp 2013 Nam năm 2013 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 2/L-CTN ngày Luật Tổ chức Tòa án 06 tháng 10 năm 1992 nhân dân 1992 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 33/2002/QH10 Luật Tổ chức Tòa án ngày 02 tháng 4 năm 2002 nhân dân 2002 8 Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 ngày Luật Tố tụng hành chính 24 tháng 11 năm 2010 2010 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 Luật Tổ chức Tòa án ngày 24 tháng 11 năm 2014 nhân dân 2014 10 Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 ngày Luật Tố tụng hành chính 25 tháng 11 năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019 2015 11 Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm Nghị quyết 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư NQ/TW pháp đến năm 2020 số 49- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TÒA HÀNH CHÍNH ..........................................................................................................6 1.1 Khái quát về quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp ............6 1.1.1 Quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp .................................6 1.1.2 Độc lập là nguyên tắc trọng tâm của nền tư pháp .....................................9 1.1.3 Các yêu cầu và điều kiện để đảm bảo nguyên tắc độc lập của nền tư pháp ..........................................................................................................................12 1.2 Tòa hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam .................22 1.2.1 Sự cần thiết phải thành lập các Tòa chuyên trách ...................................22 1.2.2 Sự ra đời của Tòa hành chính ở Việt Nam ..............................................25 1.2.3 Các yêu cầu và điều kiện để đảm bảo nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam .............................................................................................28 1.3 Nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới ...................................................................................................37 1.3.1 Tòa án hành chính theo pháp luật Cộng hòa Pháp ..................................37 1.3.2 Tòa án hành chính theo pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức ..................39 1.3.3 Tòa hành chính theo pháp luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa .............41 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................44 CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TÒA HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............45 2.1 Thực trạng quy định của pháp luật và việc thực hiện nguyên tắc độc lập độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay ...........................................45 2.1.1 Về mô hình tổ chức Tòa hành chính .......................................................45 2.1.2 Về đội ngũ Thẩm phán hành chính .........................................................50 2.1.3 Về quy trình tố tụng hành chính ..............................................................54 2.2 Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam.......................................................................................58 2.2.1 Quan điểm chỉ đạo của Đảng về việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính .................................................................................................58 2.2.2 Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện nguyên tắc độc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam.....................................................................................60 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................72 KẾT LUẬN ..............................................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân bắt đầu kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 33C thành lập Tòa án, đây là một mốc son lịch sử, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển và đổi mới của đất nước, hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta ngày càng hoàn thiện và lớn mạnh. Tòa án nhân dân đã và đang dần khẳng định vị thế của mình trong tổ chức bộ máy nhà nước, được xác định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; là trung tâm của các cơ quan tư pháp. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 92KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách tư pháp là “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, bảo đảm để Toà án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Để có thể hoàn thành tốt sứ mệnh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Tòa án nhân dân đã thành lập ra một hệ thống các Tòa chuyên trách để xét xử những vụ án có nội dung liên quan đến sự điều chỉnh của các ngành luật riêng, nổi bật trong số các Tòa chuyên trách thuộc hệ thống Tòa án nhân dân là Tòa hành chính. Việc tổ chức Tòa hành chính với tư cách là một Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân là vấn đề hết sức cần thiết; đây được xem là một bước đột phá mới, là giải pháp có tính tình thế, đáp ứng được yêu cầu khách quan của xã hội trong việc giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta vào thời điểm những thập niên 90 của thế kỉ XX. Sự ra đời của Tòa hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân với nhiệm vụ chuyên xét xử các khiếu kiện hành chính là bước ngoặt đánh dấu sự phát triển của nền tư pháp nước ta. Tòa hành chính là công cụ đắc lực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước cơ quan công quyền, đảm bảo quyền con người được thực thi trên thực tế. Do đó, nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính được coi là vấn đề mang tính cấp bách cần phải thực hiện trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tổ chức Tòa hành chính phải độc lập so với nhánh cơ quan lập pháp và hành pháp và với các cơ quan hành chính khác ở trung ương lẫn địa phương thì mới phát huy được vai trò và hiệu quả hoạt động của Tòa này trên thực tế. Tuy nhiên, với vai trò là một Tòa chuyên trách thuộc 2 hệ thống Tòa án nhân dân nên phần nào trong quá trình tổ chức và hoạt động Tòa hành chính vẫn phải chịu sự tác động của Tòa án nhân dân và sự can thiệp của các cá nhân, tổ chức, các cơ quan nhà nước khác. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và tiếp sau đó là Nghị quyết số 49NQ/TW để đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính. Xuất phát từ việc Tòa hành chính là một tòa có nét đặc thù riêng khác hoàn toàn so với các tòa còn lại trong hệ thống Tòa án nhân dân nên cần có cách nhìn nhận phù hợp để đảm bảo nguyên tắc độc lập của phân tòa này trong tổ chức và hoạt động. Độc lập là trọng tâm hàng đầu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta, có thể khẳng định rằng nếu hướng đến xây dựng một hệ thống Tòa án độc lập thì nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính luôn luôn phải được đặt lên hàng đầu vì Tòa hành chính chuyên giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa một bên là những người nắm giữ quyền lực nhà nước với một bên là người dân trong hoạt động quản lý hành chính. Tòa hành chính có thật sự độc lập, không bị lệ thuộc vào bất kì cơ quan, tổ chức, cá nhân nào thì mới đảm bảo được tính công bằng, khách quan của các phán quyết; đồng thời, cân bằng, đối trọng và hạn chế được quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của người dân trước cơ quan công quyền. Đặc biệt, nền hành chính nước ta đang trong giai đoạn cải cách nên vai trò và nhiệm vụ của Tòa hành chính lại càng quan trọng. Do đó, đảm bảo nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay là điều tất yếu phải thực hiện. Nhận thức được tầm quan trọng về vị trí, vai trò của Tòa hành chính trong hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như vấn đề làm thế nào để đảm bảo được sự độc lập trong tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính nên Tác giả quyết định chọn đề tài “Nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay” để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua quá trình tìm hiểu, Tác giả nhận thấy rằng đối với lĩnh vực Tòa án, đa số các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học chủ yếu tập trung nghiên cứu về mô hình tổ chức của Tòa án nhân dân trong Nhà nước pháp quyền hay nguyên tắc độc lập của Tòa án nói chung mà rất ít đề tài nghiên cứu về tổ chức của Tòa hành chính cũng như nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam. Nước ta đang trong giai đoạn cải cách hành chính nên các vấn đề liên quan đến Tòa hành chính được chú trọng nhiều hơn; thời gian gần đây trong khoa học pháp lý vấn đề về tổ chức và hoàn thiện hệ thống Tòa hành chính thu hút nhiều chuyên gia quan tâm, nghiên cứu, 3 trao đổi và đề xuất những ý kiến mới thông qua sách báo, tạp chí, và một số công trình nghiên cứu khoa học. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình chuyên khảo đề cập đến vấn đề này như “Giáo trình Luật hành chính Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Cửu Việt do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ban hành năm 2008 đã có một chương riêng biệt về Tòa án hành chính, trong đó đề cập rõ đến vấn đề tổ chức Tòa hành chính ở Việt Nam và ý nghĩa của nó; tác phẩm “Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta” của GS.TS Nguyễn Huy Gia; bàn sâu về Tòa hành chính còn phải kể đến hai đề tài của Thanh tra nhà nước là “Cơ sở khoa học và thực tiễn của việc thiết lập Tòa án hành chính ở Việt Nam” và đề tài “Tòa án hành chính – những vấn đề lý luận và thực tiễn”… Liên quan tới vấn đề này còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khác nhau như: “Nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa hành chính” của Trương Khánh Hoàn đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7 năm 2001; “Tổ chức và hoạt động của Tòa án hành chính – Một biện pháp mới bảo đảm quyền con người ở Việt Nam” của Nguyễn Thanh Bình trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 103 năm 1996; “Vai trò của Tòa hành chính trong đảm bảo quyền công dân theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015” của Dương Thị Tươi trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24 năm 2017; “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức Tòa hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân” của Trần Kim Liễu đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước số 1 năm 2011… và một số bài viết khác trên Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Quản lí nhà nước. Ngoài ra, có một số đề tài liên quan đến Tòa hành chính cũng đã được nghiên cứu, đó là các Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh như “Nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa hành chính trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” của Phan Hoàng Nam năm 2004; “Đối tượng xét xử của Tòa hành chính ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Vân Chi năm 1999; và gần đây nhất là Luận án Tiến sĩ luật học “Tòa hành chính trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân” của TS. Trần Kim Liễu năm 2011… Nhìn chung, việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến Tòa hành chính vẫn còn khá nhiều điều mới mẻ, mang tính sâu và rộng. Tuy Tòa hành chính đã được giới nghiên cứu tiếp cận, phân tích dưới nhiều bình diện, góc độ khác nhau nhưng chủ yếu là về tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính mà vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu và phân tích rõ về nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính. Vì vậy, đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về 4 nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính, từ đó hướng đến việc xây dựng hệ thống Tòa hành chính độc lập, vững mạnh trong tương lai. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Trong khuôn khổ đề tài, Tác giả đã tiến hành phân tích, đánh giá các yêu cầu và điều kiện để đảm bảo nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính, từ đó chỉ ra những ưu điểm và bất cập còn tồn tại trong quá trình thực hiện nguyên tắc này. Bên cạnh đó, Tác giả cũng nghiên cứu các mô hình Tòa hành chính của một số nước trên thế giới và liên hệ với thực trạng Việt Nam nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức Tòa hành chính ở nước ta, nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa hành chính, làm cho Tòa hành chính ngày càng độc lập; bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của công dân khi tham gia vào các tranh chấp liên quan đến hành chính. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là khái quát những vấn đề lý luận về nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay, từ đó thấy được thực trạng việc thực hiện nguyên tắc này và rút ra một số kinh nghiệm nhằm đảm bảo và tăng cường nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở nước ta. Đề tài “Nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài lớn, mang tính khái quát cao, đòi hỏi phải nghiên cứu công phu và toàn diện. Do đó, việc thực hiện đề tài còn gặp nhiều khó khăn, yêu cầu cần phải có thời gian và trình độ chuyên môn sâu rộng về lĩnh vực này. Vì đề tài này được thực hiện trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật nên Tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu một cách khái quát nhất về nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính từ khi thành lập đến nay mà không nghiên cứu về các Tòa chuyên trách khác trong hệ thống Tòa án nhân dân. Đồng thời, Tác giả cũng phân tích tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính của một số nước trên thế giới, qua đó đối chiếu, so sánh và rút kinh nghiệm để xây dựng mô hình Tòa hành chính ở nước ta độc lập hơn. Những kết luận, đề xuất Tác giả đưa ra trong khóa luận này mang tính chủ quan của Tác giả, do đó những ý kiến này chỉ mang tính định hướng, tham khảo; vì vậy, vấn đề này cần phải tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn nữa nhằm đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức của Tòa hành chính, đảm bảo sự độc lập của Tòa hành chính trong tiến trình cải cách tư pháp. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài này là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về công cuộc cải cách tư pháp nói chung và cải cách đối với tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính nói riêng được thể hiện trong các văn kiện của Đảng 5 cũng như các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành. Khóa luận tốt nghiệp này được viết dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Tác giả cũng đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh để làm rõ hơn về đề tài này trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Trong quá trình thực hiện đề tài này, Tác giả mong muốn những kết quả nghiên cứu được đưa ra sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn thông tin, tài liệu về tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính; đồng thời giúp cho mọi người có cái nhìn về nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính một cách khái quát và toàn diện hơn. Tác giả cũng mong muốn rằng những kiến nghị, đề xuất trong khóa luận sẽ “thổi một làn gió mới”, là tiền đề cho việc đổi mới hệ thống tư pháp cũng như đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính góp phần đảm bảo và tăng cường tính độc lập của Tòa hành chính, đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành chính trong giai đoạn hội nhập và phát triển của đất nước. Cuối cùng, Tác giả hy vọng rằng khóa luận về đề tài “Nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay” sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho những người nghiên cứu khoa học như Tác giả. 7. Cơ cấu của khóa luận Ngoài Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Lời mở đầu, Mục lục, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận được chia thành hai chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính. Chương 2: Nguyên tắc độc lập của Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện. 6 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TÒA HÀNH CHÍNH 1.1 Khái quát về quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp 1.1.1 Quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp Quan niệm quyền tư pháp đã có từ thời cổ đại, quyền tư pháp lần đầu tiên được sử dụng trong Bộ luật Hammurabi của người Lưỡng Hà được ban hành từ 1700 năm trước Công nguyên, với nghĩa là quyền lực xét xử bao gồm phân xử và phán xét1. Các vấn đề liên quan đến quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp gắn liền với sự ra đời của các tư tưởng và học thuyết phân chia quyền lực. Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp đã được khởi xướng bởi các nhà triết học xưa nhưng lý thuyết này tồn tại một cách mờ nhạt trong xã hội chiếm hữu nô lệ lẫn phong kiến và chỉ thật sự phát triển vào thời kì La Mã cổ đại. Tư tưởng phân quyền đã manh nha hình thành từ thời Hy Lạp cổ đại, người đặt mầm mống cho tư tưởng này là nhà triết học Aristotle (384 – 322 TCN). Trong cuốn “Chính trị luận” của mình, ông cho rằng bất kì nhà nước nào cũng tồn tại ba thành tố bao gồm nghị luận, chấp hành và xét xử; tương ứng với các thành tố trên là ba cơ quan: lập pháp nhằm làm ra luật, quyết định công việc chính trị và trông coi việc thực thi chúng; hành pháp thực thi các luật và quyết định đó; Tòa án nhằm xét xử các tranh chấp trong xã hội2. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, tư tưởng phân quyền của Aristotle chỉ mới dừng lại ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và chức năng của nó chứ chưa lập ra chủ trương nào về mối quan hệ giữa các cơ quan trên. Tư tưởng phân quyền được kế thừa và thật sự phát triển trong chế độ tư sản; học thuyết “phân chia quyền lực” của các học giả tư sản được ra đời, phát triển từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII và đạt được những thành tựu nhất định; trong đó, có thể kể đến quan điểm mang tính điển hình của hai học giả là John Locke và Charles Montesquieu. John Locke (1632 – 1704), một nhà triết học người Anh cho rằng quyền lực nhà nước được phân thành ba lĩnh vực là lập pháp, hành pháp và liên hợp. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước; quyền lập pháp phải thuộc về Nghị viện và quyền hành pháp thuộc về Nhà vua. “Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vụ, Chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của Nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và không có đặc quyền nhất định 1 Võ Khánh Vinh (2019), “Về quyền tư pháp và chế độ tư pháp ở Việt Nam”, Tòa án nhân dân, (16), tr. 1 – 15. 2 Chu Thị Ngọc (2010), “Phân quyền trong Nhà nước pháp quyền”, Luật học, (26), tr. 52. 7 nào với Nghị viện nhằm không cho phép Nhà vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên hợp, tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hoà bình, và đối ngoại”3. Cách phân chia quyền lực như trên có thể hiểu rằng quyền lập pháp cao hơn quyền hành pháp; quyền tư pháp chỉ là một bộ phận của quyền hành pháp, nhưng khi xét xử thì có sự tham gia của nhân dân, sự độc lập của Thẩm phán cần phải được tôn trọng. Những luận điểm phân quyền của J. Locke đã được học giả vĩ đại người Pháp là Charles Montesquieu (1689 – 1775) phát triển một cách toàn diện và độc lập thành học thuyết phân quyền, và sau này khi nói đến thuyết phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của ông. Montesquieu tổ chức quyền lực nhà nước theo phương thức phân chia quyền lực là để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, bảo đảm quyền tự do của con người. Kế thừa quan điểm của J. Locke về quyền hành pháp và liên hợp, Montesquieu chủ trương phân chia rõ hơn hai nhánh quyền lực này, tách quyền hành pháp ra khỏi quyền xét xử. Montesquieu quan niệm rằng mọi chính thể đều có ba thành phần: lập pháp để đưa ra luật lệ, hành pháp để quản trị quốc sự và đối ngoại, tư pháp nhằm phụ trách hình sự và phân giải các vụ tranh chấp của nhân dân. Theo đó, Quốc hội sẽ thực hiện quyền lập pháp với chức năng làm luật; quyền hành pháp thuộc về Chính phủ với chức năng thi hành luật và quyền tài phán sẽ thuộc về Tòa án với chức năng xét xử áp dụng pháp luật. Trong Tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, ông đã nêu rõ “Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp” và ông cũng khẳng định “Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp, thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức”4. Do đó, quyền lực nhà nước chỉ thật sự độc lập khi được phân thành ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; ba quyền này phải tách rời nhau không quyền nào cao hơn quyền nào thì mới có thể kiểm soát và kiềm chế đối trọng lẫn nhau; quyền tư pháp cần phải được độc lập, hoạt động xét xử cần phải bảo đảm tính đúng đắn và khách quan. Quan niệm về “tư pháp” và “quyền tư pháp” được nhìn nhận dưới rất nhiều góc độ khác nhau. Theo nghĩa Hán Việt, “tư pháp” được hiểu là: “pháp đình y theo pháp luật mà xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật”5. Còn theo định nghĩa của từ điển Black’s Law Dictionary thì quyền tư pháp (judicial power) là “thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và 3 Phạm Quý Đạt (2017), “Tính độc lập của hệ thống Tòa án Việt Nam trong việc thực hiện quyền tư pháp”, Dân chủ và Pháp luật, (01), tr. 21. 4 Montesquieu (1967), Tinh thần pháp luật, NXB Sài Gòn, tr. 84. 5 Đào Duy Anh (1996), Hán Việt từ điển, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 8 đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy”6. Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, quyền tư pháp là: “quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính”7; “xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp, vi phạm pháp luật từ phía công dân và các cơ quan nhà nước; bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân và trật tự an toàn xã hội”8; “phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”9. Quan niệm về quyền tư pháp được nhìn nhận dưới nhiều bình diện khác nhau nhưng trọng tâm của quyền tư pháp vẫn là quyền xét xử, và quyền này chỉ trao cho một cơ quan duy nhất đó chính là Tòa án. Quyền tư pháp là xét xử và việc xét xử chỉ do Tòa án thực hiện là quan niệm đã được hình thành khá sớm trong nhận thức và trong thực tiễn lập pháp, thực hiện pháp luật của Việt Nam. Thông qua xét xử, Tòa án sẽ giải quyết các tranh chấp, các xung đột xã hội của các bên dựa trên các quy định của pháp luật và lẽ công bằng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Với sứ mệnh bảo vệ công lý và bảo vệ quyền con người, do đó, Tòa án với chức năng là cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải độc lập, cân bằng với cơ quan thực hiện quyền lập pháp và hành pháp. Theo Hiến pháp 1946, quyền tư pháp mặc nhiên được thừa nhận là quyền lực độc lập và do Tòa án thực hiện. Tuy nhiên, khoảng thời gian trước Hiến pháp 2013 thì quyền tư pháp có khuynh hướng mở rộng hơn. Theo đó, quyền tư pháp trong giai đoạn này được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa rộng bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và ở nghĩa hẹp chỉ bao gồm hoạt động xét xử. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì điều này đồng nghĩa với việc các cơ quan thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, thi hành án cũng được mệnh danh là cơ quan tư pháp. Cách hiểu này vô hình chung đã hạ thấp vị trí, vai trò của quyền tư pháp với tư cách là một loại quyền lực đặc biệt, độc lập và chỉ do cơ quan xét xử thực hiện10. Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, điều này có thể hiểu rằng theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền tư pháp chỉ bao gồm quyền xét xử. Quan điểm như trên là phù hợp với xu hướng chung của thế 6 Bryan. Garner (2009), Black’s Law Dictionary, tr. 924. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 657. 8 Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân: Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 60. 9 Nguyễn Đăng Dung (2005), Thể chế Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 11. 10 https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/119/366 (truy cập ngày 07/4/2021). 7 9 giới, bởi hoạt động điều tra, truy tố và thi hành án mang hơi hướng của quyền hành pháp, nếu coi các hoạt động này cũng đang thực hiện quyền tư pháp thì chẳng khác nào đánh đồng giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp; giữa hai nhánh quyền lực này sẽ không có sự chế ước lẫn nhau, không có sự phân công, phân nhiệm trong quá trình hoạt động. Khái niệm tư pháp và quyền tư pháp có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhưng từ khi Hiến pháp 2013 được ban hành có thể khẳng định quyền tư pháp gắn liền với Tòa án và chỉ Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng thực hiện quyền tư pháp, vì vậy, Tòa án còn được gọi là cơ quan tư pháp và chỉ Tòa án mới là cơ quan tư pháp. Vì lẽ đó, quyền tư pháp phải tách bạch với quyền lập pháp của Quốc hội (xây dựng chính sách, tạo lập ra các quy tắc chung làm khuôn mẫu cho các hành vi) và quyền hành pháp của Chính phủ (quản lý nhà nước, thực thi pháp luật, tổ chức đời sống theo pháp luật). Tóm lại, Tòa án là một bộ phận cấu thành trong bộ máy nhà nước bên cạnh Quốc hội và Chính phủ; là trung tâm của quyền tư pháp với chức năng xét xử, gắn liền với việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân nên Tòa án phải thật sự độc lập thì mới đủ sức cân bằng, đối trọng với hai nhánh quyền lực còn lại. 1.1.2 Độc lập là nguyên tắc trọng tâm của nền tư pháp Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo quy định đó, giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp sẽ có sự thống nhất quyền lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực. Thực hiện tốt quyền tư pháp là phương hướng quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền và quyền tư pháp độc lập là một trong những nhân tố chính để góp phần bảo vệ vị trí tối thượng của pháp luật; xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, phù hợp và khả thi trong Nhà nước pháp quyền. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền với nền tư pháp độc lập cũng là vấn đề mà Việt Nam chúng ta hiện đang hướng đến. Tư pháp độc lập là nền tảng cho sự phát triển của đất nước bởi khi tư pháp độc lập thì phán quyết của Tòa án mới khách quan, công bằng và đúng theo quy định của pháp luật mà không chịu ảnh hưởng bởi bất kỳ sự tác động nào từ bên trong lẫn bên ngoài. Đặc biệt, quyền tư pháp độc lập là phương tiện không thể thiếu để hạn chế chính quyền 10 bằng luật, dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Do đó, quyền tư pháp độc lập trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền của mọi quốc gia11. Montesquieu đã khẳng định “Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp”, vì vậy, giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp cần phải có sự phân định rõ ràng, nhưng trong đó quyền tư pháp phải độc lập hơn cả. Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, lấy xét xử làm trung tâm và hoạt động của Tòa án một mặt chịu sự tác động của các cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan kiểm sát, chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước nhưng mặt khác là hoạt động độc lập, đặc biệt là trong quá trình xét xử12. Vấn đề độc lập tư pháp đã được chủ trương xây dựng ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, Hiến pháp 1946 đã ghi nhận: “Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Hiến pháp 1959, nguyên tắc này được quy định ở Điều 100: “Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp 1980 ghi nhận ở Điều 131: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, điều này cũng được quy định tương tự ở Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Đến Hiến pháp 2013 vấn đề này đã được quy định một cách rõ ràng hơn so với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Đây là quy định rõ nét nhất về sự độc lập của Tòa án nhân dân cũng như cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Điều này có nghĩa là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập xét xử trong mọi hoạt động tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến khi kết thúc phiên tòa, chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử” như các bản Hiến pháp trước. Đồng thời, việc quy định“nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” cũng là yêu cầu cần thiết để bảo đảm cho nguyên tắc độc lập này được áp dụng có hiệu quả trong hoạt động xét xử. Trước nhiệm vụ phát triển, bảo vệ đất nước và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Bộ Chính trị đã chủ trương ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW, trong đó nêu rõ “lấy Tòa án làm trung tâm, xét xử làm trọng tâm và lấy tranh tụng làm khâu đột phá; trọng tâm của cải cách tư pháp là bảo đảm cho nguyên tắc Tòa án độc lập có hiệu lực trên thực tế”. 11 Phí Thành Chung (2017), “Quyền tư pháp độc lập và một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tòa án nhân dân, (07), tr. 10 – 15. 12 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 478. 11 Trước đây, nhiều quan niệm cho rằng Tòa án chỉ là cơ quan xét xử, Tòa án nhân dân tối cao được xem như một cơ quan “bộ” ở trung ương; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được xem như cơ quan giúp việc cho Tòa án nhân dân tối cao. Nghĩa là tất cả các cơ quan Tòa án (trừ Tòa án tối cao), đều được xem như “Tòa án nhân dân địa phương”13. Vị trí, vai trò của Tòa án chưa được nhận thức thống nhất trong toàn xã hội nên phần nào làm cho việc quyết định các vấn đề về tổ chức Tòa án, nhân sự Tòa án cũng như chế độ lương bổng, nhiệm kì của Thẩm phán… được nhìn nhận tương đối giống với các cơ quan hành chính khác mà chưa thật sự được xây dựng đúng với tính đặc thù của Tòa án là một trong ba nhánh quyền lực của nhà nước, là một thiết chế đặc biệt, bảo vệ công lý, thực hiện nhiệm vụ của nhánh quyền lực tư pháp. Chính điều này đã làm giảm đi tính độc lập của Tòa án nói riêng và độc lập của cả nền tư pháp nói chung. Theo đúng tinh thần của Hiến pháp 2013, cần phải nhìn nhận Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện quyền tư pháp quốc gia. Trên cơ sở đó, để thực hiện nhiệm vụ của mình, các quy định về bộ máy tổ chức, nguyên tắc hoạt động của Tòa án; các vấn đề về bổ nhiệm, nhiệm kỳ, tuổi nghỉ hưu, tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán cũng như kinh phí hoạt động, điều kiện cơ sở vật chất của Tòa án và mối quan hệ giữa Tòa án với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; giữa Tòa án các cấp trong cùng hệ thống Tòa án; giữa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân với nhau cần phải được quy định lại và chú trọng nhiều hơn để đảm bảo được nguyên tắc độc lập của Tòa án được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Nhìn chung, tư pháp độc lập có thể được hiểu là sự độc lập của nhánh quyền lực tư pháp so với quyền lập pháp và quyền hành pháp cũng như sự độc lập của Thẩm phán trong quá trình xét xử và năng lực, uy tín, phẩm chất đạo đức của cá nhân người Thẩm phán. Khi nói đến tư pháp độc lập tức là đang đề cập đến hai khía cạnh là độc lập bên ngoài và độc lập bên trong. Độc lập bên ngoài nghĩa là tư pháp phải hoàn toàn độc lập với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác và không một tác động nào có thể ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của cá nhân Thẩm phán. Độc lập bên trong nghĩa là giữa các thành viên của Hội đồng xét xử phải độc lập với nhau và sự độc lập giữa Tòa các cấp với nhau trong cùng hệ thống Tòa án. Độc lập bên 13 Trương Hòa Bình (2014), “Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng quyền tư pháp”, Tòa án nhân dân, (16), tr. 3. 12 ngoài và độc lập bên trong có mối quan hệ khăng khít với nhau, là hai yếu tố cơ bản cấu thành nên sự độc lập của Thẩm phán và Tòa án. Đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng một nền tư pháp độc lập và tính độc lập cũng là giá trị cốt lõi của quyền tư pháp. Quyền tư pháp độc lập không có nghĩa là độc lập trong mọi sự hạn chế, không có giới hạn mà phải độc lập trong khuôn khổ theo quy định của pháp luật. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật sẽ dẫn đến sự tùy tiện của Thẩm phán và ngược lại nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không dựa trên quyền tư pháp độc lập có thể tạo ra sự cứng nhắc, máy móc. Do đó, khi và chỉ khi đáp ứng đủ các yếu tố nêu trên thì quyền tư pháp mới độc lập đúng nghĩa. Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, Việt Nam chúng ta cũng đang hướng đến xây dựng một nền tư pháp độc lập và có thể khẳng định rằng độc lập chính là nguyên tắc trọng tâm của nền tư pháp. 1.1.3 Các yêu cầu và điều kiện để đảm bảo nguyên tắc độc lập của nền tư pháp  Các yêu cầu để đảm bảo nguyên tắc độc lập của nền tư pháp Độc lập tư pháp là nội dung quan trọng được ghi nhận một cách minh thị trong nhiều Hiến pháp và pháp luật của các quốc gia trên thế giới, theo đó có thể hiểu một cách ngắn gọn độc lập tư pháp là quy định để Tòa án hoặc cơ quan tư pháp độc lập với mọi sự tác động từ bên trong lẫn bên ngoài. Để xây dựng một nền tư pháp độc lập thì trước hết phải xây dựng được một hệ thống Tòa án với cơ cấu tổ chức độc lập. Trong quá trình phân chia hoạt động của bộ máy nhà nước, có thể khẳng định rằng Tòa án là cơ quan có chức năng thực hiện quyền tư pháp; do đó, quyền lực của Tòa án phải được tách rời khỏi sự ảnh hưởng của quyền lập pháp và hành pháp. Sự tách bạch rõ ràng giữa quyền tư pháp với quyền lập pháp và đặc biệt là quyền hành pháp là một trong những thành tựu nổi bật trong hoạt động phân chia quyền lực nhà nước để đảm bảo cho sự độc lập của Tòa án trong quá trình xét xử. Thứ nhất, Hiến pháp 2013 có sự ghi nhận cụ thể và dứt khoát về quyền tư pháp; theo đó, quyền tư pháp chính là quyền xét xử và chủ thể thực hiện quyền tư pháp không phải là một cơ quan nào khác mà đó chính là Tòa án. Nguyên tắc độc lập của Tòa án là mấu chốt quan trọng tạo nên sự độc lập của nền tư pháp, được thể hiện tập trung ở ba khía cạnh bao gồm Tòa án phải độc lập về mặt thể chế, nghĩa là hệ thống tổ chức và những quy chế hoạt động của Tòa án phải có quy định riêng, không thể trùng và cũng không thể giống với các quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan lập pháp hay hành pháp; Tòa án phải có cơ cấu hành chính nội bộ riêng; quyết định của Tòa án không bị can thiệp, chi phối bởi các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong xã hội. Qua đó có thể nhận thấy rằng để đảm bảo Tòa án độc lập 13 thì trước hết tổ chức và hoạt động của Tòa án phải độc lập với bên ngoài. Một là, Tòa án phải độc lập với tổ chức Đảng. Nước ta theo cơ chế một Đảng, việc tổ chức quyền lực nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng nhằm đảm bảo hoạt động của Tòa án theo đúng đường lối chính trị, định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của Tòa án để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ theo luật định, duy trì và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng, dân chủ và nghiêm minh trong hoạt động thi hành pháp luật. Trong mối quan hệ với cơ quan tư pháp, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực về chính trị, tư tưởng; về tổ chức, cán bộ và về định hướng công tác thông qua việc định ra các nguyên tắc, quan điểm lớn làm cơ sở chính trị để xây dựng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như vạch ra các đường lối, chủ trương nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của cơ quan này. Bên cạnh việc khẳng định vai trò của mình đối với cơ quan tư pháp, Đảng cũng nhận thức được tính độc lập của hoạt động tư pháp là giá trị cốt lõi của việc thiết lập và duy trì nền công lý của Nhà nước pháp quyền, tất cả hướng đến xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tính độc lập của cơ quan tư pháp trong mối quan hệ với Đảng (với các cơ quan, tổ chức, lãnh đạo Đảng) là vô cùng quan trọng. Về nguyên tắc, Đảng lãnh đạo gián tiếp thông qua công tác xây dựng pháp luật; do đó, trong quá trình hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của mình, cơ quan tư pháp phải tuân theo pháp luật, tuân theo chủ trương, chính sách do Đảng đã đề ra mà không nhất thiết phải có sự chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của các cơ quan, tổ chức, cá nhân lãnh đạo các cấp uỷ14. Như vậy, trong mối quan hệ với Đảng, Tòa án được xác định là một chủ thể độc lập, độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, độc lập khi xét xử nhưng vẫn phải tuân theo sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử, Tòa án phải thể hiện đầy đủ trách nhiệm chính trị – pháp lý của mình trong mối quan hệ với Đảng và với cấp ủy Đảng; tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện tốt các chủ trương, đường lối mà Đảng đã định hướng. Mặc dù chịu sự lãnh đạo của Đảng nhưng Tòa án với tính chất là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đưa ra các phán quyết một cách khách quan, công bằng trên cơ sở của công lý và các quy định của pháp luật nên trong mối quan hệ với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và ngay cả với Đảng cầm quyền thì Tòa án phải có tính độc lập cao nhất. Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ nét ở việc định hướng xây dựng bộ máy, nguyên tắc hoạt động của Tòa 14 Trịnh Đức Thảo, Trần Thái Dương (2014), “Xây dựng và hoàn thiện mô hình quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp”, Nghiên cứu lập pháp, (22), tr. 11 – 21. 14 án cũng như việc xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo công tác chính trị – tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở định hướng của Đảng, Tòa án sẽ tiến hành cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch phù hợp để xây dựng và phát triển hoạt động của mình; điều này có thể hiểu rằng sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu chỉ dựa trên chủ trương, chính sách chung chứ không có nghĩa là ôm đồm, bao biện, làm thay công việc của cơ quan tư pháp. Hai là, Tòa án nhân dân phải độc lập với chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương đại diện cho nhà nước, nhân danh nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước; triển khai, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng, của nhà nước ở địa phương. Do đó, chính quyền địa phương phải đủ mạnh mới có thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong mối quan hệ với Tòa án, Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ quản lý Tòa án về các vấn đề liên quan đến tổ chức, nhân sự, kinh phí hoạt động cũng như điều kiện cơ sở vật chất mà không được can thiệp vào hoạt động xét xử và công việc nội bộ của Tòa án. Đồng thời, chính quyền địa phương cũng cần phải tạo điều kiện cho Tòa án có thể phát huy được hết vai trò của mình trong quá trình thực hiện quyền tư pháp. Trong công tác xét xử, Tòa án có quyền chủ động giải quyết các vụ việc một cách độc lập mà không chịu bất kì sự chỉ đạo nào từ phía Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân. Ba là, Tòa án phải độc lập các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; độc lập với các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức nghề nghiệp; độc lập với các cơ quan ngôn luận. Ngoài ra, Tòa án không phải chịu bất kì sự chất vấn, chỉ thị hay sự ràng buộc nào từ phía cơ quan lập pháp và cũng không phụ thuộc vào ngân sách hoạt động, nguồn nhân lực và vật lực của cơ quan hành pháp. Nếu Tòa án phụ thuộc vào một cơ quan nào đó thì Tòa có thể bị chi phối và dần mất đi tính độc lập. Đồng thời, Tòa án không phải chịu sự can thiệp của các tổ chức liên quan đến hoạt động của Tòa như Hiệp hội Thẩm phán, Đoàn luật sư, Hội Luật gia… và các cơ quan ngôn luận khác như báo chí, đài phát thanh, truyền hình… Các cơ quan này được đưa ra những bình luận về phán quyết của Thẩm phán và công tác xét xử của vụ án nhưng không được kích động hay tạo sức ép của dư luận đối với Tòa án. Việc xuất hiện và đưa tin tại phiên tòa cũng phải tuân theo quy định của pháp luật15. Các cơ quan ngôn luận khác chỉ được đưa tin có cơ sở, đúng sự thật, không phóng đại hoặc đưa ra những nhận định mang tính định hướng dư luận làm ảnh hưởng đến tâm lý xét xử của Thẩm phán. Ngoài các vấn đề nêu trên thì trong cơ cấu tổ chức của Tòa án cũng cần lưu ý 15 Điều 4 Thông tư 01/2014/TT-CA ngày 28 tháng 4 năm 2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về nội quy phiên tòa.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan