Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụ...

Tài liệu Luận văn nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
100
1
134

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH ĐẶNG TRẦN KHA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Định hướng nghiên cứu Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Phạm Quang Phúc Học viên : Đặng Trần Kha Lớp : Cao học Luật, Khóa 32 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Mọi lý luận, nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự tìm hiểu, phân tích dưới sự hướng dẫn của Giáo viên hướng dẫn. Các số liệu, trích dẫn, ví dụ đều có nguồn gốc rõ ràng, bảo đảm độ tin cậy, khách quan, chính xác. Người cam đoan Đặng Trần Kha DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự CHXHCNVN : Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam TNHS : Trách nhiệm Hình sự TTHS : Tố tụng Hình sự VAHS : Vụ án Hình sự VNDCCH : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa XHCN : Xã Hội Chủ Nghĩa MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM............................................................................................. 7 1.1. Nhận thức về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự ..................................................................................... 7 1.1.1. Một số thuật ngữ liên quan người bị buộc tội .......................................... 7 1.1.2. Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội ............................. 10 1.1.3. Khái niệm về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự .................................................................................. 12 1.2. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội ........................................................................................................... 14 1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất phát từ nội dung của quyền con người......................................................................... 14 1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội hình thành từ bản chất của Nhà nước ta ........................................................................... 16 1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất phát từ nhiệm vụ và thực tiễn của tố tụng hình sự ....................................................... 18 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .. 19 1.3.1. Giai đoạn từ sau khi Cách mạng tháng Tám – 1945 đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực thi hành......................................... 19 1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực............................................ 21 1.3.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực............................................ 23 1.3.4. Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực cho đến hiện nay ........................................................................................................... 25 1.4. Quy định của điều ước quốc tế và một số nước trên thế giới về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội ........................................ 27 1.4.1. Quy định của điều ước quốc tế về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người người bị buộc tội ............................................................................ 27 1.4.2. Quy định của một số nước trên thế giới về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội ....................................................................... 28 Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 30 CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM........................................................................ 31 2.1. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................. 31 2.1.1. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa ................................................ 31 2.1.2. Người bị buộc tội có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa ...... 40 2.1.3. Trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng .................................................. 48 2.2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................... 53 2.2.1. Những kết quả đạt được......................................................................... 53 2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó trong quá trình thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................................. 56 Kết luận chương 2 ................................................................................................. 70 CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI ...................... 71 3.1. Định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội ............................................................................................................................ 71 3.1.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa và tiếp tục thực hiện tinh thần của cải cách tư pháp do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng ....... 71 3.1.2. Tiếp tục thực hiện và hoàn thiện mục tiêu bảo đảm quyền con người ... 74 3.1.3. Tiếp tục hoàn thiện cải cách tư pháp, bảo đảm tranh tụng công bằng và tôn trọng sự thật của vụ án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự .............. 74 3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội ..................................................... 75 3.2.1. Một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ... 75 3.2.2. Một số giải pháp khác ........................................................................... 81 Kết luận chương 3 ................................................................................................. 86 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quyền bào chữa là quyền đã được ghi nhận trong các Công ước quốc tế, hễ khi nào có sự buộc tội xảy ra thì quyền bào chữa sẽ xuất hiện. Đây là một quyền có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo đảm cho mọi người đều được xét xử công bằng. Bảo đảm quyền bào chữa cũng chính là bảo đảm quyền con người. Bảo đảm quyền bào chữa chính là một trong các vấn đề cần phải thực hiện khi chúng ta đang trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Nhiều văn kiện quan trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam khi đề cập về vấn đề cải cách tư pháp đã lưu ý đến tầm quan trọng của hoạt động bào chữa. Chúng ta có thể kể đến Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định: “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Những chủ trương đó của Đảng ta đã được luật hóa vào trong hệ thống pháp luật một cách chi tiết. Điều này được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp trước đây, đặc biệt là trong Hiến pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định tại Khoản 4 – Điều 31 như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” và tại Khoản 7 – Điều 103 quy định như sau: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”. Như vậy, việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất hiện từ rất sớm (ngay cả trong giai đoạn tiền tố tụng) và trải dài cho đến khi kết thúc việc xét xử và với việc quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp – đạo luật tối cao của của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã góp phần khẳng định nội 2 dung bảo đảm quyền bào chữa chính là một “kim chỉ nam” cho tất cả các đạo luật có liên quan đến quyền bào chữa. Để cụ thể hóa những nội dung trên, Điều 16 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015) đã quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự như sau: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Quy định trên với vai trò là một quy phạm pháp luật mang tính nguyên tắc căn bản của BLTTHS 2015 đã khẳng định một lần nữa, rằng việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là một nội dung căn bản, quan trọng và không thể thiếu trong tố tụng hình sự tiến bộ, theo định hướng xây dựng nhà nước Pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa. Và một khi nó đã là nguyên tắc căn bản thì việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này phải hết sức nghiêm ngặt, chỉnh chu, nhằm bảo đảm quyền lợi của một chủ thể yếu (người bị buộc tội) trước các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Hơn nữa, trong BLTTHS 2015 đã quy định tách biệt hẳn một chương dành cho chế định bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Chương V) đã góp phần cho thấy các nhà làm luật đã rất quan tâm đến việc bảo đảm quyền bào chữa cũng như góp phần bảo đảm hơn nữa số phận pháp lý của một con người không bị oan, sai cũng như không bỏ lọt tội phạm trước sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng hữu quan. Tuy nhiên, trong tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay vẫn còn một số vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa cần phải giải quyết như: một số quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng làm cho việc thực hiện ở mỗi nơi mỗi khác hoặc hiểu sai tinh thần của quy phạm pháp luật; nhận thức của một số cơ quan tiến hành tố tụng ở một số địa phương còn theo lối mòn, chủ quan duy ý chí, chưa thể thay đổi nên dẫn đến làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa của người bị buộc tội, dẫn đến tình trạng làm oan, sai người vô tội và bỏ lọt tội phạm, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân. Từ các quan điểm nêu trên, có thể thấy việc nghiên cứu về mặt lý luận các quy định về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Luật tố tụng Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng là rất quan trọng trước yêu cầu cải cách tư pháp, 3 góp phần vào công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ những lý do trên, người viết chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội phải là một vấn đề khoa học pháp lý đã được rất nhiều tác giả, học giả nghiên cứu, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau: * Các công trình nghiên cứu: Luận án Tiến sỹ của Lương Thị Mỹ Quỳnh: “Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – So sánh giữa luật Tố tụng Hình sự giữa Việt Nam, Đức và Mỹ” Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thành Công “Quyền của người bào chữa theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” năm 2020. Luận văn Thạc sỹ của Đặng Văn Hùng, Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, năm 2012. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn, Hữu Thế Trạch: “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” năm 2009. Luận văn thạc sĩ của Lương Thị Mỹ Quỳnh “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam và Thụy Điển”, năm 2004. * Sách chuyên khảo: GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư, TS. Phan Trung Hoài (đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (xuất bản lần thứ hai), Nxb Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, năm 2019. TS. Nguyễn Văn Tuân, Quyền bào chữa và vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự, Nxb Dân Trí, năm 2018. TS.Luật sư Phan Trung Hoài, Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2015, Nxb Chính Trị Quốc Gia, 2016. TS. Võ Thị Kim Oanh (Chủ biên), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nxb Hồng Đức, năm 2016. 4 Trên đây là một số công trình nghiên cứu có thể nói là điển hình khi viết về “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam”. Đối với các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo, chủ yếu các tác giả chỉ nêu bật lên những điểm mới của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003. Đối với các các công trình nghiên cứu là luận văn Thạc sỹ, chủ yếu các tác giả viết về nguyên tắc này chủ yếu dựa trên tinh thần của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003. Do đó, tác giả muốn tiếp tục chọn đề tài này nhằm tiếp tục nghiên cứu, kế thừa và phát triển tiếp tục về mặt lý luận cũng như thực tiễn của nguyên tắc này, khi mà hiện nay BLTTHS 2015 đã và hiện đang có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, đặc biệt là khảo sát thực trạng thực thi nguyên tắc này trong việc áp dụng Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị, biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc theo tinh thần cải cách tư pháp. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, trong đó có sự tham khảo kinh nghiệm lập pháp của Việt Nam qua các thời kỳ và tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. - Phân tích, giải thích các quy định của luật Tố tụng Hình sự Việt Nam có liên quan nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. - Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam. 5 - Đề xuất, kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Tố tụng hình sự. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng Hình sự Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở xây dựng và các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội quy định tại Điều 16 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. - Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam từ năm 2018 đến nay. - Về không gian: Luận văn nghiên cứu việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, chủ yếu là dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài là: phương pháp phân tích-tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử. 6. Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn các vấn đề về lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang trong quá trình tiến hành cải cách tư pháp, đặc biệt là trong quá trình xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng phát triển, nhu cầu hội nhập với quốc tế là tất yếu, đòi 6 hỏi việc cải cách tư pháp ngày càng tiến bộ để phù hợp với xu hướng chung của quốc tế. Đồng thời, các vấn đề mà luận văn nghiên cứu, phân tích là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, các chương trình đào tạo sau đại học cũng như những người hành nghề luật, các nhà nghiên cứu về khoa học pháp luật nói chung và khoa học pháp luật TTHS nói riêng. Luận văn cũng góp phần làm rõ thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Qua đó, tác giả muốn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tinh thần tôn trọng nguyên tắc bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, để từ đó đưa ra một góc nhìn đúng đắn hơn về vị thế của người bị buộc tội, nâng cao tinh thần pháp luật tố tụng hình sự từ các chủ thể tiến hành tố tụng và các chủ thể tham gia tố tụng khác (chủ yếu là người bị buộc tội và người bào chữa). 7. Bố cục của luận văn: Luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục thì phần nội dung chính gồm có ba chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam. Chương 2. Nội dung và thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3. Định hướng tiếp tục hoàn thiện và một số giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. 7 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Nhận thức về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự 1.1.1. Một số thuật ngữ liên quan người bị buộc tội Khái niệm người bị buộc tội đã xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên việc luật hóa khái niệm này thì chỉ được thừa nhận chính thức trong BLTTHS 2015. Người bị buộc tội bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.1 - Người bị bắt: Khái niệm người bị bắt hiện nay vẫn chưa được quy định cụ thể trong BLTTHS 2015. Trước đây, người bị bắt vẫn chưa được xem là một chủ thể của quyền bào chữa, tức là chưa phải là người bị buộc tội. Cho đến khi BLTTHS 2015 có hiệu lực và thi hành, người bị bắt đã được các nhà làm luật quy định họ là người bị buộc tội và họ cũng có quyền bào chữa. Thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, có thể hiểu người bị bắt bao gồm người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt do đang bị truy nã. Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang được quy định tại khoản 1 – Điều 111 – BLTTHS 2015 như sau: “Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”. Qua quy định trên, chúng ta có thể hiểu người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là người đang thực hiện hành vi hoặc vừa thực hiện xong hành vi mà BLHS xem đó là tội phạm và hành vi đó bị phát hiện (quả tang), bất kỳ người nào cũng có thể truy đuổi và phải ngay lập tức giải người bị bắt đến cơ quan hữu quan có thẩm quyền. Người bị bắt theo quyết định truy nã theo quy định tại khoản 1 – Điều 112 – BLTTHS 2015 được quy định như sau: “Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ 1 Điểm đ – khoản 1 – Điều 4 – BLTTHS 2015. 8 người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.” Qua đó có thể hiểu, người bị bắt theo quyết định truy nã là người đã bị cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định truy nã về một tội phạm mà họ đã thực hiện, có thể là bị can, bị cáo, người đã bị kết án … mà họ bỏ trốn hoặc không biết họ đang ở đâu; bất cứ ai cũng có quyền bắt họ và phải giao ngay đến cơ quan hữu quan có thẩm quyền. Người bị bắt theo các trường hợp nói trên đều có quyền và nghĩa vụ cụ thể theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của họ được quy định tại Điều 58 – BLTTHS 2015. - Người bị tạm giữ: Căn cứ theo Khoản 1 – Điều 59 – BLTTHS 2015 thì có thể hiểu khái niệm người bị tạm giữ như sau: “Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.” Dựa vào quy định trên, ta có thể phân chia người bị tạm giữ thành hai nhóm như sau: Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố và đã có quyết định tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền. Mặc dù chưa có quyết định khởi tố về hình sự, nhưng trên thực tế, họ đã bị hạn chế một số quyền tự do nhất định và họ có nghĩa vụ phải khai báo hoặc trả lời câu hỏi của điều tra viên về hành vi có dấu hiệu tội phạm của mình. Có thể gọi đây là nhóm người bị tạm giữ nhưng chưa có quyết định khởi tố về hình sự. Người bị tạm giữ là bị can, bị cáo, người đã bị kết án, người đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ2. Trong những trường hợp này, họ vẫn có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật TTHS đối với người bị tạm giữ. Có thể gọi đây là nhóm người bị tạm giữ đã có quyết định khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định cụ thể tại khoản 2 và khoản 3 – Điều 59 BLTTHS năm 2015. Đặng Văn Hùng (2012), Nguyên tắc bản đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr 5 – 6. 2 9 - Bị Can Căn cứ theo khoản 1 – Điều 60 – BLTTHS 2015 thì có thể hiểu: “Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự”. Như vậy, so với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã xác định bị can ngoài là thể nhân còn có thể là pháp nhân. Tư cách bị can sẽ tồn tại trong quá trình “điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm.”3 Tuy nhiên, do pháp nhân không phải là một con người thực thể, nên việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân là bị can đươc thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật có pháp nhân đó. Tư cách của bị can chỉ chấm dứt khi Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự mà Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án. Đây có thể xem là những trường hợp chấm dứt tư cách tố tụng là bị can của người bị buộc tội theo chiều hướng có lợi cho họ, quyền công dân của họ sẽ được phục hồi một cách đầy đủ. Còn trong trường hợp khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, tư cách của bị can sẽ chuyển hóa trở thành bị cáo, quyền và nghĩa vụ của bị can cũng chuyển hóa thành quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Tuy nhiên, dù bị can có được chấm dứt tư cách bị can của họ theo chiều hướng có lợi hoặc chuyển hóa thành bị cáo khi có quyết định của Tòa án đưa vụ án ra xét xử, thì họ vẫn đang là người bị buộc tội, vẫn chưa được xem là người đã có tội. Chính vì họ chưa phải là người đã có tội (theo bản án của Tòa án đã có hiệu lực dành cho họ) nên họ vẫn có những quyền và nghĩa vụ nhất định mà các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho họ, đặc biệt là quyền bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Quyền và nghĩa vụ cụ thể của bị can được quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 – Điều 60 – BLTTHS 2015. - Bị cáo Theo quy định tại khoản 1 – Điều 61 – BLTTHS 2015 thì chúng ta có thể hiểu: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. So với trước đây, tại Điều 50 – BLTTHS 2003 chỉ quy định bị cáo chỉ có thể là cá nhân, thì nay, với BLTTHS 2015, bị cáo còn có thể là pháp nhân. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó. Tư cách bị cáo sẽ tồn tại từ giai đoạn có quyết định của Tòa án đưa vụ án ra xét xử và kéo dài đến khi có bản án, quyết định 3 Đặng Văn Hùng (2012), tlđd (2), tr 6. 10 có hiệu lực của Tòa án. Ở giai đoạn này, thực chất, bị cáo cũng mang tính quy định về mặt luật hình thức (chuyển hóa từ bị can khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử cũa Tòa án), họ vẫn không phải là chủ thể của cấu thành tội phạm, do đó, họ vẫn có một số quyền và nghĩa vụ nhất định trước các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo được quy định cụ thể tại khoản 2 và khoản 3 – Điều 61 – BLTTHS 2015. 1.1.2. Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội “Bào chữa” có thể hiểu là việc “Dùng lí lẽ và chứng cớ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự trước tòa án, hoặc cho việc nào đó đang bị lên án”4. Tuy nhiên, cách hiểu này vẫn còn mang tính mơ hồ, chưa cụ thể vấn đề. Bởi lẽ, nếu hiểu theo cách thông thường này, thì ngay cả trong tố tụng dân sự hoặc trong các vấn đề về phản biện xã hội vẫn tồn tại khái niệm bào chữa. Điều này là chưa phù hợp với thuật ngữ khoa học pháp lý của nước ta hiện nay. Vì hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm “bào chữa” chỉ tồn tại khi có sự buộc tội của cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát Nhân dân, Tòa án), hay hiểu theo một nghĩa khác, “bào chữa” chỉ xuất hiện trong hoạt động tố tụng hình sự. Còn trong hoạt động tố tụng dân sự (hoặc ngay cả hoạt động tố tụng hành chính) thì khái niệm “Bào chữa” không tồn tại. Một khái niệm khác định nghĩa: “Quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo là tổng hợp tất cả các quyền pháp luật dành cho họ sử dụng để chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.”5 Về mặt lý luận, khái niệm này đã khái quát được nội hàm của khái niệm quyền bào chữa; tuy nhiên, khái niệm này chưa chỉ ra được cụ thể hình thức thực hiện quyền bào chữa là như thế nào, vì người bị buộc tội ngoài quyền tự mình bào chữa thì họ còn có thể nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình. Để hiểu rõ hơn bản chất của khái niệm “bào chữa”, tác giả sẽ thông qua quan điểm về chức năng bào chữa mà theo quan điểm của tác giả, khái niệm về chức năng bào chữa sẽ giải thích được một cách cụ thể, rõ ràng khái niệm “bào chữa” nêu trên: “Chức năng bào chữa là một dạng hoạt động tố tụng hình sự được pháp luật bảo đảm cho người bị buộc tội khả năng bằng cách tự mình, nhờ người khác đưa ra Viện ngôn ngữ học (2018), Từ điển tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, tr.47. Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.70. 4 5 11 chứng cứ và lập luận nhằm không chỉ bác bỏ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm cho mình mà còn đưa ra những gì có lợi cho họ trong quá trình tố tụng”6. Qua đây có thể thấy, chức năng bào chữa là một chức năng có ý nghĩa hết sức quan trọng, được pháp luật bảo vệ và các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng. Khi và mỗi khi có chức năng buộc tội xuất hiện thì chức năng bào chữa cũng xuất hiện theo, nhằm mục đích minh oan hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Đồng thời, thông qua chức năng bào chữa, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về khái niệm quyền bào chữa. Quyền bào chữa của người bị buộc tội có thể được thực hiện theo hai hình thức: người bị buộc tội tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình. Người bị buộc tội tự bào chữa là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi đối diện với sự buộc tội từ phía cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) thì họ đưa ra các lý lẽ, lập luận và chứng cứ, tài liệu, đồ vật nhằm bác bỏ các quan điểm buộc tội đó. Lúc này, quyền bào chữa là một quyền mang tính khách quan và được pháp luật tố tụng hình sự quy định một cách cụ thể quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội trong việc thực hiện quyền này. Hình thức người bị buộc tội nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình (người được nhờ bào chữa ở đây chủ yếu là Luật sư; ngoài ra còn có bào chữa viên nhân dân, người đại diện, trợ giúp viên pháp lý) là việc mà người bị buộc tội vì nhiều lý do khách quan mà không có khả năng tự bào chữa cho mình (do hạn chế về trình độ pháp lý, khả năng phân tích, lập luận, …) nhờ người khác đứng ra bào chữa cho mình. Cần phải xác định rằng, những người được nhờ bào chữa không phải mặc nhiên tồn tại quyền bào chữa (hay biện hộ), mà họ chỉ phát sinh quyền bào chữa khi và chỉ khi có yêu cầu của người bị buộc tội hoặc trong một số trường hợp là do bào chữa chỉ định theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Việc nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa không làm mất đi quyền tự bào chữa của người bị buộc tội. Từ các khái niệm và quan điểm đã đưa ra như trên, tác giả đưa ra quan điểm của mình về khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội như sau: “Quyền bào chữa của người bị buộc tội là quyền mà chủ thể bị buộc tội đưa ra các chứng cứ, lý lẽ, lập lập nhằm mục đích bác bỏ hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trước các chủ thể tiến hành việc buộc tội. Người bị buộc tội Lê Huỳnh Tuấn Duy (2017), Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề Chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, Tài liệu lưu hành nội bộ Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr.10. 6 12 có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình.” 1.1.3. Khái niệm về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được quy định tại Điều 16 – BLTTHS 2015 như sau: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Theo hệ thống pháp luật Việt Nam, có thể hiểu nguyên tắc là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo quá trình nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật và buộc các chủ thể tham gia vào các quá trình thực hiện pháp luật phải tuân thủ một cách triệt để. Từ đó, có thể hiểu nguyên tắc trong pháp luật tố tụng hình sự là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo quá trình nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự hoặc là những phương châm, định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận7. Hay nói một cách tổng quát hơn, những nguyên tắc của pháp luật TTHS sẽ phải được tuân thủ trong suốt các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Dựa vào lý luận nêu trên, chúng ta có thể thấy, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội cũng chính là một nguyên tắc trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này là một phạm trù vừa mang tính khách quan, tính chủ quan và tính quy phạm: Tính khách quan thể hiện ở chổ, hễ khi nào có yếu tố buộc tội xuất hiện sẽ kéo theo sự xuất hiện của yếu tố bào chữa. Đây hoàn toàn là hai mặt đối lập với nhau, nhưng cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất, đó là hoạt động tố tụng hình sự. Tùy thuộc vào từng mô hình kinh tế - xã hội khác nhau mà nó sẽ có sự phản ánh khác nhau, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Tính chủ quan thể hiện ở chổ, khi các nhà làm luật đã nhận thức được tính khách quan của nguyên tắc bào chữa, thì họ đưa những tư tưởng, quan điểm đó trở thành đường hướng chỉ đạo trong việc thực hiện pháp luật tố tụng hình sự và buộc các chủ thể trong xã hội phải tuân thủ một cách triệt để, đặc biệt là trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. 7 Đặng Văn Hùng (2012), tlđd (2), tr.7. 13 Tính quy phạm thể hiện ở chổ, khi các nhà làm luật đã trải qua quá trình nhận thức về sự tồn tại của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, đồng thời đã đưa nó trở thành các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo thì bắt buộc họ phải có công cụ để điều chỉnh các chủ thể khác trong xã hội thực hiện. Công cụ đó chính là pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy, các nhà làm luật buộc phải pháp điển hóa những quan điểm, tư tưởng nói trên thành các quy phạm pháp luật, để chúng trở thành những quy tẳc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đạt được những mục đích nhất định. Tính khách quan, tính chủ quan và tính quy phạm nói trên trong nguyên tắc này có mối quan hệ biện chứng với nhau, tồn tại không tách rời nhau, không thể loại trừ lẫn nhau. Nguyên tắc bảo đảm quyền chữa của người bị buộc tội là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, do đó nó phải bảo đảm được ba thuộc tính này. Từ nhận thức này, chúng ta có thể thấy việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) khi phải đối mặt với sự buộc tội của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (chủ yếu là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát) là hết sức cần thiết, bởi lẽ, dù sao đi nữa họ cũng là những chủ thể yếu, bị hạn chế một số quyền nhất định trước các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có đầy đủ quyền hành theo quy định của pháp luật. Khái niệm “bảo đảm” được hiểu là: “Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”8. Từ khái niệm này, chúng ta có thể hiểu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chính là các biện pháp, cách thức làm cho quyền bào chữa chắc chắn phải thực hiện được, cung cấp cho người bị buộc tội đầy đủ các yếu tố cần thiết để họ thực hiện quyền bào chữa của mình, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm đến quyền bào chữa của người bị buộc tội. Khái niệm “bảo đảm” ở đây theo tác giả có thể hiểu theo hai nội dung chính như sau: - Bảo đảm về mặt vật chất: chúng ta có thể hiểu là bảo đảm cho người bị buộc tội có đầy đủ các quyền theo quy định của BLTTHS 2015, trong đó phải bảo đảm về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội, bảo đảm quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời, riêng về mặt kinh tế, nếu người bị buộc tội không có khả năng nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền phải bảo đảm quyền có người bào chữa cho họ nếu họ thỏa 8 Viện ngôn ngữ học (2018), tlđd (4), tr.48.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan