Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự việ...

Tài liệu Luận văn lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
97
1
133

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH LÝ SINH ĐẠI LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Định hƣớng nghiên cứu Mã số: 60380104 Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tân Duy Học viên: Lý Sinh Đại Lớp: Cao học Luật hình sự – Khóa 32 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân. Mọi lý luận, nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Các số liệu, trích dẫn, ví dụ có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy, khách quan và chính xác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng 2022 Ngƣời cam đoan Lý Sinh Đại năm DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ Luật Tố tụng hình sự ĐTV : Điều tra viên THTT TTHS : Tiến hành tố tụng : Tố tụng hình sự MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................................10 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong tố tụng hình sự...................................................................................10 1.1.1. Khái niệm lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi .................................10 1.1.2. Đặc điểm của lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi ...........................15 1.1.3. Ý nghĩa của lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi ..............................18 1.2. Cơ sở của việc quy định về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong tố tụng hình sự .....................................................................................................19 1.2.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................20 1.2.2. Cơ sở thực tiễn ..........................................................................................23 1.3. Nguyên tắc lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong tố tụng hình sự...........................................................................................................................26 1.3.1. Những nguyên tắc chung ..........................................................................26 1.3.2. Những nguyên tắc đặc thù ........................................................................28 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................32 CHƢƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN .........................................................................................................................33 2.1. Sơ lƣợc lịch sử các quy định về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong tố tụng hình sự ..........................................................................................33 2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi ...........................................................................................37 2.2.1. Quy định về triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi để lấy lời khai...........37 2.2.2. Quy định về trình tự, thủ tục lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi ....40 2.3. Thực tiễn lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi ...................................48 2.3.1. Những kết quả đạt được trong lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi .48 2.3.2. Những hạn chế trong lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi và nguyên nhân ...........................................................................................................................52 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................68 CHƢƠNG 3 NHU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN .............................69 3.1. Nhu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi và nâng cao hiệu quả thực hiện .................69 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi .......................................................................71 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi .........................................78 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................84 KẾT LUẬN ..............................................................................................................85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người dưới 18 tuổi là đối tượng được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đặc biệt quan tâm bảo vệ. Đảng và Nhà nước ta cũng luôn xây dựng một đường lối nhất quán, xuyên suốt trong vấn đề bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên, gần đây nhất, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 20/CT-TW ngày 5-11-2012 về việc “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới” xác định đây là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Hiện nay, chúng ta đang đứng trước một thực trạng đáng báo động là khi kinh tế, xã hội và đất nước ngày càng phát triển thì ngày càng nhiều những tiêu cực và tác động xấu ảnh hưởng đến sự phát triển của người dưới 18 tuổi. Đó là sự gia tăng về các tệ nạn như ma túy, mại dâm trẻ em, buôn bán trẻ em và người chưa thành niên hay thậm chí là những tội phạm về xâm phạm tình dục đối với người dưới 16 tuổi,... Đây là những hành vi trái với luân thường đạo lý, trái với các nguyên tắc, chủ trương và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Thêm vào đó, khi những trẻ em nói trên tham gia vào quá trình tố tụng, với tư cách là bị hại chúng hoàn toàn có thể phải chịu những tác động tiêu cực từ phía các cơ quan THTT, báo chí, dư luận xã hội,... Có thể kể đến một số hoạt động tố tụng như giám định pháp y, việc lấy lời khai của cơ quan điều tra hay thủ tục xét hỏi tại phiên tòa,... Những hoạt động tố tụng ấy sẽ tác động nhiều đến tinh thần, tâm trạng của đứa trẻ chưa kể đến sự tham gia của báo chí, sự bình phẩm của dư luận xã hội cũng có thể khiến cho bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng. Vì thế, để bảo vệ bị hại là người dưới 18 tuổi khỏi những tổn thương bởi tội phạm gây ra và chính từ quá trình tham gia tố tụng, chúng ta cần có một thiết chế mạnh mẽ, một sự quan tâm đúng mực đối với đối tượng này. Ở Việt Nam, với tính chất nghiêm trọng và ngày càng phức tạp của tình hình tội phạm liên quan đến người dưới 18 tuổi trong những năm gần đây đòi hỏi phải có một khung pháp lý hoàn thiện, xử lý khéo léo để ngăn ngừa, giảm thiểu những tác hại xấu đối với xã hội nhưng vẫn đảm bảo quyền tố tụng cơ bản, quyền con người và quyền công dân của người dưới 18 tuổi. Đều này góp phần giúp nước ta có thể hoàn thành mục tiêu xây dựng một nền tư pháp hiện đại, nhân văn theo hướng bảo 2 vệ quyền con người, quyền công dân, vấn đề bảo vệ bị hại – người trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần và tài sản là người dưới 18 tuổi nói riêng trong pháp luật luôn luôn cần phải được đề cao và tôn trọng. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi vẫn còn nhiều những vướng mắc, bất cập. Bất cập trong chính những nguyên tắc THTT; vẫn chưa có một đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên; bất cập trong việc xác định và đảm bảo những quyền đặc thù của bị hại nhất là trong hoạt động điều tra, xét xử của các cơ quan THTT. Việc thu thập chứng cứ và hoạt động lấy lời khai còn chưa hiệu quả, việc xác định bị hại và độ tuổi của bị hại còn nhiều những khó khăn, việc chưa đồng bộ hóa các cơ quan chuyên trách đối với người dưới 18 tuổi cũng là một rào cản lớn cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng,... Thêm vào đó, các quy định bảo vệ bị hại là người dưới 18 tuổi còn quy định sơ sài, chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức. Do đó, pháp luật TTHS phải có những quy định, thủ tục riêng để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng. Pháp luật Việt Nam luôn chú trọng đảm bảo thực hiện các quyền của người dưới 18 tuổi trong quá trình TTHS, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam đã cam kết. Vì thế, cần có những nghiên cứu bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thực thi trong hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi nhằm bảo đảm thực hiện việc bảo vệ quyền bị hại là người dưới 18 tuổi ngày một tốt hơn, vững chắc hơn. Chính vì vậy, nhận thấy được những khó khăn cần tháo gỡ của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng về vấn đề bảo vệ bị hại là người dưới 18 tuổi, cùng với đó cần trau dồi thêm việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của BLTTHS hiện hành trong mối tương quan, so sánh với một số chuẩn mực quốc tế cũng như pháp luật một số nước để từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung chế định lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi một cách hoàn thiện nhất, bảo đảm thực thi các ngh a vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết. Với những lý do đó, học viên quyết định chọn đề tài “Lấy lời khai bị hại là người ư i tu i t o luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm Luận văn thạc s luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi là một hoạt động quan trọng trong TTHS. Trong những năm qua, ở các mức độ khác nhau đã có những công trình khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khi nghiên cứu vấn đề lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. Tiêu biểu, có các công trình nghiên cứu sau đây: 3 Nhóm sách, giáo trình, sách bình luận chuyên khảo tiêu biểu liên quan đến đề tài nghiên cứu n ư: - Nguyễn Ngọc Diệp (2019), “Bình luận các tội phạm có bị hại là người dưới 18 tuổi trong Bộ luật hình sự năm 2015 và sự tham gia tố tụng của họ”, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. Công trình phân tích, bình luận và đánh giá những quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến người bị hại dưới 18 tuổi và các quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. - Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia. Cuốn sách này trình bày và phân tích chuyên sâu về khung pháp lý tư pháp hình sự người chưa thành niên của Liên hợp quốc và Việt Nam, trong đó tập trung chủ yếu vào những quy định của pháp luật TTHS điều chỉnh về người bị buộc tội dưới 18 tuổi. - Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), “Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề thủ tục giải quyết vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên Hợp Quốc”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. - Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Cuốn sách nghiên cứu chung về lý luận, quyền của người bị hại trong TTHS Việt Nam, nghiên cứu so sánh lịch sử hình thành và phát triển quyền của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự thế giới và Việt Nam; Đánh giá về thực trạng các quy định của pháp luật về quyền của người bị hại và thực trạng thực hiện quyền của người bị hại ở Việt Nam từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp thúc đẩy, bảo đảm quyền của người bị hại. Tuy nhiên tác giả nghiên cứu chung về quyền của người bị hại theo luật TTHS năm 2003. Các công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 về lấy lời khai người bị hại mà chưa đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định đó cũng như chưa giải quyết các vấn đề mang tính lý luận về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. Nhóm luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp cử nhân tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tiêu biểu có liên quan đến đề tài: - Lê Nguyên Thanh (2012), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến s Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu đã phân tích những vấn đề lý luận chung 4 về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra theo quy định của BLTTHS. Quyền và ngh a vụ của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra theo quy định của BLTTHS năm 2003. Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện. - Nguyễn Đức Thái (2015), “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến s Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại. Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt Nam. Chứ không nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động lấy lời khai người bị hại dưới 18 tuổi. - Huỳnh Thị Trúc Mai (2014), “Bảo đảm quyền con người của người bị hại chưa thành niên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Luận văn thạc s Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền con người của người bị hại chưa thành niên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và kiến nghị. - Nguyễn Thị Thanh Hương (2020), “Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc s Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu phân tích các quy định về xác định tuổi của người bị hại theo luật TTHS Việt Nam. Nhóm nghiên cứu khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài: - Cao Thị Hiền (2013), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm Thị Nguyên (2012), “Bảo vệ quyền con người của người bị hại trong tố tụng hình sự”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm Thị Xuân (2001), “Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nhóm các bài báo, bài viết tạp chí chuyên ngành luật, tham luận hội thảo có liên quan đến đề tài: Võ Thị Kim Oanh, Đinh Văn Đoàn (2015), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại”, Tạp chí khoa học pháp lý (8); Đinh Văn Đoàn (2017), “Thủ tục đối với bị hại là người dưới 18 tuổi trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (06); Trương Hồ Hải (2015), “Hoàn thiện quy định của Bộ 5 luật Tố tụng hình sự liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và quyền tự bảo vệ của bị hại tại phiên toà hình sự”, Tạp chí Luật học (2); Phạm Thanh Tú (2017), “Một số ý kiến nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (8); Nguyễn Đức Thái (2015), “Vai trò của người bị hại trong lịch sử Tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát (23); Trần Quang Tiệp (2006), “Một số vấn đề về người bị hại, nguyên đơn dân sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm sát (4); Vũ Gia Lâm (2011), “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học (11); Lê Tiến Châu (2007), “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý (1); Nguyễn Phương Thảo (2020), “Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra, xét xử và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý (05); Lại Kiên Cương (2020), “Lấy lời khai bị hại là phụ nữ và trẻ em trong các vụ án hiếp dâm – những khó khăn, vướng mắc và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Khoa học kiểm sát (2); Nguyễn Cao Cường (2018), “Lấy lời khai và kiểm sát lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (06); Vũ Thị Quyên, Nguyễn Thị Kiều Anh (2017), “Thủ tục tố tụng đối với bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện nhà nước và Pháp luật (01); Trần Minh Hưởng (2007), “Nâng cao hiệu quả pháp lý lấy lời khai bị hại trong điều tra các vụ án mua bán phụ nữ, trẻ em”, Tạp chí Kiểm sát (21); Phạm Ngọc Cường, Trần Nguyên Quân (2001), “Phương pháp tác động tâm lý để lấy lời khai người bị hại trong các vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát (06). Phan Trung Pháp, Chế Việt Hải, Nguyễn Hoàng Trúc Nhi, Trần Thị Thảo Nhi (2019), “Trợ giúp pháp lý đối với bị hại là người dưới 18 tuổi theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Công trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh viên cấp trường lần thứ XXIII năm học 2018 – 2019; Trương Nhật Minh, Nguyễn Hoài Thương, Trần Thị Hường (2018), “Bảo vệ người bị hại dưới 18 tuổi theo hướng dẫn của Liên hợp quốc và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Công trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh viên cấp trường lần thứ XXIII năm học 2018 – 2019; Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người bị hại dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc”, Báo cáo tổng kết đề 6 tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp trường; Võ Thị Kim Oanh, Trịnh Duy Thuyên (2015), “Một số vấn đề về lấy lời khai bị hại”, Tài liệu hội thảo, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn chung các công trình thuộc nhóm trên đã nghiên cứu về hoạt động lấy lời khai bị hại trên nhiều góc độ và nhiều phạm vi khác nhau. Những giải pháp mà các tác giả đưa ra chủ yếu là những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật, nhưng do mỗi một công trình nghiên cứu một khía cạnh khác nhau nên các giải pháp không mang tính tổng thể, toàn diện về hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi mà chỉ đề cập đến những quy định về nguyên tắc đối với bị hại là người dưới 18 tuổi một cách khái quát, chỉ ra một số vướng mắc và nêu ra một số giải pháp về nội dung mà tác giả muốn nói đến chứ chưa đi sâu vào phân tích các biện pháp cụ thể đối với hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. Các công trình nghiên cứu sâu về vấn đề lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi chủ yếu nghiên cứu ở dưới dạng bài báo, có rất ít bài nghiên cứu về các quy định đối với hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi theo BLTTHS 2015. Tuy nhiên, các bài viết, tạp chí trên cũng có nhiều nội dung để tác giả nghiên cứu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích các vấn đề về “Lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi theo luật TTHS Việt Nam” dưới góc độ nghiên cứu các quy định của BLTTHS Việt Nam là hoàn toàn mới trong sự tương quan với các chế tài khác của pháp luật là một vấn đề hoàn toàn mới. Việc nghiên cứu vấn đề này có giá trị tham khảo về mặt lý luận cũng như thực tiễn để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam liên quan đến bảo vệ quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi một cách tốt nhất, phù hợp với thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ục đ c ng iên cứu Luận văn được thực hiện với mục đích chính là tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi và nâng cao hiệu quả thực hiện. iệm vụ ng iên cứu Phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề nhận thức về bị hại là người dưới 18 tuổi ở khía cạnh lý luận và pháp lý; tìm hiểu lịch sử hình thành TTHS về bị hại là 7 người dưới 18 tuổi đồng thời tham khảo xu hướng lập pháp và pháp luật TTHS hiện nay của một số quốc gia trên thế giới để có thể nhận thức đúng về bản chất, vị trí, vai trò của chủ thể này trong TTHS Việt Nam. Tìm hiểu các quy phạm pháp luật về chế định bảo vệ bị hại là người dưới 18 tuổi trong các hướng dẫn, văn bản pháp lý của Việt Nam và của cả Liên Hợp Quốc. Đồng thời đánh giá thực trạng áp dụng chế định trên để tìm hiểu mức độ đảm bảo quyền của người chưa thành niên nói chung và bị hại là người dưới 18 tuổi nói riêng. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tác giả đưa ra đề kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS 2015 và xây dựng được các giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về chế định này. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về hoạt động lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi và thực tiễn hoạt động lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thời gian qua. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung làm rõ quy định của BLTTHS 2015 và các văn bản có liên quan về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu các phương pháp, chiến thuật lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. - Về không gian và thời gian: Việc khảo sát thực tiễn của luận văn được thực hiện trên phạm vi cả nước trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2021, trong đó các số liệu thu thập phục vụ chứng minh cho nghiên cứu chủ yếu kể từ khi BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành đến thời điểm hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Để thực hiện luận văn này, tác giả đã vận dụng quan điểm của chủ ngh a duy vật biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về quyền con người. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền. 8 5.2. P ương p áp ng iên cứu Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau đây: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học được sử dụng ở các chương của luận văn nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của bị hại dưới 18 tuổi. - Phương pháp nghiên cứu lịch sử được sử dụng để phân tích một cách có hệ thống, đánh giá quá trình phát triển, thực trạng áp dụng pháp luật về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. - Phương pháp so sánh được sử dụng trong việc xác định quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của bị hại dưới 18 tuổi có tính đến kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này. - Phương pháp nghiên cứu tình huống được sử dụng để phân tích, đánh giá các vụ việc, vụ án hình sự để minh chứng cho những kết quả đạt được, hạn chế trong thực tiễn lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. 6. Những đóng góp của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự, thông qua việc đưa ra những khái niệm cũng như phân tích những vấn đề liên quan đến lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi nhằm tác động đến nhận thức của ĐTV về việc tuân thủ các trình tự, yêu cầu của pháp luật TTHS trong hoạt động lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi. Qua đó đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng các quy định của pháp luật về lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu, nghiên cứu thực tiễn lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi để thấy được những điểm hạn chế, tồn tại của việc sử dụng biện pháp này, từ đó đề xuất những kiến nghị sát thực nhằm đảm bảo hơn nữa quyền con người nói chung và quyền của người bị hại dưới 18 tuổi một cách tốt nhất. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 9 C ương : Những vấn đề lý luận về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự. C ương : Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi và thực tiễn thực hiện. C ương : Nhu cầu, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi và nâng cao hiệu quả thực hiện. 10 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi Khi nghiên cứu hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi, tác giả thấy rằng, hiện nay, một số thuật ngữ pháp lý liên quan đến bị hại là người dưới 18 tuổi vẫn chưa có sự thống nhất trong cách hiểu. Do đó, để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả xin đưa ra và phân tích một số khái niệm để làm rõ hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. Bị hại là một khái niệm mang tính tương đối trong khoa học pháp lý về TTHS. Tùy theo quan điểm của nhà làm luật qua các thời kỳ mà pháp luật TTHS sẽ quy định khác nhau về khái niệm bị hại. Có thể nói, bị hại chỉ là một trong số những chủ thể bị thiệt hại trong TTHS bởi có rất nhiều chủ thể bị thiệt hại về vật chất lẫn phi vật chất do tội phạm gây ra. Ngoài ra, chính khái niệm bị hại cũng có những quan điểm khác nhau như có những quan điểm chỉ coi bị hại là cá nhân nhưng cũng có nhiều quan điểm cho rằng bị hại gồm cả tổ chức, pháp nhân. Người bị hại là thuật ngữ pháp lý sử dụng đối với cá nhân bị thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc về tài sản gây ra bởi một tội phạm. Từ điển Tiếng Việt giải thích thuật ngữ người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, vật chất hoặc tinh thần do tội phạm gây ra”1, còn theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học pháp lý người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân, bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân”2. Thuật ngữ “bị hại” dùng để chỉ một sự thiệt hại, mất mát, có thể là thiệt hại về thể chất như tính mạng, sức khoẻ của một người; tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng, định đoạt của cá nhân hay tổ chức; cũng có thể là bị thiệt hại về tinh thần hoặc thiệt hại về các quyền và lợi ích hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Với việc dùng thuật ngữ “bị” thể hiện những tác động gây ra thiệt hại phải mang 1 2 Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng năm 2004, tr.698. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, tr.198. 11 tính tiêu cực từ bên ngoài mà cá nhân hay tổ chức không mong muốn tiếp nhận nó. Trong khoa học pháp lý hình sự trước đây chỉ đề cập bị hại là con người cụ thể, là người bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội của tội phạm. Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”3. Quy định này chưa làm rõ những vấn đề quan trọng như: thiệt hại do tội phạm gây ra có bao hàm những thiệt hại gián tiếp? Có được xem là người bị hại trong những trường hợp phạm tội chưa đạt? Vấn đề này cần căn cứ vào các loại cấu thành tội phạm cũng như tính chất của sự thiệt hại để xác định người bị hại. Trong khoa học luật hình sự: Đối với các loại tội phạm có cấu thành vật chất bắt buộc phải có hậu quả xảy ra và hậu quả đó thường là thiệt hại về thể chất và vật chất. Trong trường hợp này sự thiệt hại gây ra cho người bị hại phải là thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra, những thiệt hại cụ thể và xác định, thiệt hại đó có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Đối với các tội có cấu thành hình thức thì thiệt hại gây ra cho người bị hại thường là thiệt hại về tinh thần, vì vậy thiệt hại đó có thể không cụ thể, khó định lượng. Ở nội dung này Ts. Lê Nguyên Thanh trong luận án tiến s luật học của mình với đề tài “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam”4 phân tích rất cụ thể đã nêu ra các quan điểm khác nhau xác định người bị hại trong trường hợp người đã bị tội phạm đe dọa gây ra thiệt hại nhưng thiệt hại chưa xảy ra. Tác giả đồng tình với TS. Lê Nguyên Thanh khi cho rằng dấu hiệu “đã thực tế bị thiệt hại” không phải là dấu hiệu bắt buộc của người bị hại. Chỉ cần có hành vi phạm tội đe dọa gây ra thiệt hại cho một người được xác định thì người đó là người bị hại mà không nhất thiết đã bị thiệt hại hay chưa và tội phạm đó có cấu thành vật chất hay cấu thành hình thức5. BLTTHS năm 2015 ra đời là một bước tiến mới trong công tác lập pháp, đã có những quy định hợp lý, toàn diện và phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền con người. Đặc biệt đối với bị hại, BLTTHS năm 2015 quy định không chỉ bao gồm cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản như quy định tại BLTTHS năm 2003 mà còn bao gồm cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Điều này giúp khắc phục hạn chế của BLTTHS 3 Điều 51 BLTTHS năm 2003. Lê Nguyên Thanh (2012), Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận án tiến s luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.28 – 31. 5 Nguyễn Thế Thắng (2019), Lấy lời khai của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc s luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.9. 4 12 năm 2003, tạo sự công bằng về địa vị pháp lý cho cá nhân, cơ quan và tổ chức bị tội phạm gây thiệt hại6. Khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”7. Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, tác giả xin được nhắc đến thuật ngữ “bị hại” dưới góc độ là cá nhân (người bị hại). Sau khi nghiên cứu các quan điểm và nhận thức về bị hại theo quy định của pháp luật hiện hành, tác giả đưa ra khái niệm về bị hại như sau: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Nếu bị hại là dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại. Trong trường hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại”. Cùng với khái niệm bị hại, tác giả đi sâu vào tìm hiểu thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” để làm rõ hơn chủ thể của đề tài nghiên cứu. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do năm 1990 (Quy tắc Havana) lại định ngh a một cách đơn giản hơn: “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”8. Ủy ban Quyền con người nhấn mạnh rằng trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), giới hạn độ tuổi chưa thành niên được xác định bởi từng quốc gia thành viên phụ thuộc vào yếu tố xã hội, văn hóa và những điều kiện khác nhưng theo quan điểm của cơ quan này thì tất cả những người dưới 18 tuổi nên được đối xử như người chưa thành niên ít nhất trong các vấn đề liên quan đến tư pháp hình sự9. Như vậy, có thể từ lúc đầu thuật ngữ người chưa thành niên trong khung pháp lý của Liên Hợp Quốc bao gồm cả nhóm người nhất định trên 18 tuổi nhưng về sau dựa 6 Lê Huỳnh Tấn Duy, Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần thứ nhất: “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bài viết trong Võ Thị Kim Oanh (Chủ biên, 2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật TTHS năm 2015, Nxb Hồng Đức, tr.17. 7 Khoản 1 điều 62 BLTTHS năm 2015. 8 The UN Rules for the Protection of Juveniles Deprived of their Liberty (“Havana Rules”), adopted by the General Assembly resolution 45/113 of 14 December 1990, A/RES/45/113, Article 11.a. 9 UN Human Rights Committee (HRC), CCPR General Comment No.21: Replaces general comment 9 concerning humane treatment of persons deprived of liberty (Artcle 10), 10 April 1992, paragraph 13. 13 trên khái niệm trẻ em trong Công ước về Quyền trẻ em, các cơ quan của Liên Hợp Quốc đã sử dụng thuật ngữ trẻ em phổ biến hơn và có phần nào tương đồng với thuật ngữ người chưa thành niên trong các văn bản, tài liệu của mình10. Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên được quy định tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”11. Trong khi pháp luật dân sự lấy độ tuổi để xác định tư cách chủ thể của người tham gia quan hệ pháp luật thì pháp luật hình sự lại dựa vào độ tuổi để xác định tư cách chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Theo pháp luật hình sự Việt Nam quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi (trừ những trường hợp trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự như mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không có khả năng nhận thức...). Quy định này có ngh a là pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận người chưa thành niên là những người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì khái niệm người chưa thành niên được xác định dựa trên cơ sở độ tuổi như quy định của một số văn bản pháp lý quốc tế và được quy định tương đối thống nhất trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, BLTTHS, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động và một số văn bản pháp luật khác. Tất cả các văn bản này đều quy định độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định những chế định pháp lý riêng biệt đối với người chưa thành niên trong từng l nh vực cụ thể. Tuy nhiên theo quy định pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”12. Do vậy trong quá trình nghiên cứu, khi nhắc đến pháp luật trong nước thì khái niệm trẻ em đề cập đến những người dưới 16 tuổi, còn khái niệm người chưa thành niên đề cập đến những người dưới 18 tuổi, bao gồm cả trẻ em; còn theo xu hướng chung của thế giới thì trẻ em hay người chưa thành niên đều là danh xưng được sử dụng để gọi những người dưới 18 tuổi. Từ những nội dung đã phân tích, tác giả đưa ra khái niệm như sau: “Bị hại dưới 18 tuổi là người chưa thành niên tại thời điểm trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra và trong quá trình tham gia tố tụng”. Lời khai của bị hại là sự trình bày về nguồn tin tội phạm, những tình tiết của 10 Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), Thủ tục giải quyết vụ án hình sự đối với người chưa thành niên, NXB Đại học Quốc Gia TPHCM, tr.5. 11 Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015. 12 Điều 1 Luật trẻ em năm 2016. 14 vụ án, quan hệ giữa họ với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Lời trình bày này là nguồn chứng cứ quan trọng và cần thiết, vì bị hại là đối tượng bị tội phạm xâm phạm trực tiếp đến thể chất, tinh thần hoặc tài sản, nên bị hại biết rất rõ hành vi của người phạm tội. Đây là nguồn chứng cứ có độ tin cậy cao, là nguồn tin cơ bản giúp cho các cơ quan THTT xác định được sự thật của vụ án. Nhất là trong giai đoạn đầu điều tra vụ án, lời khai của bị hại thường là cơ sở để tiến hành các biện pháp cấp bách như: khám nghiệm hiện trường, truy bắt thủ phạm sau khi thủ phạm gây án bỏ trốn, khám xét, thực nghiệm điều tra… Tuy nhiên lời khai của bị hại phải được đánh giá, đối chiếu với các chứng cứ khác, vì bị hại thường quan tâm đến thiệt hại mà mình gánh chịu, nên tâm lý họ thường cố gắng phản ánh những tình tiết nhằm vạch trần tội phạm và người phạm tội với mong muốn được đền bù thiệt hại. Do đó trong hoạt động lấy lời khai bị hại, ĐTV phải kiểm tra, đánh giá lời khai một cách thận trọng đảm bảo được tính khách quan của lời khai. Giáo trình Luật TTHS Việt Nam Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm về lấy lời khai bị hại là: “hoạt động điều tra do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định nhằm thu thập thông tin về vụ án từ những người tham gia tố tụng này phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”13. Theo quan điểm của khoa học điều tra hình sự hoạt động lấy lời khai của bị hại là biện pháp điều tra bắt buộc do những người theo luật định tiến hành theo trình tự, thủ tục TTHS. Lời khai của bị hại là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng có vị trí độc lập trong hệ thống chứng cứ của vụ án, rất cần được khai thác để phục vụ cho các hoạt động điều tra và xử lý tội phạm14. Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm lấy lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi như sau: “Lấy lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự là hoạt động điều tra do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định nhằm thu thập những tình tiết, thông tin, tài liệu mà bị hại là người dưới 18 tuổi biết được giúp các cơ quan có thẩm quyền điều tra làm rõ một số vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự”. 13 Trường Đại học Luật TP.HCM (2018), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Hồng Đức, tr.440. Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Bộ Công an (2012), Khoa học hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb Công an nhân dân, tr.149. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan