BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGÔ THỊ HỒNG MINH
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên: Ngô Thị Hồng Minh
Lớp: Cao học Luật, khóa 1- Phú Yên
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ “Kháng nghị phúc thẩm theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sỹ Lê Nguyên Thanh. Những thông tin, tài liệu
trong Luận văn được thu thập một cách khách quan, trung thực, số liệu minh chứng
có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày
Tác giả
tháng
Ngô Thị Hồng Minh
năm 2022
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
CSĐT
Cảnh sát điều tra
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
HĐXX
Hội đồng xét xử
HKTT
Hộ khẩu thường trú
HTND
Hội thẩm nhân dân
KSV
Kiểm sát viên
KSXX
Kiểm sát xét xử
NXB
Nhà xuất bản
TA
Tòa án
TAND
Tòa án nhân dân
THQCT
Thực hành quyền công tố
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TPHCM
Thành phố Hồ Chí Minh
TTHS
Tố tụng hình sự
TTTT
Thủ tục tố tụng
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CĂN CỨ VÀ THỜI HẠN KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM............ 6
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn
cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm ............................................................... 6
1.1.1. Nhận thức khái quát về căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm ......... 6
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về căn cứ và thời hạn
kháng nghị phúc thẩm ....................................................................................... 8
1.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm ............... 15
1.2.1. Tình hình áp dụng căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm .............. 15
1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng căn cứ, thời hạn kháng nghị
phúc thẩm và nguyên nhân. ............................................................................ 17
1.3. Biện pháp bảo đảm hiệu quả áp dụng quy định về căn cứ và thời hạn
kháng nghị phúc thẩm ...................................................................................... 27
1.3.1. Biện pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và hướng dẫn áp dụng
pháp luật về căn cứ, thời hạn kháng nghị phúc thẩm...................................... 27
1.3.2. Biện pháp khác bảo đảm áp dụng đúng quy định về căn cứ và thời hạn
kháng nghị phúc thẩm ..................................................................................... 31
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 33
CHƯƠNG 2. BỔ SUNG, THAY ĐỔI, RÚT KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM ... 34
2.1. Nhận thức quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bổ sung, thay đổi,
rút kháng nghị phúc thẩm ................................................................................ 34
2.1.1. Nhận thức khái quát về bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm .. 34
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bổ sung, thay đổi,
rút kháng nghị phúc thẩm ............................................................................... 35
2.2. Thực tiễn bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm ......................... 41
2.1.1. Tình hình áp dụng bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm .......... 41
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị
phúc thẩm ....................................................................................................... 43
2.3. Biện pháp bảo đảm hiệu quả áp dụng quy định về bổ sung, thay đổi, rút
kháng nghị phúc thẩm ...................................................................................... 53
2.3.1. Biện pháp hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật về bổ
sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm ....................................................... 53
2.3.2. Biện pháp khác bảo đảm áp dụng quy định về bổ sung, thay đổi, rút
kháng nghị phúc thẩm ..................................................................................... 55
Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 58
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý xuất phát từ chức năng
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND và xuất
phát từ nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự nước ta chế độ xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm được bảo đảm. Khi VKSND thực hiện chức năng THQCT và KSXX vụ án
hình sự nếu xét thấy bản án và quyết định của TA vi phạm nghiêm trọng TTTT
hoặc sai phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật hình sự, xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng
thì VKSND phải có trách nhiệm yêu cầu đưa vụ án lên TA cấp trên trực tiếp xét xử
lại bằng quyền năng pháp lý do luật định đó là kháng nghị phúc thẩm và cơ sở pháp
lý để VKSND kháng nghị phúc thẩm được quy định trong BLTTHS, Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 và được hướng dẫn cụ thể để thực hiện trong Quy chế nghiệp vụ
do Viện trưởng VKSND tối cao ban hành.
Điểm o khoản 2 Điều 41 BLTTHS năm 2015 quy định:“2. Khi THQCT và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHS, Viện trưởng VKS có
những nhiệm vụ, quyền hạn: o) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này…”.
Điều 336 BLTTHS năm 2015 cũng quy định: “VKS cùng cấp, VKS cấp trên trực
tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Tiếp đó, từ Điều 337
đến Điều 339 BLTTHS năm 2015 quy định về thời hạn, thủ tục kháng nghị phúc
thẩm. Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định VKSND khi THQCT trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự có quyền kháng nghị bản án, quyết định của TA trong
trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội (Điều 18) và khi
KSXX vụ án hình sự có quyền kháng nghị bản án, quyết định của TA có vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (Điều 19). Ngoài ra, theo Quy chế công tác
THQCT, KSXX vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐVKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao (viết tắt là Quy chế
505/QĐ-VKSTC) đã quy định căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự và hướng
dẫn cụ thể về cách thức thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm. Như vậy, pháp
luật quy định, VKSND cùng cấp và cấp trên trực tiếp có thẩm quyền kháng nghị
phúc thẩm đối với những bản án và quyết định sơ thẩm khi xét thấy bản án và
quyết định của TA vi phạm nghiêm trọng TTTT hoặc sai phạm nghiêm trọng
trong áp dụng pháp luật hình sự.
2
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tiễn cho thấy, mặc dù số lượng kháng nghị phúc
thẩm hình sự có xu hướng tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ không lớn so với tổng số án
bị hủy, sửa, điều đó cho thấy còn nhiều vi phạm của bản án sơ thẩm chưa được phát
hiện và kháng nghị kịp thời. Một số kháng nghị chưa đủ cơ sở pháp lý, chưa bám
sát vào các căn cứ để kháng nghị, chưa bảo đảm thời hạn kháng nghị nên TA không
chấp nhận kháng nghị; công tác nghiên cứu để ban hành kháng nghị phúc thẩm của
VKS cấp trên còn khó khăn; việc nắm bắt thông tin vi phạm, hồ sơ vụ án của VKS
cấp trên đối với bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm có vi phạm để xác định căn
cứ ban hành kháng nghị phúc thẩm hầu như không thực hiện được do không có hồ
sơ để giúp cho công tác kháng nghị phúc thẩm được đầy đủ, chính xác và đây là
điểm khó trong việc bảo vệ kháng nghị…; việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị
cũng còn nhiều hạn chế, vướng mắc cần phải khắc phục.
Vì vậy, việc áp dụng căn cứ kháng nghi phúc thẩm, áp dụng thời hạn; bổ
sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm bản án hoặc quyết định của TA của VKS
đòi hỏi phải chính xác, kịp thời, chặt chẽ; khắc phục các tồn tại, hạn chế nêu trên để
TA cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị và thực hiện các thủ tục khác theo quy
định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người tham gia
TTHS. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề:“Kháng nghị phúc
thẩm theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn
Qua khảo cứu cho thấy, đã có một số công trình nghiên cứu, đề cập về kháng
nghị phúc thẩm trong TTHS ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể:
- Nhóm các tài liệu lý luận cơ bản về TTHS:
Giáo trình luật TTHS của các cơ sở đào tạo như: PGS,TS Hoàng Thị Minh
Sơn (2018), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
Trường Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam (Tái bản có
sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội…
Sách Bình luận khoa học BLTTHS: GS,TS Nguyễn Ngọc Anh, LS,TS Phan
Trung Hoài (đồng chủ biên) (2018), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, NXB
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội; TS Phạm Mạnh Hùng (Chủ biên) (2018), Bình
luận khoa học BLTTHS năm 2015, NXB Lao động, Hà Nội; TS Võ Thị Kim Oanh
(chủ biên) (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của BLTTHS năm 2015, NXB
Hồng Đức…
Các tài liệu trên đều có đề cập đến kháng nghị phúc thẩm của VKSND là một
trong những nội dung về xét xử phúc thẩm và việc đề cập chủ yếu là lý luận dưới
3
góc độ khoa học luật TTHS trên cơ sở các quy định của BLTTHS năm 2015. Đây là
những tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu, tổng hợp lý luận
về kháng nghị phúc thẩm của VKSND.
- Nhóm các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về kháng nghị phúc thẩm:
Các bài viết có đề cập đến kháng nghị phúc thẩm của VKSND như: Bài viết
“Kháng nghị phúc thẩm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đinh Văn Quế,
Tạp chí Kiểm sát số 05 (tháng 3/2018); Bài viết“Giải pháp nâng cao chất lượng
công tác kháng nghị án hình sự của VKS”của Nguyễn Đức Thắng, Phạm Đức,
Tạp chí Kiểm sát số 03 (tháng 02/2019)…TS GVC Lê Huỳnh Tấn Duy (2021)
Sách“Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm: Phân
tích quy định của pháp luật và bình luận bản án, quyết định”, NXB, ĐHQG HCM ”, tác giả đã phân tích các quy định về kháng nghị phúc thẩm như: căn cứ,
thời hạn, thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị và các bài viết cũng đề cập, phân tích
về lý luận và thực tiễn kháng nghị phúc thẩm, giải pháp bảo đảm thực
hiện…Những tài liệu này được tác giả tham khảo, kế thừa về căn cứ và thời hạn
kháng nghị phúc thẩm; bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm trong quá
trình nghiên cứu luận văn.
Một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu liên quan đến kháng nghị phúc thẩm của
VKSND như: Luận văn thạc sĩ “Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật
TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, Khoa Luật, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2016; Luận văn thạc sĩ “Kháng nghị phúc thẩm theo Luật TTHS
Việt Nam” của tác giả Phan Thị Thanh Trang, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, 2020; Luận văn thạc sĩ “Căn cứ kháng nghị phúc thẩm theo Luật TTHS
Việt Nam” của tác giả Bùi Thị Linh, Trường Đại học Luật TPHCM, 2020…Các
luận văn nêu trên có luận văn của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà và Phan Thị Thanh
Trang đã nghiên cứu khá toàn diện về lý luận và thực tiễn kháng nghị phúc thẩm;
luận văn của tác giả Bùi Thị Linh chỉ nghiên cứu về căn cứ kháng nghị phúc thẩm,
đây là những tài liệu tham khảo rất quan trọng cho tác giả trong quá trình nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng căn cứ, thời hạn, bổ sung, thay đổi, rút kháng
nghị phúc thẩm.
Như vậy, đề tài luận văn “Kháng nghị phúc thẩm theo Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam” khi được nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về lý luận, đặc biệt là về
thực tiễn áp dụng căn cứ, hình thức kháng nghị phúc thẩm, cũng như bổ sung, thay
đổi, rút kháng nghị phúc thẩm vẫn thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
- Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về căn cứ, thời hạn
kháng nghị phúc thẩm; bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm và thực tiễn áp
dụng, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân, từ đó đưa ra những biện
pháp góp phần nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
+ Phân tích lý luận và các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về căn cứ
và thời hạn kháng nghị phúc thẩm; bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm;
+ Đánh giá thực tiễn áp dụng căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm; bổ
sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân;
+ Đề xuất những biện pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả căn cứ và thời hạn
kháng nghị phúc thẩm; bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Kháng nghị phúc thẩm của theo Luật TTHS Việt Nam là bản chất pháp lý và
thực tiễn về căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm; bổ sung, thay đổi, rút kháng
nghị phúc thẩm.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung, luận văn có phạm vi nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm đối
với bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, phổ biến nhất vẫn là
kháng nghị phúc thẩm bản án sơ thẩm vụ án hình sự. Các vấn đề nghiên cứu cụ thể
của kháng nghị phúc thẩm là căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm; bổ sung,
thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm.
+ Về không gian, luận văn trình bày nội dung đánh giá thực tiễn kháng nghị
phúc thẩm trong phạm vi cả nước.
+ Về thời gian, luận văn trình bày thực tiễn kháng nghị phúc thẩm trong
phạm vi cả nước từ 2018 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà
nước về cải cách tư pháp và bảo đảm quyền con người.
5
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Những phương pháp này được
sử dụng để làm rõ vấn đề nhận thức và quy định của pháp luật TTHS về căn cứ và
thời hạn kháng nghị phúc thẩm; bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm.
+ Phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu vụ án hoặc tình huống
pháp lý điển hình. Những phương pháp này được sử dụng để đánh giá thực tiễn về
vấn đề nghiên cứu.
6. Cấu trúc đề tài luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài được cấu trúc thành 02 chương:
Chương 1. Căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm.
Chương 2. Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm.
6
CHƯƠNG 1
CĂN CỨ VÀ THỜI HẠN KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm
1.1.1. Nhận thức khái quát về căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm
- Khái niệm căn cứ kháng nghị phúc thẩm:
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý của VKSND thể hiện
bằng một văn bản pháp lý được tiến hành trong thời hạn luật định, yêu cầu TA cấp
phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật theo trình tự phúc thẩm, do bản án, quyết định đó có vi phạm nghiêm trọng về
pháp luật TTHS hoặc có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật1.
Căn cứ là “dựa vào, lấy làm tiền đề hoặc cơ sở”2. Kháng nghị là hành vi tố
tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần nội
dung bản án hoặc quyết định của TA với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được
chính xác, công bằng đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định
của TA. Kháng nghị được đưa ra đối với những bản án, quyết định của TA chưa có
hiệu lực pháp luật hoặc đã có hiệu lực nhưng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử
phát hiện thấy có sai lầm, vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc phát hiện có tình
tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản hay một phần quan trọng nội dung của bản án
hoặc quyết định của TA mà TA không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó3.
Tại điểm o khoản 2 Điều 41 BLTTHS năm 2015 quy định, Viện trưởng VKS
có quyền: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này”; Điều 4 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 quy định: “Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp,
VKSND có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật”.
Khoản 1 Điều 5 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về căn cứ kháng
nghị đối với bản án, quyết định là “Có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm
quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân”.
Từ các khái niệm và quy định nêu trên cho thấy kháng nghị không phải là
khái niệm duy nhất chỉ có trong trình tự phúc thẩm mà nó còn là căn cứ để xét xử
Phan Thị Thanh Trang (2020), Kháng nghị phúc thẩm theo Luật TTHS Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học Luật TPHCM, tr.13.
2
Hà Quang Năng, Từ điển tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.56.
3
Viện khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, tr.418-419.
1
7
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm4. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm chính là cơ sở để VKS
dựa vào đó yêu cầu TA xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm bằng việc
ban hành quyết định kháng nghị.
Theo Điều 37 Quy chế 505/QĐ-VKSTC quy định 04 trường hợp là căn cứ
kháng nghị phúc thẩm, bao gồm: (i) Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm
không đầy đủ dẫn đến đánh giá không đúng tính chất của vụ án; (ii) Kết luận, quyết
định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan
của vụ án; (iii) Có sai lầm trong việc áp dụng các quy định của BLHS, BLDS và các
văn bản pháp luật khác; (iv) Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định hoặc
có vi phạm nghiêm trọng khác về TTTT. Như vậy, những căn cứ này thể hiện trong
bản án hoặc quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật TTHS nghiêm trọng hoặc có
sai lầm khi áp dụng pháp luật của TA cấp sơ thẩm.
Từ những quy định và phân tích nêu trên, căn cứ kháng nghị phúc thẩm được
hiểu là những vi phạm pháp luật TTHS nghiêm trọng hoặc có sai lầm khi áp dụng
pháp luật trong bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, xâm
phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân mà VKS dựa vào đó yêu cầu TA xét xử lại vụ án hoặc xét
lại quyết định sơ thẩm bằng việc ban hành quyết định kháng nghị.
- Khái niệm thời hạn kháng nghị phúc thẩm:
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật, Đại học Huế do Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Kiện làm chủ biên, thì: Thời hạn kháng nghị là thời hạn mà pháp luật
quy định cho người có thẩm quyền kháng nghị thực hiện quyền kháng nghị của
mình; hết thời hạn này, việc kháng nghị không được chấp nhận5. Theo tác giả Phạm
Văn Nhàn thì: Thời hạn kháng nghị là khoảng thời gian cần thiết theo quy định của
pháp luật để chủ thể có quyền kháng nghị thực hiện quyền kháng nghị của mình6.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà thì cho rằng: Thời hạn kháng nghị phúc thẩm vụ án
hình sự theo Luật Tố tụng hình sự là khoảng thời gian cần thiết theo quy định của
pháp luật để chủ thể của quyền kháng nghị thực hiện việc kháng nghị, sự hợp pháp
của kháng nghị về thời hạn là một trong những điều kiện làm phát sinh hiệu lực của
kháng nghị7. Như vậy, các khái niệm đều xác định thời hạn kháng nghị là khoảng
Đinh Văn Quế (2018), “Kháng nghị phúc thẩm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Kiểm sát số 05, tr 23.
Đại học Luật, Đại học Huế (2020), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.493.
6
Phạm Văn Nhàn (2018), Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn của VKSND
cấp cao tại TPHCM, Luật văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, tr.15.
7
Nguyễn Thị Thu Hà (2016), Kháng nghị phúc thẩm theo Luật TTHS Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.69.
4
5
8
thời gian mà chủ thể có quyền kháng nghị thực hiện quyền kháng nghị. Tuy nhiên,
các khái niệm nêu trên đều chưa chỉ rõ cụ thể về chủ thể, đối tượng kháng nghị…
trong khoảng thời gian đó.
Theo Điều 144 BLDS năm 2015:“Thời hạn là một khoảng thời gian được
xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác”.
Khoản 1 Điều 134 BLTTHS năm 2015 quy định: “Thời hạn mà Bộ luật này
quy định được tính theo giờ, ngày, tháng, năm”.
Từ những phân tích và quy định nêu trên, thời hạn kháng nghị phúc thẩm
hình sự được hiểu là khoảng thời gian nhất định mà pháp luật TTHS quy định cho
phép VKSND được ra quyết định kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TA.
Thời hạn kháng nghị phúc thẩm được tính kể từ thời điểm bắt đầu đến thời
điểm kết thúc. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm được xác định bắt đầu kể từ ngày
Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định và thời điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày
cuối cùng của thời hạn theo quy định của BLTTHS. Thời điểm kết thúc ngày cuối
cùng của thời hạn là vào lúc 24 giờ của ngày đó. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là
ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại
thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó.
Hệ quả của việc kết thúc thời hạn kháng nghị sẽ làm mất quyền kháng nghị
phúc thẩm của VKS, khi đó bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
- Ý nghĩa của căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm:
+ Căn cứ và thời hạn kháng nghị phúc thẩm là cơ sở pháp lý quan trọng để
VKS xem xét ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với bản án hoặc quyết
định sơ thẩm, giúp cho việc ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm được kịp
thời, đúng quy định pháp luật, đúng thời hạn; tránh việc kháng nghị tùy tiện, không
có cơ sở, qua đó bảo đảm thực hiện tốt chức năng THQCT và KSXX của VKS8.
+ Giúp bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của những người
tham gia tố tụng có lợi ích trong vụ án hình sự; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả, uy tín, tính đúng đắn trong các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng,
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về căn cứ và thời hạn
kháng nghị phúc thẩm
- Quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm
Chuyên đề số 804/CĐ-VC2-V1 ngày 15/5/2020 của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng về giải pháp nâng cao số
lượng, chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự trên một cấp của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng.
8
9
BLTTHS năm 2015 không có quy định cụ thể về những căn cứ kháng nghị
phúc thẩm. Tuy nhiên, căn cứ kháng nghị phúc thẩm có thể được suy ra từ căn cứ để
HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm (Điều 357 BLTTHS năm 2015), hủy bản án
sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại (Điều 358 BLTTHS năm 2015), hủy bản án
sơ thẩm và đình chỉ vụ án (Điều 359 BLTTHS năm 2015), cũng như quy định tại
Quy chế 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao. Điều
37 Quy chế 505/QĐ-VKSTC quy định căn cứ kháng nghị phúc thẩm gồm:
+ Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm không đầy đủ dẫn đến đánh giá
không đúng tính chất của vụ án.
Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm là vô cùng quan trọng, là cơ sở để
HĐXX ra một bản án, quyết định đúng đắn, bảo vệ pháp chế XHCN. Phán quyết
của HĐXX không chỉ được dựa trên hồ sơ vụ án, mà còn phải dựa vào việc điều tra,
xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm
quy định trong BLTTHS năm 2015 gồm nhiều hoạt động: hỏi bị cáo, bị hại, người
làm chứng, người giám định, định giá tài sản (Điều 309, 310, 311, 316), xem xét vật
chứng (Điều 312), nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
(Điều 313), kiểm tra căn cước, sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập
tham gia phiên tòa (Điều 301), trình bày, công bố báo cáo tài liệu của cơ quan, tổ
chức khi cần thiết (Điều 315)…
Tức là khi tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, HĐXX chỉ hỏi thiên về
một mặt, một khía cạnh, không điều tra xét hỏi đầy đủ, không làm rõ được những
vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự theo quy định tại Điều 85
BLTTHS năm 2015 hoặc việc điều tra xét hỏi đã bỏ sót một hoặc một số tình tiết
về từng sự việc, từng tội trong một vụ án, không điều tra xét hỏi đối với người
tham gia tố tụng dẫn đến việc không đảm bảo đủ cơ sở để đánh giá tính chất của
vụ án. Việc điều tra, xét hỏi không đầy đủ như trên đã dẫn đến việc không đánh
giá đúng tính chất của vụ án, nội dung của vụ án bị đánh giá sai lệch, do đó VKS
cần phải kháng nghị để xem xét, đánh giá lại tính chất vụ án đảm bảo chính xác,
khách quan nhất. Căn cứ này bổ sung hậu quả của việc điều tra, xét hỏi không đầy
đủ phải dẫn đến việc đánh giá không đúng tính chất của vụ án mới trở thành căn
cứ của kháng nghị phúc thẩm. Ngược lại, nếu việc điều tra, xét hỏi tuy còn chưa
đầy đủ nhưng chưa đến mức làm thay đổi tính chất của vụ án thì không cần phải
kháng nghị phúc thẩm.
+ Kết luận, quyết định trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách
quan của vụ án.
10
Điều này có nghĩa là, trong phần xét thấy, phần quyết định của bản án sơ
thẩm có những vấn đề không phù hợp với các tình tiết khách quan đã được điều tra,
thu thập trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên tòa hoặc những tình tiết
khách quan của vụ án được làm rõ tại phiên tòa qua phần xét hỏi, tranh luận. Kết
luận trong bản án sơ thẩm bị coi là không phù hợp với các tình tiết khách quan của
vụ án có thể là một trong các trường hợp sau:1) Các kết luận trong bản án, quyết
định đã (có thể) ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề có tội (hoặc không có tội) của
bị cáo, cũng như ảnh hưởng đến tính chính xác của việc định tội danh và quyết định
hình phạt; 2) Các kết luận của TA đưa ra đã không được khẳng định bởi chính
những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa sơ thẩm; 3) TA cấp sơ thẩm đã
không cân nhắc đến các tình tiết có thể ảnh hưởng đáng kể đến kết luận của mình;
4) Khi có những chứng cứ mâu thuẫn nhau mà chúng lại có ý nghĩa quan trọng đối
với kết luận của TA nhưng trong bản án đã không thể khẳng định được rằng dựa
trên cơ sở nào mà TA lại chấp nhận những chứng cứ này và không chấp nhận chứng
cứ kia; 5) Bản án, quyết định đã không cân nhắc đến các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS; 6) Khi có những mâu thuẫn liên quan trực tiếp đến việc giải quyết vụ án
cần được giải quyết triệt để nhưng TA lại không giải quyết; 7) Kết luận của TA đã
không thể hiện đầy đủ và toàn diện bản chất của vụ án được xét xử9. Căn cứ này đòi
hỏi VKS khi kháng nghị phải viện dẫn chứng cứ đã được sử dụng để làm rõ tình tiết
khách quan của vụ án, sau đó, đối chiếu với việc đánh giá của kết luận, quyết định
trong bản án, quyết định sơ thẩm nhằm chỉ rõ sự mâu thuẫn, không phù hợp.
+ Có sai lầm trong việc áp dụng các quy định của BLHS, BLDS và các văn
bản pháp luật khác.
Sai lầm trong việc áp dụng các quy định của BLHS có thể ở phần chung của
BLHS (về TNHS, miễn TNHS, miễn hình phạt, quyết định hình phạt, án tích, tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng, tái phạm,…) hoặc trong phần các tội phạm (hành vi không
cấu thành tội phạm, mức và khung và loại hình phạt không tương xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội…). Sai lầm trong việc áp dụng các
quy định trong BLDS như vấn đề bồi thường thiệt hại, người đại diện theo pháp luật
của những người tham gia tố tụng, về quyền sở hữu tài sản… hoặc các quy định
pháp luật khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Việc sai lầm này có thể làm
oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội10.
Lê Văn Cảm, Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Cần pháp điển hóa các căn cứ kháng nghị phúc thẩm vào
BLTTHS (sửa đổi)”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr.24.
10
Phan Thị Thanh Trang (2020), tlđd (1), tr.36.
9
11
Kết quả của sai lầm trong việc áp dụng pháp luật có thể dẫn đến việc để xảy
ra oan, sai. Trong khoa học pháp lý hình sự, khái niệm “oan” có thể được hiểu là
trường hợp không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm, do bị vu
cáo, dựng vụ án giả hoặc hành vi do người khác thực hiện, nhưng một người vẫn bị
điều tra, truy tố, xét xử và kết tội. Khái niệm về “sai” có thể được hiểu là trường
hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình
sự một cách không khách quan, không đầy đủ, trái với những quy định của pháp
luật. Việc để xảy ra sai trong xét xử vụ án hình sự với các biểu hiện như việc áp
dụng pháp luật hình thức, pháp luật nội dung không đúng, không đầy đủ, không
khách quan, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với một
người phạm tội chưa chính xác…
Việc có những sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật có thể dẫn đến
việc bỏ lọt tội phạm. Biểu hiện cụ thể của việc bỏ lọt tội phạm là việc bỏ lọt hành vi
phạm tội, bỏ lọt người phạm tội hoặc qua việc điều tra, truy tố xác định đối tượng
có dấu hiệu của tội phạm nhưng khi tiến hành xét xử, TA cấp sơ thẩm tuyên bố là
không có tội. Đối với trường hợp TA tuyên bố không có tội, theo quy định tại Điều
358 BLTTHS năm 2015 thì đây là một căn cứ để TA cấp phúc thẩm hủy bản án sơ
thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm, do đó VKS hoàn toàn có quyền kháng nghị phúc
thẩm trong trường hợp này.
+ Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm
trọng khác về TTTT.
Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng theo quy định tại Điều 254
BLTTHS năm 2015 hoặc thuộc các trường hợp HĐXX sơ thẩm không đúng HĐXX
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ví dụ: Thành phần HĐXX sơ thẩm đối với vụ
án có bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù
chung thân, tử hình phải gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm (Điều 254 BLTTHS)
nhưng phiên tòa xét xử sơ thẩm chỉ có 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm.
Có vi phạm nghiêm trọng khác về TTTT là trường hợp khi điều tra, truy tố,
xét xử mà BLTTHS quy định bắt buộc phải tiến hành một TTTT nào đó, nhưng cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, dẫn đến việc xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo,
bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện. Ví dụ: Hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện đúng quy định về sự tham gia của
người bào chữa trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; TA xét xử
12
không đúng thẩm quyền, vi phạm quy định về giới hạn xét xử hoặc không thực hiện
việc hoãn phiên tòa khi phải hoãn phiên tòa theo luật định...
Các căn cứ kháng nghị phúc thẩm quy định tại Điều 37 Quy chế 505/QĐVKSTC nhìn chung đều hợp lý và có cơ sở lý luận. Hiện nay, các căn cứ kháng
nghị phúc thẩm chưa được quy định trong BLTTHS mà chỉ quy định trong quy
chế nghiệp vụ của riêng ngành Kiểm sát. Thiết nghĩ, căn cứ kháng nghị phúc thẩm
là một nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định việc kháng nghị của
VKS là đúng hay sai, cần thiết hay không cần thiết, vì vậy, cần phải quy định căn
cứ kháng nghị trong BLTTHS. Cần phải ràng buộc trách nhiệm của VKS vào chức
năng thực hiện kháng nghị của mình, nếu có căn cứ thì VKS có trách nhiệm phải
kháng nghị. Bên cạnh đó, nếu quy định căn cứ kháng nghị vào BLTTHS sẽ đảm
bảo sự nhận thức pháp luật thống nhất của các cơ quan áp dụng pháp luật, mà cụ
thể là TA và VKS, tránh tình trạng kháng nghị của VKS không được TA chấp
nhận do không có căn cứ.
- Thời hạn kháng nghị phúc thẩm:
Điều 337 BLTTHS năm 2015 quy định: Thời hạn kháng nghị của VKS cùng
cấp đối với bản án của TA cấp sơ thẩm là 15 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 30
ngày kể từ ngày TA tuyên án. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với quyết
định của TA cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ
ngày TA ra quyết định.
Theo quy định trên thì có thể hiểu thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị
là kể từ ngày TA tuyên án hoặc ra quyết định sơ thẩm. Trong khi đó, tại Mục 4.1
Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 hướng dẫn thi hành một số quy
định trong phần “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS năm 2003 quy định: “Thời điểm
bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác
định. Ngày được xác định là ngày TA tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp
VKS, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa hoặc ngày bản án, quyết định được giao
hoặc được niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa”.
Quy định ngày được xác định không tính là thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo,
kháng nghị là quy định có lợi cho chủ thể kháng cáo, kháng nghị11. Nghị quyết
05/2005/NQ-HĐTP cũng quy định thời điểm kết thúc của thời hạn kháng nghị:
“Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị thời điểm kết thúc ngày cuối
cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ
Mai Thanh Hiếu (2012), “Thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong TTHS Việt Nam”,
Tạp chí Luật học,số 10, tr.20.
11
13
bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày
làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của
thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó”.
Theo quy định, VKS được quyền kháng nghị phúc thẩm kể từ ngày Tòa
tuyên án hoặc kể từ ngày TA ra quyết định sơ thẩm nếu phát hiện bản án, quyết
định đó có căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Nhưng thông thường, VKS sẽ ban hành
kháng nghị phúc thẩm sau khi VKS nhận được bản án, quyết định sơ thẩm của TA
cùng cấp, vì như vậy VKS sẽ biết được chắc chắn là nội dung trong bản án, quyết
định đó là gì để có cơ sở kháng nghị, đảm bảo sự phù hợp của những nội dung trong
quyết định kháng nghị phúc thẩm và trong bản án, quyết định sơ thẩm12.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 262 BLTTHS năm 2015, trong thời hạn 10
ngày kể từ ngày tuyên án, TA cấp sơ thẩm phải giao bản án cho VKS cùng cấp, gửi
bản án cho VKS cấp trên trực tiếp. Theo khoản 2 Điều 286 BLTTHS đối với quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ là 03 ngày kể từ ngày TA ra quyết định; điểm b khoản 3
Điều 132 Luật Thi hành án hình sự thì quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh là 03 ngày làm việc, kể từ ngày TA ra quyết định.
Vậy, nếu như bản án được TA cấp sơ thẩm giao, gửi đúng trong thời hạn 10
ngày, đồng nghĩa với việc VKS cùng cấp chỉ còn 05 ngày, VKS cấp trên trực tiếp
còn 20 ngày để thực hiện việc kháng nghị và thời gian này là không đủ để xem xét
bản án, nghiên cứu hồ sơ, quyết định có kháng nghị hay không. Tương tự như vậy,
trong thời hạn luật định là đến ngày thứ 3 đối với quyết định sơ thẩm (quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ) thì VKS chỉ còn 04 ngày để nghiên cứu, xem xét có quyết
định kháng nghị hay không (đối với trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn không
phải là ngày nghỉ). Trong trường hợp là quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh thì quy định TA gửi cho VKS là 03 ngày làm việc, kể từ ngày TA ra
quyết định chứ không phải 03 ngày kể cả ngày nghỉ. Giả sử nếu ngày TA ra quyết
định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh là thứ 6 thì trong thời hạn 03 ngày làm
việc (tính cả 02 ngày nghỉ) thì đã là 05 ngày, như vậy chỉ còn 02 ngày để VKS xem
xét và quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định này. Do đó, quy định
của BLTTHS về thời hạn kháng nghị và thời hạn gửi bản án, quyết định của TA cấp
sơ thẩm cho VKS là chưa hợp lý. Vì vậy, để đảm bảo cho công tác kháng nghị của
VKS được thực hiện một cách hiệu quả thì cần rút ngắn thời gian gửi bản án, quyết
định của TA cho VKS.
12
Phan Thị Thanh Trang (2020), tlđd (1), tr.43.
14
Như vậy, BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ
thẩm và thời hạn kháng nghị đối với quyết định sơ thẩm là khác nhau. Quy định như
vậy là hợp lý bởi tính chất pháp lý, hiệu lực của bản án và quyết định sơ thẩm là
khác nhau nên thời hạn kháng nghị phúc thẩm khác nhau để kịp thời kháng nghị khi
có căn cứ. Tuy nhiên, quy định về thời hạn kháng nghị cũng chưa được rõ ràng, cụ
thể về thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị, thời hạn đó có
tính ngày nghỉ, ngày lễ như Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP hay không, điều này
cần có hướng dẫn để thống nhất thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về thời
hạn kháng nghị phúc thẩm.
BLTTHS năm 2015 quy định trường hợp kháng cáo quá hạn được chấp
nhận nếu có lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, xuất phát từ ý nghĩa
nhân đạo của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham
gia tố tụng. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 không quy định kháng nghị quá hạn
trong bất cứ trường hợp nào. Mọi kháng nghị của VKS bắt buộc phải tuân thủ
đúng thời hạn luật định. Có quan điểm cho rằng cần quy định trường hợp kháng
nghị phúc thẩm quá hạn khi có lý do chính đáng. Quan điểm này cho rằng việc
pháp luật TTHS hiện hành không chấp nhận kháng nghị phúc thẩm quá hạn được
lý giải bởi khả năng chuyển sang kháng nghị giám đốc thẩm của VKS cấp trên:
“Nếu VKS chuyển sang kháng nghị giám đốc thẩm do hết hạn kháng nghị phúc
thẩm thì không được yêu cầu xem xét lại mặt sự việc của vụ án. Do đó, việc chấp
nhận kháng cáo quá hạn mà không chấp nhận kháng nghị phúc thẩm quá hạn là
không đảm bảo bình đẳng giữa chủ thể của quyền kháng cáo và chủ thể của quyền
kháng nghị trước cấp xét xử cuối cùng về mặt sự việc cũng như mặt pháp luật...
Việc không chấp nhận kháng nghị phúc thẩm quá hạn có lý do chính đáng khiến
VKS phải kháng nghị giám đốc thẩm cả về mặt sự việc của vụ án là không đảm
bảo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử”13. Tuy nhiên, tôi không đồng tình
với quan điểm này, bởi lẽ xuất phát từ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của VKS, là cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật, vì vậy không thể vì một nguyên
nhân nào để chậm trễ, thiếu sót (dù là nguyên nhân khách quan hay chủ quan) làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, ảnh
hưởng đến công tác xét xử và làm giảm hiệu lực thi hành của bản án hoặc quyết
định. Đồng thời, pháp luật không cho phép kháng nghị phúc thẩm quá hạn là nhằm
tăng trách nhiệm của VKS trong công tác kháng nghị phúc thẩm khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình. Nếu quá thời hạn kháng nghị mà VKS phát hiện
13
Phan Thị Thanh Trang (2020), tlđd (1), tr.44-45
- Xem thêm -