Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn hòa giải trong giải quyết vụán dân sự tại tòa án nhân dân...

Tài liệu Luận văn hòa giải trong giải quyết vụán dân sự tại tòa án nhân dân

.PDF
95
1
138

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ ---------- TRẦN THỊ THU HẰNG HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN KHÓA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ ---------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN Giảng viên hướng dẫn: ThS. XA KIỀU OANH Sinh viên thực hiện: TRẦN THỊ THU HẰNG Lớp: Dân sự 42A1, Khóa: 42 MSSV: 1753801010256 TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận “Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Xa Kiều Oanh. Kết quả nghiên cứu trong khóa luận là tìm hiểu của bản thân tôi về quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật. Những tài liệu tham khảo được trích dẫn, ghi rõ nguồn và liệt kê tại danh mục tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 7 năm 2021. Tác giả Trần Thị Thu Hằng DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Số thứ tự Viết thường Viết tắt 01 Bộ luật Dân sự BLDS 02 Bộ luật Tố tụng dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự (Số: 24/2004/QH11) BLTTDS 03 04 ngày 15 tháng 06 năm 2004 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 65/2011/QH12 ngày 29 tháng 3 năm năm 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 năm 2011 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 03/02/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nghị quyết số 05/2012/NQHĐTP MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN........................................................................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .......9 1.1.1. Khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ..........................................9 1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .................................. 12 1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .................................... 14 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ...................................................................................................................................... 17 1.2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải ................................................................................................. 17 1.2.2. Phạm vi hòa giải.................................................................................................................... 24 1.2.3. Thành phần tham gia và trình tự tiến hành phiên hòa giải ......................................................... 34 1.2.4. Kết quả hòa giải trong tố tụng dân sự ...................................................................................... 40 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 46 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................................................................................................................................... 48 2.1. Về phạm vi hòa giải ................................................................................................................. 48 2.2. Về thành phần phiên hòa giải ................................................................................................ 60 2.3. Về trình tự tiến hành hòa giải ................................................................................................ 62 2.4. Về nội dung hòa giải ............................................................................................................... 67 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................................. 71 KẾT LUẬN......................................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. PHỤ LỤC CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH .......................................................................... LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp dân sự đã xuất hiện rất sớm, kể từ khi con người có tranh chấp thì họ đã biết cách áp dụng các biện pháp thương lượng, hoà giải với nhau để giải quyết những mâu thuẫn nhằm chấm dứt những bất đồng phát sinh giữa họ. Ngày nay cũng vậy, hòa giải không những chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội nói chung mà nó còn có vai trò lớn lao trong khoa học pháp lí nói riêng, đặc biệt là vai trò không thể thiếu trong hoạt động tố tụng giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án. Do hòa giải có tính chất là tác động đến hai hay nhiều đối tượng đang có tranh chấp nhằm đạt đến sự thỏa thuận thống nhất vì vậy pháp luật quy định hòa giải là một trong những thủ tục tố tụng bắt buộc và vô cùng quan trọng khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự. Bên cạnh đó khi mà vụ án dân sự được giải quyết thông qua hòa giải thành giữa các đương sự thì Tòa án sẽ không phải mở phiên tòa, tránh được việc xét xử vụ án nhiều lần, tiết kiệm thời gian công sức, sự tốn kém cho người dân, cho nhà nước, đồng thời vụ án sẽ giảm bớt được các giai đoạn tố tụng tiếp theo như phải mở các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm… từ đó vụ án sẽ được kết thúc nhanh chóng hơn. Mặc khác thông qua hòa giải, Thẩm phán có điều kiện tiếp xúc với người dân để hướng dẫn, giải thích pháp luật cho họ, từ đó góp phần giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. Khi được tiếp xúc với việc giải thích pháp luật, các đương sự sẽ hiểu thêm pháp luật và chính sách của Nhà nước, đồng thời đương sự còn được thể hiện quyền tự định đoạt và sự tự nguyện thỏa thuận với nhau của mình về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án phù hợp quy định của pháp luật. Như vậy, hòa giải có thể nói là giải pháp quan trọng để giải quyết các tranh chấp, làm giảm bớt mâu thuẫn, căng thẳng trong nội bộ nhân dân, củng cố và tăng cường sự đoàn kết của quần chúng nhân dân, giúp ngăn ngừa phần nào số vụ phạm tội có thể phát sinh từ các tranh chấp dân sự. Tuy hòa giải có những thuận lợi nhất định nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân những năm vừa qua cho thấy một số quy định của pháp luật về hòa giải nói chung và Bộ luật Tố tụng dân sự nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; có những quy định mang tính chung chung, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau…, nhiều quy định chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp với thực tiễn áp dụng nên rất cần phải được sửa đổi, bổ sung ngay. Ngoài ra trong quá trình hòa giải Tòa án ở một số địa phương còn mắc phải những sai sót đáng tiếc về nội dung lẫn hình thức hòa giải nên còn nhiều quyết định công nhận hòa giải thành của Tòa án đã bị Tòa án hoặc Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị dẫn đến bị hủy và vụ việc tranh chấp phải xử đi xử lại nhiều lần, gây tốn kém về nhiều mặt của các bên đương sự cũng như của Nhà nước. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến việc bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân” để làm Khóa luận tốt nghiệp. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả hy vọng kết quả của việc nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ở nước ta. Tình hình nghiên cứu Theo tìm hiểu của tác giả, thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài này như sau: Thứ nhất, các công trình đề cập đến hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân với vị trí là một trong các vấn đề của ngành luật tố tụng dân sự. Trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ban hành, có các công trình sau đây: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012); Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội (2012); Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi của các tác giả Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (2012); Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung 2011 của Viện Nhà nước và Pháp luật (2012). Các công trình này đề có phạm vi nghiên cứu là tổng thể các quy định pháp luật của ngành luật tố tụng dân sự chứ không tập trung vào hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân. Do đó, mặc dù có đề cập đến, nhưng hầu hết các công trình chỉ dừng lại ở việc phân tích mang tính khái quát. Ngoài ra, những công trình này đều được biên soạn trước thời điểm ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên một số điểm mới trong quy định về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân chưa được đề cập đến. Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ban hành, một số công trình nghiên cứu về pháp luật tố tụng dân sự ra đời như: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017); Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội (2017); Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 của tác giả Trần Anh Tuấn (2017); Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương (2016); Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của tác giả Bùi Thị Huyền (2016). Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu nói trên. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của các công trình này là tổng thể các quy định của pháp luật tố tụng dân sự nên quy định về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân chỉ được đề cập đến và chưa đi sâu vào phân tích. Thứ hai, các công trình có đối tượng nghiên cứu là hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân. Cụ thể: Tác giả Lý Văn Toán với đề tài Những vụ án dân sự không được hòa giải và không tiến hành hòa giải được, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2017), Trường đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong công trình này, tác giả tập trung nghiên cứu về phạm vi hòa giải. Tác giả phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về những vụ án dân sự không được hòa giải và không tiến hành hòa giải được. Qua đó, tác giả chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự; đồng thời đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật. Phạm vi nghiên cứu của đề tài khá hẹp nên vấn đề hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân chưa được tác giả phân tích sâu. Tác giả Nguyễn Thị Thúy với đề tài Hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2014), Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội. Công trình này cũng đã nêu lên được những khó khăn vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tuy nhiên công trình chỉ mới bước đầu nêu sơ qua về những vụ án dân sự không được hòa giải và không tiến hành hòa giải được, chưa đi sâu nghiên cứu toàn diện quy định pháp luật tố tụng dân sự về hòa giải. Bên cạnh đó, Luận văn nghiên cứu trước thời điểm ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên có những nội dung không phù hợp. Tác giả Nguyễn Thị Hương với đề tài Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2014), Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội. Công trình này đã nêu được một số khó khăn vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện về hoà giải trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên công trình nghiên cứu này chỉ nghiên cứu về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình không đề cập nhiều về những vụ án dân sự khác. Ngoài ra, Luận văn này nghiên cứu trước thời điểm ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên có những nội dung không phù hợp. Tác giả Lê Hữu Nghĩa với đề tài Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013), Trường đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh. Công trình này nghiên cứu về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án, nêu lên được khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, Luận văn nghiên cứu trước thời điểm ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên có những nội dung không phù hợp. Tác giả Huỳnh Tất Ngọc Trân với đề tài Hòa giải vụ án kinh doanh thương mại tại Tòa án, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2009), Trường đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh. Công trình này có nghiên cứu liên quan đến hòa giải vụ án kinh doanh thương mại tại Tòa án, nêu lên được một số quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng chủ yếu nghiên cứu chuyên biệt về hòa giải trong các vụ án kinh doanh thương mại tại Tòa án chưa đi sâu nghiên cứu tổng quan, chuyên sâu về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự. Bài viết “Hòa giải trong tố tụng dân sự - nhìn từ góc độ kinh tế” của tác giả Lê Nết (2006) đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 02; Bài viết “Cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định thủ tục ra bản án và quyết định của Tòa án tại phiên tòa” của tác giả Nguyễn Thanh Mận (2010) đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân sô 09; Bài viết “Điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về hòa giải vụ án dân sự và những nội dung cần hướng dẫn” của tác giả Bùi Thị Huyền (2016) đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 08; Bài viết “Những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về hòa giải vụ án dân sự” của tác giả Đặng Quang Huy (2017) đăng trên Tạp chí Nghề Luật số 06: Những bài viết trên tiếp cận tới vấn đề hòa giải ở những khía cạnh khác nhau và nhắc đến hòa giải là một vấn đề của bài viết khi giải quyết những vấn đề liên quan khác. Bài viết “Biên bản hòa giải thành có gửi cho đương sự vắng mặt không” (2018)1; Bài viết “Một số ý kiến về những vụ án không hòa giải được trong BLTTDS năm 2015” (2019)2; Bài viết “Không cần hòa giải đối với vụ án ly hôn trong trường hợp không đăng ký kết hôn” (2019)3: Những bài viết này giúp tác giả có thêm nhiều thông tin thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và tiếp cận được nhiều quan điểm kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Tác giả lựa chọn đề tài “Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân” với đối tượng nghiên cứu là các quy định về hòa giải vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam với các mục đích hướng đến là: Thứ nhất, phân tích một cách toàn diện quy định của pháp luật về việc hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm để làm rõ cơ sở lý luận, từ đó tìm ra những điểm chưa hợp lý, chưa cụ thể trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành. Thứ hai, tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật và nghiên cứu các vấn đề vướng mắc phát sinh trong quá trình hòa giải giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Thứ ba, trên cơ sở của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành để tìm ra mối liên hệ với các quy định của pháp luật tố tụng trong hệ thống pháp luật tố tụng Việt Nam, ngoài ra còn có sự liên hệ đến pháp luật của nước ngoài trong vấn đề hòa giải để thấy được sự tương đồng, và hơn hết là sự tiến bộ của pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài. Qua đó, có thể lựa chọn hướng sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước. Bài viết “Biên bản hòa giải thành có gửi cho đương sự vắng mặt không”, https://tapchitoaan.vn/baiviet/phap-luat/bien-ban-hoa-giai-thanh-co-gui-cho-duong-su-vang-mat-khong, truy cập ngày 07/6/2021. 1 Bài viết “Một số ý kiến về những vụ án không hòa giải được trong BLTTDS năm 2015, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nhung-vu-an-dan-su-khong-tien-hanh-hoa-giai-duoc-trong-bo-luatto-tung-dan-su-nam-2015, truy cập ngày 04/6/2021. 2 Bài viết “Không cần hòa giải đối với vụ án ly hôn trong trường hợp không đăng ký kết hôn”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/khong-can-hoa-giai-doi-voi-vu-an-ly-hon-trong-truong-hop-khongdang-ky-ket-hon?fbclid=IwAR0T9ykS5k49OZTAgEcH1clUuTkzBUO_u7n4gVLWWxDWJ1XJc4do6d8bj0, truy cập ngày 03/6/2021. 3 Cuối cùng, mục đích quan trọng nhất mà tác giả muốn hướng đến là đưa ra những kiến nghị trong một số trường hợp để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng dân sự trên thực tế. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Khoá luận tập trung phân tích và làm rõ vấn đề hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Các quy định của pháp luật và những vấn đề thực tiễn được nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi cấp xét xử sơ thẩm. Để có cái nhìn bao quát hơn về sự thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn của pháp luật tố tụng dân sự trong việc quy định về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự, tác giả đối chiếu với một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Ngoài ra, tác giả liên hệ tới một số quy định về vấn đề tương tự trong quy định của pháp luật tố tụng nước ngoài, cụ thể là: Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp và Liên bang Nga. Phạm vi của khoá luận là tập trung phân tích quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và đưa ra những kiến nghị phù hợp với thực tiễn áp dụng. Do đó, tác giả chỉ tiếp thu những quy định mà tác giả cho rằng có thể áp dụng phù hợp với điều kiện của Việt Nam nên không đi sâu vào việc nghiên cứu tất cả các quy định của các ngành luật khác và pháp luật nước ngoài về vấn đề hòa giải. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích mà khoá luận hướng đến, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, cụ thể như sau: Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và bình luận để làm rõ những khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân. Ngoài ra, những phương pháp kể trên được tác giả sử dụng trong việc trình bày các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề mà khóa luận nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu sự giống nhau và khác nhau giữa quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Hơn nữa phương pháp so sánh được sử dụng trong việc liên hệ giữa pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam với pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài nhằm tìm ra được những quy định phù hợp mà Việt Nam có thể áp dụng để khắc phục hạn chế còn tồn tại. Trong Chương 2, tác giả cũng sử dụng phương pháp phân tích, bình luận về những vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trên thực tiễn xét xử vụ án dân sự về việc hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để rút ra được những bất cập và vướng mắc đang cần hướng giải quyết phù hợp, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật. Kết cấu của khóa luận Ngoại trừ phần lời mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì khóa luận bao gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân. Chương 2: Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân. CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân 1.1.1. Khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân Sự phát triển của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế hội nhập ngày càng phong phú, đa dạng, là động lực mạnh mẽ dẫn đến nhu cầu thiết lập các quan hệ về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cùng với đó, số lượng các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động được xét xử hằng năm ngày càng gia tăng nhanh chóng. Để giải quyết kịp thời và nhanh chóng tranh chấp thì có rất nhiều cách thức khác nhau, hoặc các bên tự thỏa thuận, bàn bạc để đi đến thống nhất, hoặc nhờ bên thứ ba làm trung gian hòa giải, hoặc đưa các tranh chấp ra cơ quan tài phán có thẩm quyền phán quyết…. Trong nhiều biện pháp giải quyết tranh chấp, hòa giải là một biện pháp quan trọng để giải quyết kịp thời các tranh chấp, hướng tới mục đích bình đẳng và hòa hợp trong các mối quan hệ xã hội. Hòa giải đã trở thành một nét đẹp truyền thống, đạo lý của dân tộc Việt Nam giúp giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp góp phần giữ gìn sự hòa thuận cho từng gia đình, bình yên cho từng xóm làng, giữ trật tự, kỹ cương, an toàn xã hội, củng cố khối đoàn kết cộng đồng. Để tìm hiểu khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND, trước tiên cần tìm hiểu khái niệm thuật ngữ “hòa giải”. Theo Từ điển tiếng Việt thì “hòa giải” được hiểu là “việc thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thỏa”4 hay “hòa giải là dàn xếp nhằm chấm dứt một cuộc xung đột”5 hoặc “hòa giải là thu xếp để chấm dứt một cuộc xung đột, một mối bất hòa”6. Các khái niệm này đã đưa ra một cách chung nhất về phương thức và mục đích của hòa giải, nhưng chưa nêu được đầy đủ các yếu tố như bản chất, nội dung, và chủ thể của hòa giải. 4 Viện Ngôn ngữ (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 430. 5 Viện Hàn Lâm Khoa học – Xã hội Việt Nam (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, tr.350. 6 Từ điển Tiếng Việt (1999-2000), Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 372. Từ điển Luật học năm 2006 thì “hòa giải” được hiểu là “thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thỏa. Thông thường, việc hòa giải được tiến hành sau khi thương lượng (khiếu nại) giữa các bên đã không đạt được kết quả”7. Khái niệm này đã chỉ ra được chủ thể, phương thức, thời điểm của hòa giải. Theo từ điển Luật học Anh – Mỹ Black thì “hòa giải là một quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó, hòa giải viên là người thứ ba trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được một sự thỏa thuận”8. Cách hiểu này đã nêu lên được hành vi, vai trò trung gian của bên thứ ba trong hòa giải. Trong khoa học pháp lý, cũng có nhiều khái niệm tồn tại về “hòa giải” như “hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của một bên thứ ba trung lập, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội”9. Quan điểm này thể hiện được bản chất, đặc điểm của hòa giải và chủ thể trung gian là bên thứ ba trung lập với vai trò giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa thuận giải quyết tranh chấp một cách tự nguyện. Quan điểm khác lại cho rằng “hòa giải là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên tự cùng nhau hoặc thông qua sự hướng dẫn giúp đỡ một cách có tổ chức của bên thứ ba để bàn bạc, thỏa thuận để tìm ra giải pháp giải quyết xung đột giữa họ”10. Theo quan điểm này, hòa giải được xem như là một biện pháp giải quyết tranh chấp, với sự giúp đỡ của bên thứ ba, các bên có thể cùng nhau tự thỏa thuận, thống nhất giải pháp giải quyết xung đột của mình. Như vậy, tuy các khái niệm về hòa giải có sự khác nhau nhưng chung quy lại thì hòa giải luôn là phương thức giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và thỏa mãn ba yếu tố gồm: (i) Có sự tranh chấp giữa hai bên; (ii) Có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp thông qua việc mỗi bên nhượng bộ một ít; (iii) Trong quá trình hòa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để cho ý kiến 7 Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp – Nxb. Bách khoa toàn thư, tr. 365. 8 Henry Campbell (1990), Từ điển Luật học Anh - Mỹ Black, Nxb. West. Thomson, tr. 152. Dương Quỳnh Hoa (2015), Cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế đối với các quan hệ thương mại ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 126. 9 Huỳnh Tất Ngọc Trân (2009), Hòa giải vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 03. 10 tư vấn đồng thời công nhận thủ thục hòa giải thành giữa các bên trong tranh chấp. Nếu không có sự tham gia của bên thứ ba này thì quá trình này gọi là tự hòa giải hoặc thương lượng11. Trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND, tuy pháp luật chưa có khái niệm về hòa giải nhưng cũng có quan điểm về hòa giải tại TAND “hòa giải là một chế định quan trọng của luật tố tụng dân sự, là phương pháp giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của các đương sự”12. Quan điểm này nêu lên được chủ thể tham gia hòa giải là các bên đương sự nhưng vẫn chưa nêu được vai trò của Tòa án trong quá trình hòa giải. Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS năm 2015 thì hòa giải là trách nhiệm của Tòa án nhằm tạo điều kiện cho các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và được tiến hành như một thủ tục cần thiết, bắt buộc và cũng là một thủ tục đặc trưng của tố tụng dân sự. Hòa giải tại TAND thể hiện vai trò của Tòa án là bên trung gian trong hòa giải. Nếu hòa giải thành thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận, vì vậy hòa giải cũng được xem là một biện pháp giải quyết tranh chấp. Chủ thể trung tâm của hòa giải là Tòa án sẽ giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp và sự thỏa thuận về giải quyết tranh chấp phải do chính các bên tranh chấp quyết định. Như vậy, hoà giải là một thủ tục tố tụng do TAND tiến hành, nhằm giúp đỡ các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết quan hệ đó cho phù hợp với pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Từ những phân tích trên, theo quan điểm của tác giả thì hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND cần được hiểu như sau: Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân là một thủ tục tố tụng bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và được khuyến khích ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Theo đó, người tiến hành tố tụng với vai trò trung gian, có trách nhiệm hòa giải, giải thích pháp luật, giúp đỡ các bên đang có tranh chấp trong vụ án dân sự mà mình giải quyết nhằm hướng các bên đi đến thỏa thuận về một giải pháp giải quyết tranh chấp trên cơ sở đó Tòa án sẽ xem xét công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Lê Nết (2006), “Hòa giải trong tố tụng dân sự - nhìn từ góc độ kinh tế”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 02, tr. 33. 11 Nguyễn Ngọc Điệp - Lê Thị Kim Nga - Vũ Mạnh Thông (1999), Tìm hiểu ngành luật tố tụng dân sự, Nxb. Mũi Cà Mau, tr. 98. 12 1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân có những đặc điểm đặc trưng như sau: Thứ nhất, hòa giải là một nguyên tắc cũng là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại TAND. Trong lĩnh vực dân sự, thông thường lợi ích của các bên được xem như là động lực để các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự và cũng chính là tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự13. Xuất phát từ sự tự nguyện, quyền tự định đoạt của đương sự trong quan hệ dân sự nên khi phát sinh tranh chấp từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, không giống với tố tụng hình sự hay tố tụng hành chính. Trong đó, hòa giải là một biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự mà Tòa án phải thực hiện. Bên cạnh đó, hòa giải cũng đã được các văn bản pháp luật về tố tụng trước đây khẳng định là một nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án14. Với tinh thần đó, BLTTDS năm 2015 tiếp tục khẳng định hòa giải là một nguyên tắc trong tố tụng dân sự: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Đồng thời, tại Điều 10, Điều 205, Điều 206 và Điều 207 BLTTDS năm 2015 quy định hòa giải có tính bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, trừ những vụ án không được hòa giải, những vụ án không tiến hành hòa giải được, vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn. Do hòa giải là một nguyên tắc bắt buộc phải tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, vì vậy nếu không tiến hành hòa giải mà đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa sơ thẩm, mặc dù trách nhiệm của Tòa án là hòa giải nhưng không mang tính bắt buộc mà chỉ mang tính khuyến khích hòa giải15. Sự bắt buộc phải tiến hành Lê Thị Bích (2013), Hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 16. 13 Điều 9 Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định: “Tòa án nhân dân hòa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương mại kể cả việc xin ly dị trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình”. 14 Điều 10 BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 cũng có ghi nhận: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hòagiải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Khoản 1 Điều 246 BLTTDS năm 2015: “Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không; trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ 15 hòa giải ở đây là chỉ bắt buộc đối với Tòa án vì khi tiến hành hòa giải giữa các đương sự, Tòa án giữ vị trí đặc biệt quan trọng, phải chủ động trong việc hòa giải để giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau. Đối với đương sự thì việc tham gia hay không tham gia hòa giải phải thể hiện ý chí tự nguyện của đương sự nên không mang tính chất bắt buộc như đối với Tòa án. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định hòa giải là một nguyên tắc cũng là việc tận dụng tối đa cơ hội rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khối đoàn kết cộng đồng. Thứ hai, chủ thể tiến hành hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND là Thẩm phán16 hay Hội đồng xét xử17. Chủ thể này xuất hiện không phải với tư cách một bên tham gia hòa giải mà là người tổ chức, bố trí cho các đương sự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Với vai trò giải thích cho các đương sự hiểu được quyền, nghĩa vụ pháp luật có liên quan đến tranh chấp cần hòa giải. Kết quả hòa giải là biên bản hòa giải thành hoặc không thành và đây là những văn bản có tính chất pháp lý, là cơ sở để tiếp tục các hành vi tố tụng tiếp theo. Sự có mặt của chủ thể này trong hòa giải khẳng định vị trí trung gian của Tòa án trong việc hòa giải các vụ án dân sự và chủ thể này do pháp luật quy định mà không phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Đặc điểm này là dấu hiệu để phân biệt hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND có sự khác biệt với các hình thức thương lượng hoặc hòa giải ngoài tố tụng khác do người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Chủ thể tiến hành hòa giải này phải có vị trí và vai trò độc lập với các bên, hoàn toàn không có lợi ích liên quan đến tranh chấp và không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào. Tuy chủ thể tiến hành hòa giải không do các bên quyết định, lựa chọn nhưng sự điều chỉnh, thỏa thuận về giải pháp giải quyết các tranh chấp phải do chính các bên tranh chấp quyết định. án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án”. 16 Điều 209 đến Điều 212 BLTTDS năm 2015. 17 Điều 246 BLTTDS năm 2015. Thứ ba, hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự. Mặc dù hòa giải là một hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Đương sự trong các vụ án dân sự là chủ thể chính của hòa giải và là các bên của tranh chấp mà Tòa án cần giải quyết. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ. Vì lý do này mà pháp luật quy định đương sự là người có quyền tự định đoạt để giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc thỏa thuận giữa các đương sự sẽ đạt được kết quả trung thực, được Tòa án công nhận nếu quá trình thỏa thuận được diễn ra trên cơ sở tự nguyện, không bị một ai với bất kỳ hình thức nào cưỡng ép, can thiệp vào thỏa thuận của các đương sự. Đặc điểm này là đặc trưng cơ bản của hòa giải, đồng thời cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải và xét xử. Khi xét xử, Tòa án sẽ ra phán quyết và đương sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh mọi phán quyết của Tòa án. Trong hòa giải, Tòa án chỉ có vai trò trung gian giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau mà không được can thiệp vào thỏa thuận đó. Thứ tư, hòa giải còn có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động tố tụng khác. Trong quá trình hòa giải Thẩm phán sẽ nắm bắt được tâm tư nguyện vọng và yêu cầu của từng bên, hiểu rõ hơn những vấn đề mà các bên đang tranh chấp để từ đó tiến hành các công việc cần thiết liên quan đến phiên tòa sơ thẩm và hoạt động tố tụng của Tòa án sau này. Nếu hòa giải tốt thì phiên tòa sơ thẩm diễn ra sau này sẽ được thuận lợi, hạn chế tình trạng hoãn phiên tòa nhiều lần do những yếu tố chủ quan cũng như hạn chế tình trạng xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Bên cạnh đó việc thực hiện tốt công tác hòa giải sẽ giúp cho Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết kháng cáo, kháng nghị được nhanh chóng, thuận lợi. 1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân Hòa giải không chỉ mang lại ý nghĩa đối với Tòa án, cho các bên tranh chấp, cho việc thi hành án mà còn có ý nghĩa đối với trật tự xã hội. Ý nghĩa đối với Tòa án: Xét xử tốt đã là tốt nhưng không phải xét xử mà vẫn giải quyết được tranh chấp còn tốt hơn, vì vậy hòa giải luôn được khuyến khích khi giải quyết vụ án dân sự18. Qua hòa giải, trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án sẽ giảm bớt được nhiều 18 Lê Thị Bích (2013), tlđd (10), tr. 26.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan