BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
VÕ NGỌC OANH
HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2017 – 2021
GVHD: Th.S MAI THỊ THỦY
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
VÕ NGỌC OANH
1753801013161
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2017 – 2021
HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
GVHD: Th.S Mai Thị Thủy
Giảng viên khoa Luật Hình sự
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................................................................... 8
1.1.
Khái niệm chung về người chưa thành niên phạm tội .................................... 8
1.1.1.
Khái niệm người chưa thành niên ..................................................................... 8
1.1.2.
Khái niệm người chưa thành niên phạm tội .................................................... 10
1.2.
Những vấn đề lý luận về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội........................................................................................................................ 12
1.2.1.
Khái niệm, đặc điểm và mục đích hình phạt ................................................... 12
1.2.2.
Cơ sở của việc quy định các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội ......................................................................................................................... 16
1.3.
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội ................................................................................ 19
1.3.1.
Khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội .............................................................. 19
1.3.2.
Quy định của BLHS năm 2015 về các hình phạt áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội ....................................................................................................... 24
CHƯƠNG 2. HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI ........................................................................................................ 33
2.1.
Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định
của BLHS Liên Bang Nga........................................................................................... 34
2.1.1.
Quy định của BLHS Liên bang Nga về các hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội .............................................................................................. 34
2.1.2.
Những điểm tương đồng và khác biệt so với quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam ....................................................................................................................... 41
2.2.
Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định
của BLHS Ukraine ...................................................................................................... 45
2.2.1.
Quy định của BLHS Ukraine về các hình phạt áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội ....................................................................................................... 45
2.2.2.
Những điểm tương đồng và khác biệt so với quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam ....................................................................................................................... 50
2.3.
Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định
của BLHS Trung Hoa ................................................................................................. 54
2.3.1.
Quy định của BLHS Trung Hoa về các hình phạt áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội ....................................................................................................... 54
2.3.2.
Những điểm tương đồng và khác biệt so với quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam ....................................................................................................................... 61
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CÁC
NƯỚC TRONG VIỆC QUY ĐỊNH HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ĐỐI VỚI
VIỆT NAM .................................................................................................................. 66
3.1.
Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và những vướng mắc, bất cập ............ 66
3.2.
Kinh nghiệm trong quy định của pháp luật hình sự các nước về hình phạt
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội .................................................... 71
3.3.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội ........................................................................................... 79
3.3.1.
Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình
phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội .................................................. 79
3.3.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng khác ............................................... 89
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 93
DANH MỤC THAM KHẢO ..........................................................................................
PHỤ LỤC .........................................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp “Hình phạt áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm
cho Việt Nam” là thành quả nỗ lực cố gắng của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn khoa
học của Th.S Mai Thị Thủy. Các nội dung, thông tin được trình bày trong Khóa luận là
trung thực.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2021
Sinh viên
Võ Ngọc Oanh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ gốc
Từ viết tắt
Bộ luật Hình sự
BLHS
Người chưa thành niên
NCTN
Người đã thành niên
NĐTN
Người chưa thành niên phạm tội
NCTNPT
Pháp luật hình sự
PLHS
Trách nhiệm hình sự
TNHS
Cải tạo không giam giữ
CTKGG
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em
CRC
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam có những
cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và tăng cường khả năng đảm bảo quốc phòng – an ninh, trật tự xã hội. Tuy
nhiên, bên cạnh những thời cơ thì phải thừa nhận rằng chúng ta cũng đang đối mặt với
những thách thức mà phải kể đến là diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm – đặc
biệt là tội phạm chưa thành niên. Đây là vấn đề cần được chú trọng bởi từ trước đến
nay, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được Đảng và Nhà nước ta
dành sự quan tâm đặc biệt.
Thực tiễn cho thấy, tình hình tội phạm chưa thành niên có nhiều diễn biến từ
phức tạp, trẻ hóa về độ tuổi, xảo quyệt trong hành vi phạm tội, khuynh hướng người
chưa thành niên thực hiện các tội phạm có sử dụng bạo lực hoặc tội phạm có tổ chức
ngày càng tăng, gây bức xúc và lo ngại cho xã hội. Nhận thức được cần có biện pháp
xử lý phù hợp với người chưa thành niên phạm tội, có tính đến các đặc thù về tâm sinh
lý của họ, Bộ luật Hình sự (BLHS) các thời kỳ đều xây dựng chính sách riêng cho đối
tượng người chưa thành niên phạm tội và BLHS năm 2015 hiện hành tại Chương 12 –
Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trong đó có quy định về hệ thống
hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội – chế tài quan trọng nhằm
giáo dục, trừng trị người phạm tội, lấy mục tiêu hướng thiện, giáo dục, cải tạo người
chưa thành niên phạm tội là chính, vì một thế hệ trẻ phát triển lành mạnh, trong sáng.
Trải qua quá trình áp dụng các quy định pháp luật về hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội, bước đầu có những tác động tích cực và hiệu quả nhưng
đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, các quy định về hình phạt
chưa thực sự hợp lý dẫn đến tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng các hình
1
phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ còn thấp, tỷ lệ áp dụng hình phạt tù có
thời hạn vẫn chiếm đa số, không đảm bảo nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành
niên phạm tội và không phù hợp với mục tiêu giáo dục, cải tạo là chính. Bên cạnh đó,
có những quy định còn chưa được cụ thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không được
thống nhất, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người chưa thành niên phạm tội.
Do đó, để xây dựng một hệ thống pháp luật quốc gia hoàn chỉnh, dân chủ,
nghiêm minh thì pháp luật hình sự với tư cách là một trong những công cụ sắc bén và
hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm phải
được nghiên cứu và xây dựng hoàn thiện. Muốn thực hiện được điều đó thì không chỉ
phải dựa trên nền tảng truyền thống pháp lý của dân tộc, phù hợp với nền văn hóa của
đất nước Việt Nam mà còn phải hài hòa, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, hội nhập.
Tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của pháp luật nước ngoài sẽ góp phần tích cực cho
hoạt động lập pháp hình sự của nước ta, giúp cho các nhà làm luật Việt Nam tiếp cận
những kinh nghiệm quý báu trong hoạt động lập pháp hình sự của nước bạn, từ đó nhìn
nhận thực trạng của pháp luật Việt Nam để chọn lọc, tiếp thu và có sửa đổi, bổ sung
phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Đặc biệt, đối với vấn đề về hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội lại càng
phải được quan tâm để đảm bảo sự phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, phù hợp với xu hướng chung của thế giới và đáp ứng yêu cầu phòng chống
tội phạm trong giai đoạn mới.
Vì những lẽ trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự một số nước và kinh
nghiệm cho Việt Nam” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội không phải là đề tài mới,
nội dung này đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều công trình
2
nghiên cứu có nội dung liên quan đến hình phạt áp dụng với người chưa thành niên
phạm tội, cụ thể như sau:
Về giáo trình, sách chuyên khảo: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần
chung), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, 2019; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, 2019; Trần Quang Vinh - Vũ Thị Thúy – Luật
Hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2018; Lê Trung
Kiên – Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và Trung Hoa, Nxb. Tư pháp,
2018,…
Về luận án tiến sĩ: Lương Ngọc Trâm – Quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2017,…
Về luận văn thạc sĩ: Lưu Ngọc Cảnh – Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở
nghiên cứu số liệu thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2010; Trần Thị Ngọc Thu – Hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành
phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2017;
Nguyễn Thanh Vũ – Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo
luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015,…
Về khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật: Hồ Thị Thùy Trang – Quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật Hình sự 2015, Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017,…
Về bài báo, tạp chí: Trần Văn Dũng – Quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án dân dân, số 10/2003; Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng –
3
Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội: những khía cạnh pháp lý hình
sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
20/2004; Phạm Văn Báu – So sánh quy định về hệ thống hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam và luật hình sự Trung Hoa, Tạp chí Luật học, số 8/2013,…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã thể hiện một cách tổng quát
những khía cạnh liên quan đến quy định pháp luật về hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình nào đề cập một
cách tương đối có hệ thống, đồng bộ và toàn diện về các hình phạt áp dụng với người
chưa thành niên phạm tội theo quy định của BLHS năm 2015 trên cơ sở tham khảo, so
sánh kinh nghiệm pháp luật nước ngoài, đúng với tên gọi của đề tài – Hình phạt áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự một
số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam. Đặt trong bối BLHS năm 2015 trải qua một thời
gian thi hành đã phát sinh một số vấn đề trên thực tế và chưa có công trình nào đi sâu
vào nghiên cứu vấn đề trên, do đó tác giả chọn đề tài này để góp phần làm sáng tỏ
những quy định về hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội của pháp
luật hình sự một số nước trên thế giới trong sự tương quan so sánh với pháp luật hình
sự Việt Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất khả thi góp phần hoàn thiện quy
định pháp luật hình sự Việt Nam nói chung và quy định hình phạt áp dụng với người
chưa thành niên phạm tội nói riêng.
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của Khóa luận là thông qua việc nghiên cứu quy định
trong BLHS một số nước trên thế giới về hình phạt áp dụng với người chưa thành niên
phạm tội để rút ra kinh nghiệm cho pháp luật hình sự Việt Nam. Từ đó, đề xuất những
phương án hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội cũng như các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng của
hình phạt.
4
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Khóa luận xác định các nhiệm vụ sau:
-
Làm rõ các vấn đề lý luận về người chưa thành niên phạm tội, hình phạt
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
-
Nghiên cứu khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội qua các thời kỳ và phân tích
quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt áp dụng đối với người chưa chưa
thành niên phạm tội.
-
Phân tích quy định của BLHS một số quốc gia (Liên bang Nga, Ukraine,
Trung Hoa) về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội; từ đó, rút ra
các điểm tương đồng và khác biệt so với quy định của BLHS năm 2015.
-
Khái quát thực trạng về áp dụng hình phạt với người chưa thành niên
phạm tội ở Việt Nam, qua đó nêu rõ những điểm bất cập, hạn chế.
-
Phân tích kinh nghiệm của pháp luật hình sự Liên bang Nga, Ukraine,
Trung Hoa khi quy định hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội. Trên
cơ sở đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt
Nam về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
4.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
❖ Đối tượng nghiên cứu
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và các nước: Liên bang Nga, Ukraine,
Trung Hoa về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
❖ Phạm vi nghiên cứu
-
Về nội dung: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt áp
dụng với người chưa thành niên phạm tội; quy định của BLHS Việt Nam, Liên bang
Nga, Ukraine, Trung Hoa về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội; thực tiễn và những vướng mắc, bất cập khi áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội ở Việt Nam
5
-
Về thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm
2011 đến năm 2018 trên phạm vi cả nước.
5.
Phương pháp nghiên cứu
-
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để làm rõ các quy định
về hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt
Nam và một số nước; những bất cập, vướng mắc về áp dụng hình phạt với người chưa
thành niên phạm tội ở Việt Nam và đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật.
-
Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích những điểm tương đồng
và khác biệt trong quy định về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội của BLHS Việt Nam với các quốc gia khác.
-
Phương pháp thống kê được sử dụng để xác định tình hình tội phạm và
thực tiễn áp dụng hình phạt của Tòa án đối với người chưa thành niên phạm tội.
-
Phương pháp lịch sử được sử dụng để khái quát quy định hình phạt áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam từ thời phong kiến cho đến
nay.
6.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về người chưa
thành niên phạm tội và hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội; quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước về hình phạt áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội. Khóa luận còn là tài liệu tham khảo cho những nhà
nghiên cứu, sinh viên và những người có quan tâm đến nội dung hình phạt áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội.
Đối với hoạt động thực tiễn: Khóa luận góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ
trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc áp dụng hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội.
6
Đối với hoạt động lập pháp: Nếu những kiến nghị của Khóa luận được tham
khảo trong hoạt động lập pháp, tác giả hi vọng những sửa đổi, bổ sung đó sẽ góp phần
nhỏ trong việc hoàn thiện quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi của hình phạt
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trên thực tế, đóng góp cho sự nghiệp
đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa thành niên cũng như công tác giáo dục, cải tạo
người chưa thành niên phạm tội, một đối tượng đặc thù ở nước ta hiện nay.
7.
Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
Khóa luận gồm có ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2. Hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội theo quy định
của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới.
Chương 3. Một số kinh nghiệm của pháp luật hình sự các nước trong việc quy
định hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội và kiến nghị hoàn thiện
đối với Việt Nam.
7
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.
Khái niệm chung về người chưa thành niên phạm tội
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
❖ Khái niệm người chưa thành niên theo quy định của pháp luật quốc tế
Khái niệm người chưa thành niên (NCTN) đã được đề cập đến trong nhiều văn
bản pháp luật quốc tế, tuy nhiên ở mỗi văn kiện lại tồn tại nhiều điểm khác nhau:
Tại Điều 1 Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) được Đại hội đồng
Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 xác định rõ: "Trẻ em có nghĩa là bất kỳ
người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể áp dụng với trẻ em đó quy
định tuổi thành niên sớm hơn". Công ước này cũng ghi nhận: “ Những người dưới 18
tuổi nếu gây ra những hành động phạm pháp sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình
hoặc tù chung thân mà không có khả năng được phóng thích” (khoản 1 Điều 37).
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với
NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
29/11/1985 nêu rõ: "NCTN là trẻ em hay thanh thiếu niên mà tùy theo từng hệ thống
pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội, theo một phương thức khác với người lớn" (Quy
tắc số 2.2 mục a).
Tại Bộ Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ NCTN bị tước tự do được Đại Hội
đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 nêu rõ: “NCTN là người dưới 18 tuổi.
Giới hạn độ tuổi thấp hơn mức này theo đó không được phép tước tự do của trẻ em cần
được pháp luật quy định” (Quy tắc số 11 mục a).
8
Từ các văn bản nêu trên, có thể xác định rằng: Trong pháp luật quốc tế sử dụng
đồng thời khái niệm trẻ em và khái niệm NCTN. Nhìn chung các văn bản đều có sự
thống nhất quan điểm về độ tuổi của NCTN và trẻ em đều giới hạn là dưới 18 tuổi.
Ngoài ra, CRC còn có quy định mở cho các quốc gia tự quyết trong việc quy định về
độ tuổi của NCTN căn cứ vào sự phát triển thể chất, tinh thần của công dân nước mình.
Quy định này có thể dẫn đến sự khác nhau về độ tuổi của NCTN trong hệ thống pháp
luật các quốc gia do mỗi nước đều có những đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội, truyền
thống lịch sử - văn hóa, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa thành niên.
❖ Khái niệm NCTN theo quy định của pháp luật Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, cũng tồn tại đồng thời các khái niệm
NCTN và trẻ em ở các văn bản khác nhau. Cụ thể:
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Người chưa thành niên là người chưa đủ
mười tám tuổi” (Điều 21). Như vậy, trong Bộ luật Dân sự năm 2015, NCTN là thuật
ngữ dùng để chỉ người chưa đủ 18 tuổi.
Khoản 1 Điều 143 Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định: “Lao động chưa
thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi”. Như vậy, theo Bộ luật Lao động,
NCTN cũng được xác định là người chưa đủ 18 tuổi.
Luật xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 tại khoản 3 Điều 134
quy định nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với NCTN trong đó việc áp dụng
hình thức, mức xử phạt đối với NCTN tùy thuộc vào từng độ tuổi: người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có sự khác nhau. Như vậy,
theo Luật xử lý vi phạm hành chính thì NCTN được xác định là người dưới 18 tuổi.
Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Có thể
thấy, theo Luật Trẻ em thì khái niệm trẻ em đã được giới hạn là người dưới 16 tuổi.
9
Từ các quy định trên nhận thấy rằng: pháp luật Việt Nam có tồn tại cả khái niệm
NCTN và khái niệm trẻ em. Quan điểm về độ tuổi của NCTN ở Việt Nam phù hợp với
quan điểm quốc tế mà trước hết là CRC, đều xác định là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên,
khác với pháp luật quốc tế, ở Việt Nam không đồng nhất NCTN và trẻ em, trẻ em sẽ
được xác định là những người dưới 16 tuổi còn NCTN là người dưới 18 tuổi. Có nghĩa
là mọi trẻ em đều là NCTN nhưng không phải ai chưa thành niên cũng là trẻ em.
Tóm lại, độ tuổi của trẻ em, NCTN theo pháp luật quốc tế là người dưới 18 tuổi.
Pháp luật Việt Nam cũng xác định NCTN là người dưới 18 tuổi, tuy nhiên trẻ em được
quy định độ tuổi nhỏ hơn đó là người dưới 16 tuổi.
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
❖ Theo quy định của pháp luật quốc tế
Căn cứ Quy tắc số 2.2 mục c của Quy tắc Bắc Kinh,“Người chưa thành niên
phạm tội là trẻ em hay thanh thiếu niên bị cáo buộc, hay bị kết luận là đã phạm tội”.
Ngoài ra, văn bản cũng có quy định mở cho các quốc gia áp dụng các quy tắc một cách
tương ứng với hệ thống và quan niệm pháp luật riêng của quốc gia mình. Chẳng hạn,
xác định hành vi (hành động hay không hành động) nào là phạm tội bị pháp luật xử
phạt (Quy tắc 2.2 mục b) hay xác định phương thức xử phạt đối với NCTN là trẻ em
hay thanh thiếu niên khác so với người lớn (Quy tắc 2.2 mục a).
❖ Khái niệm NCTNPT theo quy định của BLHS năm 2015
BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 đều sử dụng thuật ngữ “người chưa thành
niên phạm tội” (NCTNPT). Lần đầu tiên tại BLHS năm 2015 thuật ngữ “người chưa
thành niên phạm tội” được thay thế bằng “người dưới 18 tuổi phạm tội”. Giải thích cho
sự thay đổi này, trong pháp luật Việt Nam khái niệm NCTN và khái niệm trẻ em là
không đồng nhất, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng là NCTN nhưng không
được xem là trẻ em. Việc thay đổi về mặt thuật ngữ “người chưa thành niên” bằng
10
thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” của BLHS năm 2015 là phù hợp, không chỉ thống nhất
với các văn bản chuyên ngành mà còn hài hòa với các chuẩn mực quốc tế. Thêm vào
đó việc sửa đổi này sẽ tạo điều kiện để các nhà làm luật quy định chính xác đối với
từng tội danh cũng như giúp cơ quan có thẩm quyền quyết định hình phạt phù hợp cho
từng độ tuổi cụ thể.
Về độ tuổi chịu TNHS, tiếp thu tinh thần của BLHS năm 1985 và BLHS năm
1999, BLHS năm 2015 cũng có sự phân biệt TNHS giữa NCTNPT ở hai nhóm tuổi:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Cụ thể
Điều 12 BLHS năm 2015 quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về
mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151,
168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290,
299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Từ quy định trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
-
Theo BLHS năm 2015 thì NCTNPT chỉ bao gồm các đối tượng ở hai
nhóm tuổi.
-
Đối với NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì phải chịu TNHS về mọi
loại tội phạm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
-
Đối với NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đối với một số tội phạm
được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.
NCTNPT không chỉ được xác định bằng tiêu chí độ tuổi. “Chủ thể của tội phạm
là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ
thể” [22-tr.130]. Do đó, không phải bất cứ người dưới 18 tuổi nào khi thực hiện một tội
11
phạm được quy định trong BLHS năm 2015 cũng đều phải chịu TNHS, họ phải đồng
thời thỏa mãn dấu hiệu độ tuổi trong giới hạn luật định và có năng lực TNHS.
Trong lĩnh vực hình sự, NCTNPT được coi là người có năng lực nhận thức và
năng lực điều khiển hành vi hạn chế. Các nghiên cứu về đặc điểm tâm lý lứa tuổi cho
thấy, họ là đối tượng chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và đặc điểm tâm lý;chịu
ảnh hưởng nhiều từ môi trường sống, sự giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội.
Do đó, nếu môi trường sống lành mạnh, an toàn thì NCTN sẽ được phát triển toàn diện
về thể chất, tinh thần, trở thành công dân tốt. Ngược lại, họ có thể dễ bị tha hóa về
nhân cách do tiếp thu những thói hư, tật xấu và dễ bị lôi kéo để vi phạm pháp luật.
Chính vì thế, hành vi phạm tội của NCTN thực hiện có thể do họ chưa nhận thức được
đầy đủ về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như các giá trị chuẩn mực trong
các mối quan hệ xã hội. Đó là lý do vì sao pháp luật hình sự (PLHS) không coi
NCTNPT có năng lực TNHS như người đã thành niên (NĐTN) phạm tội. Việc xử lý
NCTNPT phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm (khoản 1 Điều 91
BLHS năm 2015) và được thực hiện theo quy định tại Chương XII BLHS năm 2015.
Tóm lại, NCTNPT theo PLHS Việt Nam là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi, có năng lực TNHS và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm được
quy định trong BLHS.
1.2.
Những vấn đề lý luận về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và mục đích hình phạt
❖ Khái niệm hình phạt
Hình phạt là chế định quan trọng trong luật hình sự, nó có ý nghĩa quyết định
đến việc bảo đảm thực hiện có hiệu quả mục đích của Luật Hình sự. Khái niệm hình
12
phạt được ghi nhận tại Điều 30 BLHS năm 2015 như sau: “Hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, do Tòa án
quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”.
❖ Các đặc điểm của hình phạt áp dụng đối với NCTNPT
Từ khái niệm hình phạt có thể rút ra các đặc điểm cơ bản của hình phạt như sau:
Thứ nhất, tính nghiêm khắc của hình phạt. So với các biện pháp cưỡng chế khác
của Nhà nước thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Tính nghiêm
khắc thể hiện ở chỗ hình phạt tước bỏ một hoặc một số quyền và lợi ích của chủ thể
phạm tội như quyền sống (hình phạt tử hình), quyền tự do thân thể (tù có thời hạn),
quyền sở hữu tài sản (hình phạt tiền),… Ngoài ra, hậu quả pháp lý mà hình phạt có thể
để lại cho người phạm tội đó là án tích trong thời hạn nhất định theo quy định pháp
luật. Đây là đặc điểm nhân thân bất lợi cho người phạm tội khi người phạm tội có hành
vi vi phạm pháp luật và cả trong đời sống xã hội.
Đối với NCTNPT hình phạt cũng là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước so với các biện pháp cưỡng chế khác. Tuy nhiên, tính nghiêm khắc của hình
phạt khi áp dụng với NCTN có sự giảm nhẹ hơn so với khi áp dụng với NĐTN. Nội
dung này được thể hiện rõ qua các nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT quy định tại
Điều 91 BLHS năm 2015: hình phạt chỉ được Tòa án áp dụng nếu xét thấy việc miễn
TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục, biện pháp tư pháp mà không bảo đảm
hiệu quả giáo dục phòng ngừa; NCTNPT không bị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình;
đối với hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt
áp dụng đối với NCTN thì cũng chỉ được tuyên khi xét thấy hình phạt và biện pháp
giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa, đồng thời khi áp dụng hình phạt
tù có thời hạn, NCTNPT được hưởng mức án nhẹ hơn so với NĐTN phạm tội tương
ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất,…
13
- Xem thêm -