Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự (bhtnds ) của...

Tài liệu Luận văn hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự (bhtnds ) của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty bảo hiểm bảo hiểm nhà rồng bảo long hà nội

.DOC
77
159
96

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống dân cư ngày càng được cải thiện nhờ đó mà các nhu cầu vui chơi giải trí, đi lại giao lưu văn hóa,kinh tế giữa các nước, các vùng ngày càng được chú trọng. Do nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, hành khách ngày càng tăng đòi hỏi hệ thống giao thông và phương tiện đi lại cũng phát triển theo. Trong đó nổi lên là hình thức giao thông đường bộ với những ưu điểm là tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ tương đối nhanh, giá cả hợp lý. Nhưng việc đi lại, vận chuyển bằng các phương tiện cơ giới cũng dễ gặp phải những tai nạn, rủi ro bất ngờ không thể lường trước được như: đâm va, lật đổ, hỏa hoạn. Những rủi ro này ảnh hưởng lớn đến tính mạng và tài sản của nhân dân, là mối đe dọa lớn cho chủ xe vì họ không những phải chịu trách nhiệm đền bù những thiệt hại lớn mà mình gây ra cho người thứ ba mà còn phải gánh cả phần chi phí sửa chữa bản thân phương tiện của mình. Để khắc phục những tổn thất có thể xảy ra cho cả hai phía, bảo hiểm đã ra đời Với những suy nghĩ như trên và với một sự quan tâm thực sự đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba_một nghiệp vụ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, em mong muốn được nghiên cứu sâu hơn về nghiệp vụ này: thực tiễn, hoạt động, tiềm năng cũng như hạn chế của nó và đóng góp một số ý kiến trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ này. Ðó là lý do em chọn đề tài: " Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nghiệm dân sự(BHTNDS ) của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty bảo hiểm Bảo Hiểm Nhà Rồng _ Bảo Long Hà Nội". Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 1 Lớp: Bảo Hiểm 44A Sau một thời gian tìm hiểu, học hỏi qua các tài liệu liên quan và nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ chuyên môn của công ty Bảo Long Hà Nội, đặc biệt là các cán bộ của phòng nghiệp vụ I của công ty_nơi em thực tập, đã cung cấp cho em những kiến thức quan trọng và những số liệu thực tế, nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô Th.S Bùi Quỳnh Anh, em đã hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này. Thông qua nó, em được củng cố những kiến thức cơ bản đã học ở trường, đồng thời tích lũy được nhiều kiến thức thực tế rất bổ ích. Em tin rằng sẽ giúp em rất nhiều cho công tác của mình sau này. Nhân đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm giúp đỡ đó. Lần đầu làm quen với thực tế và hiểu biết còn hạn chế của mình, bài viết của em không thể tránh khỏi có thiếu sót, em mong các thầy cô giáo sẽ tận tâm đóng góp ý kiến sửa đổi, bổ sung cho chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 2 Lớp: Bảo Hiểm 44A CHƯƠNGI: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VỚI NGƯỜI THỨ BA VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ I. Khái quát chung 1.Khái quát về bảo hiểm trách nhiệm và bảo hiểm TNDS. 1.1 Bảo hiểm trách nhiệm Trong cuộc sống, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật TNDS cho từng hành vi ứng xử của mình. Nhìn chung, khi một người gây ra thiệt hại cho người khác do sự bất cẩn của mình thì phải chịu trách nhiệm trước thiệt hại đó. Đối với một cá nhân, có nhiều căn nguyên có thể làm phát sinh trách nhiệm pháp lý. Ví dụ, khi một cá nhân sử dụng một chiếc xe ôtô, người đó có thể gây tai nạn cho người khác, theo quy định, cá nhân đó sẽ phải bồi thường các thiệt hại cho phía nạn nhân. Mỗi một cá nhân cũng phải bồi thường thiệt hại do vật nuôi của anh ta gây ra cho người khác… Những người làm công tác chuyên môn như bác sỹ, kế toán viên, luật sư…đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghề nghiệp của mình. Nếu họ bất cẩn trong chuyên môn gây ra các thiệt hại về tài chính cho đối tượng mà mình phục vụ (chẳng hạn đưa ra lời tư vấn không chính xác gây thiệt hại) thì họ phải bồi thường. Đối với một doanh nghiệp, theo quy định của luật pháp nhiều nước, chủ sử dụng lao động phải có trách nhiệm thanh toán khoản tiền bồi thường và các chi phí y tế cho người lao động mà sử dụng khi những người lao động đó bị tại nạn trong quá trình lao động hoặc bị mắc các bệnh do nghề nghiệp mà không phải do lỗi của người lao động. Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 3 Lớp: Bảo Hiểm 44A Một doanh nghiệp cũng có thể sẽ phải bồi thường các thiệt hại so tài sản của doanh nghiệp đó gây ra cho người khác (bất kể do lỗi của doanh nghiệp hay lỗi của người làm thuê) Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp (các nhà máy hoá chất, nhà máy công nghiệp…) có thể gây ra ô nhiễm môi trường và doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm nồi thường về thiệt hại về tài sản hoặc thương tích đối với người khác. Các nhà sản xuất hoặc phân phối phải chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do hàng hoá, sản phẩm của họ cung cấp gây ra cho khách hàng hoặc cho những người khác (phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm) do lỗi sản xuất, lỗi thiết kế, không có đủ các thiết bị an toàn, không có chỉ dẫn hay chú ý đầy đủ (“hút thuốc lá có thể có hại cho sức khoẻ”, “sử dụng thuốc không đúng chỉ dẫn có thể gây nguy hiểm cho sức khoẻ”…). Đối với một số sản phẩm, rủi ro trách nhiệm có thể là rất lớn, ví dụ như các sản phẩm liên quan đến ngành vân tải, máy móc thiết bị công nghiệp, đồ chơi, các sản phẩm cho trẻ sơ sinh Các thiệt hại trách nhiệm ở trên có thể phát sinh theo hợp đồng (giữa cá bên có liên quan trong hợp đồng, ví dụ theo hợp đồng lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động, theo hợp đồng giữa hãng vận chuyển và hành khách, theo hợp đồng mua bán giữa nhà sản xuất và khách hàng…) hay phát sinh ngoài hợp đồng (ví dụ các thiệt hại đối với bên thứ ba). Nhưng cho dù là phát sinh theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng thì các trách nhiệm pháp lý đều dẫn tới thiệt hại tài chính một cách gián tiếp cho cá nhân hay doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm. Tuỳ theo mức độ lỗi hoặc thiệt hại của bên thứ ba mà thiệt hại trách nhiệm phát sinh có thể là rất lớn hoặc không đáng kể. Trong trường hợp thiệt hại trách nhiệm phát sinh là rất lớn, nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tài chính của cá nhân hay doanh nghiệp. Do đó các cá nhân và doanh nghiệp cần phải tham gia Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 4 Lớp: Bảo Hiểm 44A bảo hiểm trách nhiệm, để khi trạchs nhiệm pháp lý phát sinh, họ sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường những thiệt hại về mặt trách nhiệm dân sự 1.2 Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba Trước hết ta xem xét thế nào gọi là trách nhiệm dân sự. Theo nghĩa rộng, trách nhiệm dân sự phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ dân sự được hiểu là việc mà theo quy định của pháp luật thì một chủ thể phải làm hoặc không được làm một việc nào đó vù lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác (hay còn gọi là người có quyền). Người có nghĩa vụ dân sự mà không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ đó thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, có thể là thiệt hại về vật chất, có thể là thiệt hại về tinh thần. “Trách nhiệm bồi thường về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính đước thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí nhăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại” (Bộ luật dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, dp đó nó mang những đặc tính chung của trách nhiệm pháp lý: Nó được coi là biện pháp cưỡng chế, thể hiện dưới dạng là trách nhiệm phải thực hiện và trách nhiệm nồi thường thiệt hại; nó đước áp dụng đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật và do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục nhất định và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ mang đến cho người thực hiện hành vi trái pháp luật theo những diều bất lợi. Xe cơ giới là các loại xe chạy trên đường bộ bằng động cơ của chính nó (trừ xe đạp máy). Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 5 Lớp: Bảo Hiểm 44A Về nguyên tắc người có quyền sở hữu đối với phương tiện xe cơ giới gọi là chủ xe. Nhìn chung họ là những người đứng tên trên giấy đăng ký xe và cả giấy lưu hành xe. Có những trường hợp chủ xe cũng là người trực tiếp điều khiển xe, không phải là người đứng tên trong giấy đăng ký xe. Trong trường hợp này người điều khiển xe chỉ đóng vai trò là người làm công ăn lương theo hợp đồng thuê mướn, tuyển dụng của chủ xe. Khi có tai nạn xảy ra, thông thường chủ xe phải là người chịu trách nhiệm bồi thường ngay cả khi họ klhông phải là người trực tiếp điều khiển xe. Nếu xe cơ giới được chủ xe giao quyền sử dụng và khai rhác xe cho người khác (người thuê xe), thì người thuê xe phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc sử dụng xe đó gây ra. Tuy nhiên việc xem xét quy kết trách nhiệm thuộc về ai cần phải lưu ý một số trường hợp. ▪ Người lái xe (do chủ xe thuê muớn hoặc tuyển dụng) gây tai nạn khi anh ta sử dụng xe vào việc riêng: Trường hợp này toà án vẫn phán quyết chủ xe phải bồi thường, nhưng trong phạm vi của mình chủ xe được quyền đòi hỏi trách nhiệm của người lái xe. ▪ Tai nạn xảy ra khi xe đang được cho người khác mượn: Trường hợp này người mượn xe để sử dụng phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên nếu chủ xe cho mượn cả lái xe của mình thì khi tai nạn xảy ra toà án vẫn phán quyết chủ xe chịu trách nhiệm bồi thường. Đồng thời toà án cũng không can thiệp vào việc người mượn xe tự nguyện đứng ra nồi thường thay cho chủ xe hoặc giúp đỡ cgo chủ xe bồi thường cho nạn nhân ▪ Tai nạn xảy ra khi xe lưu hành không được sự đồng ý của chủ xe: Trường hợp này nhìn chung người sử dụng xe không được phép của chủ xe thì phải chịu trach nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợip chủ xe cũng có lỗi trong việc để người khác chiếm dụng xe của mình, chẳng hạn chủ xe tời xe Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 6 Lớp: Bảo Hiểm 44A mà không rút chìa khoá điện. Trong trường hợp này, chủ xe cũng có thể phải liên đới bồi thường. ▪ Tai nạn do người vị thành niên gây ra: Nếu người vị thành niên điều khiển xe gây tai nạn thông thường cha mẹ họ là người chịu trách nhiệm bồi thường. Điều 17 Luật bảo về và chăm sóc trẻ em quy định: “Cha mẹ, người đỡ đầu phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự về những thiệt hại do hành vi của trẻ mình nuôi gây ra”. Điều 611 Bộ luật dân sự cũng quy định: “khi người thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà cong cha mẹ, thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu tài sản của cha mẹ không đủ bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại xó tài sản thì lấy tài sản để bồi thường phần còn thiếu”; Trong trường hợp người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường ohần còn thiếu bằng tài sản của mình; Trường hợp người vị thành niên gây tai nạn trong thời gian chịu sự quản lý của người giám hộ, thì người giám hộ cũng có thẻ phải liên đới bồi thường. Như vậy, trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ ba là trách nhiệmn hay nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do chủ xe hay lái xe gây ra cho người thứ ba so ciệc dử dụng xe đó gây tai nạn. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Giao thông vận tải nói chung, giao thông đường bộ nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế. Sự phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng bình quân 7.12%/năm, giao thông vận tải đường bộ Việt Nam cũng tăng nhanh với tốc độ chóng mặt về số lượng xe lưu hành và các con đường cao tốc, đường nhựa, đường xá vươn tới mọi vùng sâu, xa của Tổ quốc. Kinh tế phát triển làm cho đời sồng và thu nhập Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 7 Lớp: Bảo Hiểm 44A của dân cư ngày càng cao hơn. Việc mua một chiếc xe máy không còn là vấn đề khó khăn ngay cả với hộ nông dân. Thậm chí, lớp người trung lưu và các nhà doanh nghiệp trẻ còn có ôtô con để đi lại. Đây là dấu hiệu đáng mừng, song cùng với sự phát triển của giao thông đuờng bộ là gia tăng tai nạn giao thông ngày một nhiều và với mức độ nghiêm trọng hơn. Dù Đảng và Nhà nước có cố gắng đưa ra các giải pháp đến đâu đi chăng nữa, thì cũng chỉ đem đến kết quả là kìm chế tốc độ gia tăng tai nạn chứ không thể ngăn chặn để tai nạn không xảy ra. Tai nạn giao thông là điều không thể tránh khỏi, trước hết bởi bản thân xe cơ giới lưu hành với tốc độ cao là một nguy cơ tiềm ẩn gây tai nạn vào bất kỳ lúc nào. Một trúc trặc nhỏ của xo cơ giới do bản thân xe gây ra hay do bất cẩn của người lái xe khi không phát hiện được tình trạng hư hỏng của xe như: Mất phanh, mất lái, nổ lốp. Nếu như xe đang chạy thì hư hỏng trên củ xe tất yếu đưa tới một tai nạn mà hậu quả không thể lường trước được. Thứ hai, tai nạn có thể xảy ra do sơ xuất bất cẩn của người lái xe như ngủ gật, quyên không bất xi nhan xin đường, dùng xe đột ngột… Ở Việt Nam, số lượng lái xe không đủ tiêu chuẩn tham gia giao thông không phải là nhỏ. Thứ ba, đường xá Việt Nam chất lượng chưa cao, nhiều con đường gỗ ghề, khúc khuỷu, thiếu các biển báo chỉ dẫn cần thiết, làm cho lái xe không chủ động và lường trước được những khó khăn để tránh tai nạn. Thứ tư, ý thức chấp hành luật giao thông của người tham gia giao thông còn chưa cao, kể cả người đi bộ và xe thô sơ, buôn bán họp chợ, để vật liệu xây dựng lấn lòng lề đường, làm tăng nguy cơ gây tai nạn. Có rất nhiều biện pháp mà Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhằm hạn chế tai nạn giao thông như: ▪ Tổ chức thường xuyên, rộng rãi trong toàn dân về luật an toàn giao thông. Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 8 Lớp: Bảo Hiểm 44A ▪ Tổ chức tập huấn đội ngũ lái xe an toàn ▪ Tổ chức các lớp về an toàn xe. ▪ Xây dựng hệ thống biển báo pano, áp phích. ▪ Thành lập ban chỉ đạo an toàn giao thông ▪ Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng: Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về luật giao thông như chương trình “Tôi yêu Việt Nam” Tất cả các biện pháp trên tuy được các cấp, các ngành thực hiện thường xuyên và bằng nhiều cách khác nhau, song tai nạn giao thông vẫn xảy ra và ngày càng trầm trọng. Một khi chúng ta công nhận tai nạn giao thông đường bộ là một tòn tại khách quan, chỉ hạn chế chứ khó có thể tránh khỏi và vần đề quan trọng là khắc phục hậu quả tai nạn xảy ra một cách kịp thời và đầy đủ nhất. Tai nạn do xe cơ giới gây ra thường đưa đến những hậu quả khôn lường, gây thiệt hại rất lớn cho người và của. Những thiệt hại là rất lớn cho mỗi vụ tai nạn giao thông đường bộ thường gây hậu quả bồi thường nặng nề cho chủ phương tiện về TNDS theo Luật dân sự ngoài sự thiệt hại cho chính chủ phương tiện. Phần lớn trong các trường hợp tai nạn nghiêm trọng, chủ xe khôn đủ khả năng tài chính để bồi thường, nhiều trường hợp chủ xe, lái xe bị chết trong các vụ tai nạn hay bỏ trốn nên việc giải quyết tai nạn gặp khó khăn. Vấn đề là phỉa có nguồn tài chính sẵn sàng cho việc giải quyết hậu quả của các vụ tai nạn giao thông luôn luôn là mối quan tâm lo lắng của phía chủ xe; Cũng như đẻ bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân trong các vụ tai nạn, hạn chế tối thiểu tai nạn xảy ra là mối quan tâm của toàn xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời là một tất yếu khách quan và được phát triển từ loại hình tự nguyện sang bắt buộc. 3. Tác dụng của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 9 Lớp: Bảo Hiểm 44A Khi tai nạn xảy ra, việc giải quyết hậu quả của nó luôn là vấn đề phức tạp nhất, thường phát sinh những tranh chấp kéo dài. Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ guới là biện pháp kinh tế huy động dự đóng góp của các chủ xe, hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ này chủ yếu được sử dụng để bồi thường, bù đắp cho các chủ xe trong thời gian xe hoạt động gây tai nạn làm phá sinh TNDS của chủ xe. Bảo hiểm TNDS có tác dụng rất lớn đối với cả chủ xe, người thứ ba và cho xã hội. ▪ Đối với chủ xe: Bảo hiểm TNDS đã tạo tâm lý thoải mái, yên tâm, tự tin khi điều khiển các phương tiện tham gia giao thông; bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh TNDS, tránh thiệt hại về kinh tế cho chủ xe; giúp chủ xe có ý thức trong việc đề ra các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tai nạn. ▪ Đối với người thứ ba: Công ty bảo hiểm thay mặt chủ xe bồi thường thiệt hại một cách nhanh chóng, đầy đủ nhấtm giúp cho người thứ ba ổn dịnh về mặt tài chính, tinh thần. Bên cạnh đó, Công ty bảo hiểm hỗ trợ cho chủ xe trong viịec thương lượng hoà giải với nạn nhân, tránh gây ra tai căng thẳng hay sự cố bất thường từ phía người nhà nạn nhân. ▪ Đối với xã hội: Doanh nghiệp bảo hiểm muốn hoạt động kinh doanh tốt cần phải đưa ra các biện pháp hiệu quả đề phòng và ngăn ngừa tai nạn, tióch cực giảm thiểu các vụ tai nạn cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Điều này tác động đến sự ổn định, an toàn cho xã hội. Mặt khác, loại hình bảo hiểm này góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong việc giải quyết hậu quả các vụ tai nạn, cũng như trong việc xây dựng, thiết lập các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tai nạn. Đồng thời nó còng đem đến nguồn thu cho ngăn sách. Như vậy, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba càng khẳng định rõ hơn sự cần thiết và tầm quan tọng của nó. Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 10 Lớp: Bảo Hiểm 44A II. TÍNH CHẤT BẮT BUỘC CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS Cơ sở tiến hành bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba dưới hình thức bắt buộc. Do nhu cầu của sự tồn tại và phát triển kinh tế đất nước, các phương tiện giao thông đường bộ ngày càng tăng, đã tỏ rõ tính ưu việt của nó. Bên cạnh đó thì tại nạn do các phương tiện gây ra ngày một nhiều và rất nghiêm trọng. Nhiều khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại vượt quá khả năng tài chính của chủ phương tiện gấp nhiều lần, gây khó khăn cho nạn nhân trong việc khắc phục hậu quả về tài sản, điều chỉnh thương tật, mai táng. Bảo hiểm TNDS trước hết là bảo vệ lợi ích của người bị nạn hoặc gia đình họ, đây là một vấn đề xã hội lớn chứ không phải chỉ quyền lợi của chủ xe. Vì vậy, tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại các cơ quan bảo hiểm là trách nhiệm của mỗi chủ xe. Trên thế giới, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ra đời vào thế kỷ thứ XVIII, phát triển mạnh vào thế kỷ thứ XIX. HIện nay, hầu hết các nước đều quy định bắt buộc các chủ xe phải tham gia bảo hiểm TNDS. Một số nước có nền kinh tế phát triển như: Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nhật và Úc đã áp dụng hình thức bắt buộc từ những năm 40 của thế kỷ XX. Không chỉ dừng lại ở bắt buộc đối với chủ xe phải tham gia bảo hiểm TNDS mà còn quy định bắt buộc đối với doanh nghiệp bảo hiểm phải chấp nhận bảo hiểm theo đúng quyết định 23/2003/QĐ-BTC. Doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm TNDS của chủ xe theo đúng quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm được Bộ Tài Chính quy định, không được phép thấp hơn. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tăng mức trách nhiệm dân sự, dẫn đến tăng phí bảo hiểm theo yêu cầu của chủ xe. Điều này đảm bảo cho chủ xe tham gia giao Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 11 Lớp: Bảo Hiểm 44A thông luôn được đáp ứng nhu cầu khi đủ điều kiện có nhu cầu tham gia bảo hiểm. Từ những lý do đó, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định 30/HĐBT ngày 10/03/1988 quy đinmh tất cả các xe hoạt động trên lãnh thổ nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới tại cơ quan bảo hiểm. Đây là một chủ trương, một chính sách hoàn toàn đúng đắn và được duy trì cho đến nay nhằm đảm bảo lợi ích của người bị nạn khi tai nạn xảy ra, nâng cao trách nhiệm đối với chỉu phương tiện, giúp cơ quan quản lý số lượng xe lưu hành và thống kê đầy đủ các tai nạn để có những biện pháp quản lý xã hội, đồng thời nâng cao ý thức chấp hành nghiêm chỉnh những quy định, chủ trương của Nhà nước. Năm 2003, Bộ trưởng Bộ Tài Chính ban Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25/02/2003 thay thế các Nghị định trước nhằm phù hợp với bước đi của nền kinh tế nước ta: Quy định về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới III. ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Đây là một trong những nghiệp vụ BHTN, vì vậy, nó cũng mang những nét đặc trưng của BHTN. Sau đay là một số đặc trưng cơ bản của nó: 1. Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng Đối tượng bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại, do đó rất trừu tượng. Hơn nữa, trách nhiệm đó là bao nhiêu cũng không xác định được ngay lúc tham gia bảo hiểm. Thông thường trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có đủ ba điều kiện sau: ▪ Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba ▪ Có hành vi trái pháp luật của cá nhân hay của tổ chức Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 12 Lớp: Bảo Hiểm 44A ▪ Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của cá nhân hay của tổ chức và thiệt hại của bên thứ ba Mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn do sự phán xử của toà án. Thông thường, thiệt hại này được tính dựa trên mức độ lỗi của người gây ra thiệt hại và thiệt hại của bên thứ ba. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có những trường hợp toà án sẽ không căn cứ vàp mức độ lỗi để phán sử, mà căn cứ vào khả năng tài chính của người gây ra thiệt hại. Những trường hợp này thườn hay gặp ở các nước áp dụng hệ thống luật gọi theo tên tiến Anh là common law, ví dụ như ở nước Mỹ 2. Thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc Bảo hiểm trách nhiệm, ngoài việc đảm bảo ổn định tài chính cho người được bảo hiểm, còn có mục đích khác là bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân, bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Do vậy, loại hình bảo hiểm này thường được thực hiện theo hình thức bắt buộc. Nhìn chung, các bảo hiểm trách nhiệm thực hiện bắt buộc có liên quan đến ba nhóm hoạt động chủ yếu sau: ▪ Những hoạt động có nguy cơ gây tổn thất cho nhiều nạn nhân trong cùng một sự cố (kinh doanh vận chuyển hành khách, sử dụng gas lỏng) ▪ Những hoạt động mà chỉ cần có một sơ xuất nhỏ cũng có thể dẫn đến thiệt haịo trầm trọng về người (hoạt động của bác sĩ, sử dụng các dược phẩm) ▪ Những hoạt động cung cấp dịch vụ trí tuệ có thể gây thiệt hại lớn về tài chính (môi giới bảo hiểm, tư vấn pháp luật) Dưới đây là một số loại hình bảo hiểm trách nhiệm được thực hiện bắt buộc ở một số nước trên thế giới Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 13 Lớp: Bảo Hiểm 44A Bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc ở một số nước trên thế giới Nước Pháp Các loại hình bảo hiểm bắt buộc - Bảo hiểm trách nhiệm của kiến trúc sư, luật sư, củ thầu xây dựng, kiển toán, đại lý bảo hiểm, đại lý du lịch, công chứng viên - Bảo hiểm trách nhiệm của cửa hàng dược phẩm - Bảo hiểm trách nhiệm đối với hoạt động truyền máu, hoạt động Đức nghiên cứu y sinh - - Bảo hiểm trách nhiệm của kiến trúc sư, công chứng viên, thám tử - Bảo hiểm trách nhiệm đối với hoạt động tư vấn thuế, kiểm toán, chế biến thực phẩm Indonesia - - Bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe đối với thương tật và chết gây ra cho bên thứ ba - Chương trình bồi thường cho người lao động gồm cả hưu trí và sức Mâco khoẻ - Bảo hiểm trách nhiệm của chỉ xe đối với bên thứ ba - Bảo hiểm bồi thường cho người lao động - Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của đại lý du lịch - - Bảo hiểm trách nhiệm công cộng trong việc quảng cáo bằng đèn nêông Nguồn: Điều tiết và kiểm soát bảo hiểm ở châu Á OECD. 1999 Bảo hiểm bắt buộc về trách nhiệm dân sự ở Châu Âu. Nhuyễn Ngọc Định, Nguyễn Tiến Hùng. Tạp chí Tài chính yháng 11/1999. Ở Việt Nam, Luật kinh doanh Bảo hiểm ban hành ngày 22/12/2000 đã nêu các bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc bao gồm: ▪ Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bảo hiểm TNDS của người vận chuyển hàng không đối với hành khách; ▪ Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; ▪ Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 14 Lớp: Bảo Hiểm 44A 3. Có thể áp dụng giới hạn trách nhiệm hoặc không Bởi vì thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh chưa thể xác định được ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại đó có thể là rất lớn. Bởi vậy, để nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm thường đua ra giới hạn trách nhiệm, tức là các mức bồi thường tối đa của bảo hiểm (số tiền bảo hiểm ). Nói cách khác, thiệt hại trách nhiệm dân sự có thể rất lớn nhưng công ty bảo hiểm không bồi thường toàn bộ thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh đó mà chỉ khống chế trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Hạn mức trách nhiệm được áp dụng trong hầu hêt các nghiệp vụ bảo hiểm TNDS: Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm TNDS của chủ sử dụng lao động với người lao động, Trách nhiệm của chủ hãng vận chuyển đối với hành khách, hàng hoá… Nhưng cũng có một số nghiệp vụ bảo hiểm TNDS không áp dụng giới hạn trách nhiệm (thiệt hại TNDS phát sinh bao nhiêu, công ty bảo hiểm bồi thường bấy nhiêu), ví dụ như nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ tàu. IV. Nội cơ bản của BH TNDS của chủ xe cơ giớ đối với người thứ ba 1. Ðối tượng và phạm vi bảo hiểm 1.1. Ðối tượng bảo hiểm Người tham gia bảo hiểm thông thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay đại diện cho một tập thể. Công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm dân sự của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển của người lái xe. Như vậy đối tượng được bảo hiểm là TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ ba khi xe lưu hành gây tai nạn. Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 15 Lớp: Bảo Hiểm 44A Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu hành xe gây tai nạn có phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. Các điều kiện phát sinh TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba bao gồm: - Điều kiện thứ nhất: Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ ba. - Điều kiện thứ hai: Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy định khác của nhà nước… - Điều kiện thứ ba: Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba. - Điều kiện thứ tư: Chủ xe (lái xe) phải có lỗi. Trên thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra ba điều kiện thứ nhất, thứ hai, thứ ba là phát sinh TNDS của chủ xe (lái xe) đối với người thứ ba. Nếu thiếu một trong ba điều kiện đó TNDS của chủ xe sẽ không phát sinh và do đó sẽ không phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc không, vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do nguồn nguy hiểm cao độ mà không hoàn toàn do lỗi của chủ xe (lái xe). Ví dụ, xe đang chạy bị nổ lốp, lái xe mất khả năng điều khiển nên đã gây tai nạn. Trong trường hợp này, TNDS vẫn có thể phát sinh nếu có đủ ba điều kiện đầu tiên. Chú ý rằng, bên thứ ba trong BHTNDS chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn nhưng loại trừ: - Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe; - Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái… - Hành khách, những người có mặt trên xe; Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 16 Lớp: Bảo Hiểm 44A Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên. 1.2. Phạm vi bảo hiểm Công ty bảo hiểm nhận bảo đảm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn và làm phát sinh TNDS của chủ xe. Cụ thể, các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của công ty bảo hiểm bao gồm: - Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba; - Thiệt hại về tài sản, hàng hoá… của bên thứ ba; - Thiệt hại về tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập; - Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn chế thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả những biện pháp không mang lại hiệu quả); - Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân. Công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh TNDS trong các trường hợp sau: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại. - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ. - Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ như: + Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường; + Lái xe không có bằng lái hoặc bằng bị tịch thu, bằng không hợp lệ; Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 17 Lớp: Bảo Hiểm 44A + Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như: Rượu, bia, ma tuý… + Xe trở chất cháy, chất nổ trái phép; + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa; + Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải; + Xe không có hệ thống lái bên phải. - Thiệt hại do chiến tranh, bạo động. - Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh. - Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn. - Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thoả thuận khác. Ngoài ra, công ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, thi cốt. 2. Số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong hợp đồng bảo hiểm thể hiện giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm. Có nghĩa là, trong bất kỳ trường hợp nào thì số tiền bồi thường, chi trả cao nhất của người bảo hiểm cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm. Do tính đặc trưng của loại hình bảo hiểm này là đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm rất trừu tượng, không xác định được mức thiệt hại của người thứ ba. Vì vậy, trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, một hợp đồng thường xác định số tiền bảo hiểm dựa trên sự thoả thuận. Bộ Tài chính quy định hạn mức trách nhiệm tối thiểu bắt buộc cho mọi chủ xe. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể đưa ra mức trách nhiệm tự nguyện cao hơn được Bộ Tài chính Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 18 Lớp: Bảo Hiểm 44A chấp thuận để chủ xe lựa chọn. Việc bán sản phẩm bảo hiểm theo nhiều mức có ý nghĩa đáp ứng mộ cách tốt nhất nhu cầu của chủ xe. Mức trách nhiệm cao hay thấp được thiết kế phụ thuộc vào các yếu tố như: Nhu cầu bảo hiểm và khả năng tài chính của chủ xe; tình hình thực tế tai nạn; loại phương tiện; và có cả khả năng đảm bảo của nhà bảo hiểm. Ðiều lưu ý là hạn mức trách nhiệm trong hợp đồng hoặc trong giấy chứng nhận bảo hiểm có ý nghĩa cho từng vụ tổn thất. Có nghĩa là: thường thời hạn bảo hiểm là một năm thì trong một năm được bảo hiểm, phương tiện có thể gây ra nhiều hơn một vụ tai nạn. Trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm cho người được bảo hiểm được tính cho từng vụ tai nạn là độc lập theo hạn mức trách nhiệm đã ký kết. Ðối với những vụ tổn thất lớn mà giá trị thiệt hại vượt quá mức giới hạn trách nhiệm thì khi đó người được bảo hiểm phải tự gánh chịu phần vượt quá này. Trong cùng mọi điều kiện như nhau, mức trách nhiệm bảo hiểm có ảnh hưởng quyết định tới mức phí bảo hiểm mà người bảo hiểm phải đóng góp. Người được bảo hiểm sẽ đóng một mức phí cao hơn nếu họ được cung cấp một bảo hiểm có hạn mức trách nhiệm cao hơn. 3. Phí bảo hiểm và phương pháp tính phí bảo hiểm Phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm đóng phí BH TBDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo số lượg đầu phương tiện của mình. Mặt khác, các phương tiện khác nhau về chủng loại, về độ lớn có xác suất gây tai nạn khác nhau nên phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện (hoặc nhóm phương tiện). Phí bảo hiểm gồm có hai phần: - Phần phí thuần: phần phí thu được dùng cho bồi thường tai nạn xảy ra. - Phần phụ phí: là khoản phí cần thiết để cơ quan bảo hiểm đảm bảo cho các khoản chi trong hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm (bao gồm: chi hoa hồng; chi quản lý hành chính; chi đề phòng hạn chế tổn thất; chi thuế nhà nước) Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 19 Lớp: Bảo Hiểm 44A Phí bảo hiểm tính cho mỗi đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện (thường tính theo năm) là: P=f+d Trong đó: P – Phí bảo hiểm / đầu phương tiện f – Phí thuần d – Phụ phí (được qui định là tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng phí bảo hiểm). Phần phí thuần (f) được xác định theo công thức: n Trong đó: f   Si.Ti i 1 n  Ci i 1 Si - Số vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bảo hiểm bồi thường trong năm i. Ti - Số tiền bồi thường bình quân 1 vụ tai nạn có phát sinh TNDS trong năm i. Ci - Số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm TNDS trong năm i. n - Số năm thống kê, thường từ 3 – 5 năm, i = (1,n) Như vậy, f thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ n năm cho mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong thời kỳ đó. Đây là cách tính phí bảo hiểm cho các phương tiện thông dụng trên cơ sở quy luật số đông. Đối với các phương tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như xe kéo rơmoóc, xe trở hàng nặng… thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản. Ở Việt Nam hiện nay thường cộng thêm 30% mức phí cơ bản. Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới một năm), thời gian tham gia bảo hiểm được tính tròn tháng và phí bảo hiểm được xác định như sau: Sinh viên:Nguyễn VIệt Hưng 20 Lớp: Bảo Hiểm 44A
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan