BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ MINH NGỌC
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỰC TUYẾN: KINH NGHIỆM
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỰC TUYẾN: KINH NGHIỆM
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : TS. Sỹ Hồng Nam
Học viên
: Lê Thị Minh Ngọc
Lớp
: Cao học Luật - Khóa 32
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ “Giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức
trực tuyến: Kinh nghiệm của một số quốc gia đối với việt nam” là công trình
nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện. Những tài liệu, số liệu được sử dụng
trong luận văn bảo đảm tính khách quan, chính xác. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Lê Thị Minh Ngọc
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AAA
Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ (American
Arbitration Association)
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
HKIAC
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hong Kong
(Hong Kong International Arbitration Centre)
ICC
Phòng Thương mại quốc tế (International
Chamber of Commerce)
ICDR
Trung tâm Giải quyết tranh chấp Quốc tế
(International Centre for Dispute Resolution)
LCIA
Tòa án Trọng tài Quốc tế Luân Đôn (London
Court of International Arbitration)
SCC
Phòng Thương mại Stockholm
Stockholm Chamber of Commerce)
SIAC
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore
(Singapore International Arbitration Centre)
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
UNCITRAL
Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại
quốc tế (United Nations Commission On
International Trade Law)
VADS
Vụ án dân sự
VIAC
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Viên (Vienna
International Arbitral Centre)
(the
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỰC TUYẾN .................................................... 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giải quyết vụ án dân sự bằng phương
thức trực tuyến .................................................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến ........... 10
1.1.2. Đặc điểm giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến ............ 15
1.1.3. Vai trò của giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến.......... 18
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức
trực tuyến........................................................................................................... 19
1.2.1. Sự phát triển của công nghệ.................................................................... 19
1.2.2. Hệ thống pháp luật.................................................................................. 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 29
CHƯƠNG 2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐỐI VỚI VIỆT
NAM TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ BẰNG PHƯƠNG THỨC
TRỰC TUYẾN ...................................................................................................... 30
2.1. Về việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử ..... 31
2.1.1. Cấp, tống đạt các văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử theo pháp
luật tố tụng dân sự Trung Quốc và Việt Nam hiện hành ................................... 31
2.1.2. Kiến nghị cho Việt Nam .......................................................................... 34
2.2. Về việc giao nộp, kiểm tra tài liệu, chứng cứ bằng phương thức trực
tuyến ................................................................................................................... 36
2.2.1. Giao nộp, kiểm tra tài liệu, chứng cứ bằng phương thức trực tuyến theo
pháp luật tố tụng dân sự Trung Quốc và Việt Nam hiện hành .......................... 36
2.2.2. Kiến nghị cho Việt Nam .......................................................................... 42
2.3. Về phiên tòa xét xử sơ thẩm bằng phương thức trực tuyến.................... 43
2.3.1. Tham gia phiên tòa xét xử bằng phương thức trực tuyến từ điểm cầu
thành phần ........................................................................................................ 43
2.3.2. Căn cứ tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm bằng phương thức trực tuyến ..
.......................................................................................................................... 49
2.3.3. Hướng dẫn tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm bằng phương thức trực
tuyến ................................................................................................................. 62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 69
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng Tòa án điện tử hiện nay là xu thế tất yếu trong “thời đại số” để đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và bắt kịp nền tư pháp hiện đại của thế giới, đây cũng là
nỗ lực của hệ thống Tòa án nói chung, Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam nói riêng để
thực hiện cam kết hoàn thành xây dựng Tòa án điện tử đến năm 2025 tại Hội nghị
Chánh án các nước ASEAN1. Trong mô hình tổng thể của Tòa án điện tử, hệ thống tố
tụng điện tử là hệ thống chính của Tòa án điện tử. Từ đó, toàn bộ hoạt động tố tụng
của một vụ án nói chung, vụ án dân sự nói riêng từ khi bắt đầu đến khi kết thúc đều
được thực hiện hoàn toàn trên môi trường điện tử. Như vậy, việc xây dựng và triển
khai giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến là bước đi tất yếu, phù hợp
với xu hướng của thế giới, định hướng của Đảng, Nhà nước và của riêng ngành tư
pháp. Hiện nay, mô hình này đang dần đi vào áp dụng thực tiễn nhờ vào một loạt các
văn bản được ban hành như Nghị quyết số 33/2021/QH15 của Quốc hội ngày
12/11/2021 về tổ chức phiên tòa trực tuyến; Quyết định số 512A/QĐ-TANDTC của
Tòa án nhân dân tối cao ngày 19/11/2021 ban hành kế hoạch triển khai thi hành Nghị
quyết số 33/2021/QH15 về tổ chức phiên tòa trực tuyến; Thông tư liên tịch số
05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BQP-BTP của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp ngày
15/12/2021 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến.
Tuy nhiên, việc giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến hiện nay
vẫn còn đòi hỏi nhiều yêu cầu và đặt ra nhiều thách thức cho các quốc gia đang thử
nghiệm, hướng đến phát triển và áp dụng trong tương lai như một phương thức chính
thức song song với phương thức truyền thống. Ở Việt Nam, hiện đã có một số Tòa án
nhân dân tiến hành phiên tòa trực tuyến như Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức,
Thành phố Hồ Chí Minh2; Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương3; Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Giang4; Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội5… Mặc dù vậy, cho đến nay, vẫn
“Chuyển đổi số và định hướng xây dựng Tòa án điện tử đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, https://
www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-tin?dDocName=TAND176649, ngày 07/8/2021.
2
Quốc Thái, Văn Cường, “Lần đầu tiên xét xử trực tuyến tại TP Hồ Chí Minh”, https://vtv.vn/phap-luat/lan-dau
-tien-xet-xu-truc-tuyen-tai-tp-ho-chi-minh-2022032218563198.htm, ngày 04/4/2022.
3
Tuyết Mai, Đan Thuần, “Tòa án Bình Dương xét xử trực tuyến: Bị cáo ra tòa từ trại tạm giam”, https://tuoitre.
vn/toa-an-binh-duong-xet-xu-truc-tuyen-bi-cao-ra-toa-tu-trai-tam-giam-202203180914273.htm, ngày 04/4/2022.
4
Trường, Yến, “Bắc Giang: Tổ chức thành công phiên tòa mẫu toàn quốc về xét xử trực tuyến án hình sự”,
http://baobacgiang.com.vn/bg/phap-luat/37483/bac-giang-to-chuc-thanh-cong-phien-toa-mau-toan-quoc-vexet-xu-truc-tuyen-an-hinh-su.html, ngày 04/4/2022.
1
2
chưa có vụ án dân sự nào được xét xử trực tuyến. Sự bất cập về mặt pháp lý lớn nhất
ở đây là pháp luật tố tụng dân sự ở nước ta hiện chưa có một khung pháp lý chi tiết và
hoàn chỉnh để điều chỉnh, hướng dẫn cách thức xét xử trực tuyến. Trong khi đó, việc
áp dụng những quy định của hình thức xét xử truyền thống vào xét xử trực tuyến lại
có những độ chênh nhất định như: Nguyên tắc “xét xử trực tiếp, bằng lời nói” theo
Điều 225 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 gây khó khăn cho việc triển khai hình
thức xét xử trực tuyến; khái niệm “có mặt” theo giấy triệu tập của Tòa án theo khoản
16 Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trong trường hợp xét xử trực tuyến sẽ
được hiểu như thế nào để làm căn cứ hoãn phiên tòa; cách thức vận hành phiên tòa
xét xử trực tuyến như thế nào… Bên cạnh đó, những quy định hiện hành điều chỉnh
các hoạt động tố tụng trước khi mở phiên tòa như cấp, tống đạt các văn bản tố tụng;
giao nộp, kiểm tra tài liệu, chứng cứ trong trường hợp được thực hiện bằng phương
thức trực tuyến cũng không thật sự hoàn thiện, ảnh hưởng đến tiến trình tiến hành tố
tụng và mức độ chính xác, khách quan trong giải quyết vụ án. Trong khi đó, ở một số
quốc gia trên thế giới hiện nay đã xây dựng được các điều luật, thậm chí là văn bản
hướng dẫn hay luật để điều chỉnh riêng cho thủ tục tố tụng trực tuyến. Mặc dù vậy,
nước ta vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính tổng hợp, chắt lọc
những nguồn pháp luật đó để so sánh và học hỏi kinh nghiệm nhằm đề xuất những
giải pháp cho việc áp dụng giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến tại
Việt Nam. Trước thực trạng này, bản thân tác giả muốn nghiên cứu rõ hơn về những
vấn đề lý luận cơ bản của hình thức giải quyết vụ án dân sự trực tuyến cũng như
những quy định pháp luật tố tụng dân sự của một số quốc gia trên thế giới về phương
thức này, từ đó đưa ra một số kiến nghị cụ thể, phần nào giải quyết được những bất
cập đã nêu, đóng góp vào việc hoàn thiện hơn nữa pháp luật tố tụng dân sự trong điều
kiện tình hình mới hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý ở nước ta từ trước đến nay, chế định giải quyết vụ án
dân sự bằng phương thức trực tuyến vẫn còn là một vấn đề tương đối mới, dường
như chưa có công trình nghiên cứu trong nước có tính hệ thống về vấn đề này.
Dưới hình thức giáo trình, sách chuyên khảo, có các công trình nghiên
cứu sau:
Song Minh, “Lần đầu tiên xét xử trực tuyến”, https://vkscapcaohcm.gov.vn/tin-tuc/lan-dau-tien-xet-xu-tructuyen-4537.html, ngày 04/4/2022.
5
3
Trường Đại học Kinh tế - Luật (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự,
Nguyễn Thị Hồng Nhung, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Trường
Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nguyễn
Công Bình, Nxb. Công an nhân dân; Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
(2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nguyễn Thị Hoài Phương, Nxb.
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam chỉ nghiên cứu khái quát về các nội dung liên
quan đến tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và
những văn bản pháp luật liên quan, chưa đề cập đến việc giải quyết vụ án dân sự
bằng phương thức trực tuyến do nội dung này chỉ mới được pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam điều chỉnh gần đây.
Richard Susskind (2019), Online Court and the Future of Justice, Nxb. Đại
học Oxford chỉ ra những hạn chế của hệ thống Tòa án nói chung hiện nay, từ đó tác
giả đã tư duy lại về luật trong thời đại kỹ thuật số, những thách thức mà hệ thống
pháp luật phải đối mặt và tiềm năng công nghệ mang lại nhiều thay đổi cần thiết.
Tác giả đặt ra những vấn đề xoay quanh mô hình tòa án trực tuyến bằng cách đưa ra
các án lệ và thuyết phục cho một tương lai cung cấp công lý trực tuyến.
Dưới hình thức bài báo khoa học, bài viết chuyên ngành, có thể kể đến các
bài viết như:
Về phân tích mô hình Tòa án điện tử nói chung và việc xây dựng, thiết kế hệ
thống nền tảng cho hoạt động tố tụng trực tuyến:
Giampiero Lupo và Jane Bailey (2014), “Designing and Implementing eJustice Systems: Some Lessons Learned from EU and Canadian Examples”, Tạp chí
Laws, số 3(2), tr. 353-387 sử dụng sáu ví dụ về hệ thống tư pháp điện tử (của Châu
Âu và Canada) để minh họa và xây dựng chi tiết về các nguyên tắc thiết kế hệ thống
tư pháp điện tử và quản lý thiết kế nhằm làm rõ cách các nguyên tắc này tác động
đến việc cải thiện khả năng tiếp cận công lý của hệ thống.
Mireille Hildebrandt (2008), “Legal and Technological Normativity: More
(and Less) than Twin Sisters”, Tạp chí Techné, số 12, tr. 169-183 chỉ ra những tác
động quy chuẩn của công nghệ trong sự so sánh với tác động quy chuẩn của các quy
phạm pháp luật, đưa ra lập luận chứng minh cần có một khái niệm chung về tính
chuẩn mực trong thiết kế luật hay công nghệ mà không phụ thuộc vào ý chí của bất
kỳ ai. Bài viết còn phát triển ý tưởng luật hiện đại cần phải sắp xếp lại những
nguyên lý cơ bản lồng vào công nghệ để duy trì nhà nước pháp quyền.
4
Tian Lu, “The implementation of blockchain technologies in chinese courts”,
https://stanford-jblp.pubpub.org/pub/blockchain-in-chinese-courts/release/1 tập trung
vào cách các công nghệ blockchain được triển khai trong hệ thống tư pháp Trung
Quốc, cho thấy cách các công nghệ blockchain đang hoạt động như một phần bổ sung
hữu ích trong hệ thống pháp luật hiện tại của quốc gia này.
Về phân tích trực tiếp vào việc giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức
trực tuyến (giải quyết tranh chấp tại Tòa án):
Đỗ Đức Hồng Hà và Lê Quang Hậu, “Xét xử trực tuyến – giải pháp quan
trọng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về công tác xét xử trong đại dịch toàn cầu Covid-19”, http://hdll.vn/vi/nghiencuu---trao-doi/xet-xu-truc-tuyen---giai-phap-quan-trong-thuc-hien-chu-truongduong-loi-cua-dang-chinh-sach-phap-luat-cua-nha-nuoc-ve-cong-tac-xet-xu-trongdai-dich-toan-cau-covid-19.html. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận về xét xử
nói chung và xét xử trực tuyến nói riêng; đưa ra một số lập luận chứng minh cho
nhận định xét xử trực tuyến là giải pháp quan trọng thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác xét xử trong
đại dịch toàn cầu COVID-19; đồng thời nêu lên một số yêu cầu cần đảm bảo đối với
xét xử trực tuyến.
Hồ Vinh Phú, “Giải quyết vụ án, vụ việc bằng phương thức trực tuyến trong giai
đoạn dịch COVID-19”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/giai-quyet-vu-an-vuviec-bang-phuong-thuc-truc-tuyen-trong-giai-doan-dich-covid-19 tập trung nghiên cứu
về việc giải quyết vụ việc bằng phương thức trực tuyến trong giai đoạn dịch COVID19 theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tố tụng
hành chính, nêu lên một số điểm mạnh, phân tích rõ những hạn chế của phương thức
này và đề xuất một số giải pháp.
Bên cạnh đó, nhiều tác giả đã khai thác, nghiên cứu việc áp dụng phương thức
giải quyết vụ án dân sự trực tuyến ở các quốc gia trên thế giới dưới sự tác động mạnh
mẽ của dịch COVID-19 như Michael Legg và Anthony Song (2021), “The courts, the
remote hearing and the pandemic: from action to reflection”, Tạp chí UNSW Law
Journal, tập 44(1), tr. 126-166; Uzair Ahmad Khan, “What happens as courts and
tribunals go online – opportunities and challenges”, https://blog.ipleaders. in/courtstribunals-online-opportunities-challenges/...
5
Về phân tích chứng cứ điện tử:
Nguyễn Hải An (2019), “Chứng cứ và chứng cứ điện tử theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 4, tr. 38-53. Bài viết nghiên cứu nguồn chứng cứ vật chất và chứng cứ điện tử
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự cùng với thực tiễn xác định nguồn chứng
cứ cũng như đánh giá chứng cứ.
Đỗ Thị Phượng (2019), “Bàn về khái niệm chứng cứ điện tử, dữ liệu điện tử
và phương tiện điện tử trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 19, tr. 28-34 nêu
các khái niệm về chứng cứ điện tử, dữ liệu điện tử và phương tiện điện tử trong tố
tụng hình sự để nêu bật sự khác nhau giữa các khái niệm này.
Võ Minh Tuấn, “Khó khăn, vướng mắc về dữ liệu điện tử trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/kho-khan-vuong-macve-du-lieu-dien-tu-trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam-2015 phân tích những quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự về dữ liệu điện tử, phân tích những khó khăn trong quá
trình thực hiện và từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Ngoài ra, có các bài viết trong nước và quốc tế phân tích về cơ chế giải quyết
tranh chấp trực tuyến khác như Đoàn Quỳnh Thương (2014), “Một số hình thức giải
quyết tranh chấp trực tuyến về giao dịch điện tử tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt
Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13, tr. 28-32; AndraLeigh Nenstiel (2006),
“Online Dispute Resolution: A Canada-United States Initiative”, Tạp chí Canada –
United States Law Journal, số 32(1), tr. 313-329; Esther van den Heuvel, “Online
dispute resolution as a solution to cross-border e-disputes: an introduction to ODR”,
www.oecd.org/internet/consumer/1878940.pdf; Maxi Scherer (2020), “Remote
hearings in International Arbitration: An analytical framework”, Tạp chí Journal of
International Arbitration, tập 37, số 4, tr. 407-430… Nhìn chung, các bài viết này
mặc dù có nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp bằng phương thức trực tuyến
nhưng không bao quát cho tất cả các tranh chấp dân sự nói chung mà đa phần tập
trung vào các tranh chấp thương mại điện tử và các cơ chế được khai thác chủ yếu là
những biện pháp giải quyết thay thế, ngoài Tòa án nên mức độ có thể tham khảo, kế
thừa vẫn có nhưng hạn chế.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục tiêu:
6
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về giải quyết trực tuyến vụ án dân
sự như khái niệm, đặc điểm, vai trò của giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức
trực tuyến; phân tích những yếu tố chính ảnh hưởng đến giải quyết vụ án dân sự
bằng phương thức trực tuyến trong sự so sánh với thực tiễn của một số quốc gia và
Việt Nam.
Hai là, chỉ ra những quy định của pháp luật một số quốc gia cũng như những
quan điểm trái chiều, những bất cập trong áp dụng thực tế giải quyết vụ án dân sự
bằng phương thức trực tuyến, đồng thời so sánh với thực tế những tiềm lực mà Việt
Nam đang có cả về hệ thống pháp luật và cơ sở vật chất, kỹ thuật, từ đó cố gắng đưa
ra một số kiến nghị cụ thể để góp phần hoàn thiện chế định này trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, Luận văn phải hoàn thành một số
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu, phân tích các quy định pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật
tố tụng dân sự liên quan đến giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến;
- Phân tích pháp luật, đánh giá các quan điểm, thực tiễn áp dụng của một số
quốc gia trong việc giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến, chỉ ra một
số bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị cụ thể
là bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên để phần nào khắc phục hạn chế, góp
phần hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự về mô hình này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn chủ yếu tập trung vào các quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Hướng dẫn gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ
và đăng ký nhận văn bản, thông báo tố tụng bằng phương thức trực tuyến của Tòa
án nhân dân tối cao và các văn bản pháp luật liên quan đến giải quyết vụ án dân sự
bằng phương thức trực tuyến; các quy định pháp luật, hướng dẫn giải quyết vụ án
dân sự bằng phương thức trực tuyến của một số quốc gia trên thế giới.
Trên cơ sở những quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên cùng với
việc kế thừa một số kết quả của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước,
Luận văn dự kiến tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề sau:
7
Thứ nhất, Luận văn nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận của giải
quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến.
Thứ hai, Luận văn tập trung làm rõ các quy định của pháp luật, hướng dẫn
thực hành giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến của một số quốc gia
trên thế giới về những vấn đề mang tính cơ bản nhất tương ứng với quá trình tố tụng
của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực
tuyến là một vấn đề pháp lý rộng và phức tạp bao gồm nhiều thủ tục từ giai đoạn
tiếp nhận đơn khởi kiện cho đến khi quyết định, bản án được ban hành; trong đó,
riêng về xét xử còn có xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Do đó, trong khuôn khổ Luận
văn này, tác giả chỉ tập trung chủ yếu vào phiên tòa sơ thẩm và một số thủ tục để
xét xử trực tuyến cụ thể. Tác giả sẽ không khai thác tất cả những nhiệm vụ, quyền
hạn của Tòa án trong giai đoạn này mà chỉ đặc biệt nghiên cứu sâu vào phiên tòa
xét xử trực tuyến và sơ lược một số nội dung nổi bật, có tính chất đặc thù là tiền đề
cho phiên tòa như việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng, việc người khởi
kiện, người tham gia tố tụng giao nộp tài liệu, chứng cứ (phân tích khái quát chủ
yếu các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử) và xác minh các
loại tài liệu, chứng cứ đó.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận, thực trạng pháp
luật cũng như thực tiễn áp dụng của một số quốc gia và tại Việt Nam về việc giải
quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến, một số nội dung bước đầu được áp
dụng thí điểm tại Việt Nam, Luận văn sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm và đề
xuất giải pháp để giải quyết những bất cập còn tồn tại trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dự kiến nghiên cứu các vấn đề về giải quyết vụ án dân sự bằng
phương thức trực tuyến trong phạm vi đã nêu bằng một số phương pháp sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích, bình luận dự kiến được sử dụng để phân
tích làm rõ nội hàm khái niệm giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến
(mục 1.1.1), các đặc điểm của giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến
để làm nổi bật tính đặc trưng của mô hình này (mục 1.1.2), vai trò của giải quyết vụ
án dân sự bằng phương thức trực tuyến (mục 1.1.3), phân tích làm rõ nội dung
những quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về một số nội dung liên
8
quan đến giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến và khả năng có thể
lấy kinh nghiệm cho Việt Nam học hỏi hay không (Chương 2).
Thứ hai, phương pháp so sánh dự kiến chủ yếu được sử dụng tại mục 1.1.2 để
làm nổi bật những đặc điểm mang tính đặc trưng của giải quyết vụ án dân sự bằng
phương thức trực tuyến so với phương thức truyền thống; tại mục 1.2 để cho thấy vị
trí của Việt Nam trên con đường xây dựng Tòa án điện tử nói chung, giải quyết vụ
án dân sự bằng phương thức trực tuyến nói riêng theo xu thế chung của thế giới; tại
Chương 2 để so sánh quy định của các quốc gia về cùng một vấn đề trong giải quyết
vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến có sự khác nhau như thế nào và khả năng
học hỏi, kế thừa những quy định đó trong bối cảnh của Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp tổng hợp dự kiến được sử dụng để đưa ra kết luận về hệ
thống các đặc điểm (mục 1.1.2), các yếu tố ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án dân
sự bằng phương thức trực tuyến (mục 1.2) và các quy định pháp luật, hướng dẫn
thực hành của các quốc gia trên thế giới về một số vấn đề của việc giải quyết vụ án
dân sự bằng phương thức trực tuyến (Chương 2), đồng thời phương pháp này còn
được dùng để tổng hợp những kết quả nghiên cứu của từng chương và của toàn
Luận văn để đưa ra cái nhìn tóm tắt, khái quát về đề tài nghiên cứu.
Hệ thống các phương pháp nghiên cứu nêu trên trong Luận văn dự kiến được
sử dụng linh hoạt, có sự kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu tùy theo từng nội
dung nghiên cứu, từng vấn đề nghiên cứu và từng phần nghiên cứu được triển khai
trên thực tế; do đó, các phương pháp nghiên cứu được đồng thời sử dụng, có sự kết
hợp chứ không áp dụng vào Luận văn một cách rời rạc, tách biệt.
6. Dự kiến điểm mới của đề tài
Thứ nhất, Luận văn đưa ra khái niệm, những đặc trưng và vai trò của giải
quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến.
Thứ hai, Luận văn hệ thống được những yếu tố chính ảnh hưởng đến phương
thức giải quyết trực tuyến vụ án dân sự.
Thứ ba, Luận văn nghiên cứu các quan điểm lý luận, quy định pháp luật cũng
như kinh nghiệm áp dụng thực tiễn của một số quốc gia như: Trung Quốc, Hoa Kỳ,
Úc, Hội đồng châu Âu… đối với việc giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức
trực tuyến (tập trung vào các nội dung gồm cấp, tống đạt văn bản tố tụng; người
khởi kiện, người tham gia tố tụng giao nộp tài liệu, chứng cứ và việc Tòa án kiểm
9
tra các tài liệu, chứng cứ đó; tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm), và đưa ra những
kiến nghị phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam để hoàn
thiện chế định này.
7. Kết cấu của Luận văn
Cơ cấu đề tài Luận văn gồm: Phần mở đầu, Phần nội dung, Kết luận. Trong
đó, Phần nội dung gồm có 02 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về giải quyết vụ án dân sự bằng phương
thức trực tuyến.
Chương 2. Kinh nghiệm của một số quốc gia đối với Việt Nam trong giải
quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến.
10
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỰC TUYẾN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giải quyết vụ án dân sự bằng
phương thức trực tuyến
1.1.1. Khái niệm giải quyết vụ án dân sự bằng phương thức trực tuyến
Giải quyết vụ án dân sự (“VADS”) bằng phương thức trực tuyến hiện nay
vẫn còn là một khái niệm mới trong nghiên cứu khoa học pháp lý Việt Nam. Chính
vì vậy, khái niệm này cần được tiếp cận theo hướng phân tích từng thành phần bên
trong để làm sáng tỏ nội hàm của nó.
Về “vụ án dân sự”, thuật ngữ “vụ án” lần đầu tiên được chính thức sử dụng
trong các văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ sở Hiến pháp 1959 và Điều 1 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân 1960 “Tòa án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và dân
sự…”6. Trong giai đoạn từ năm 1960 đến trước năm 1989, thuật ngữ “việc kiện dân
sự”, “tranh chấp dân sự”, “vụ án dân sự” được sử dụng đồng thời với ý nghĩa chỉ
những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án nhân dân
(“TAND”). Khi Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 của Hội đồng Nhà nước ngày
07/12/1989 về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ban hành, thuật ngữ “vụ án dân
sự” mới được sử dụng thống nhất, dùng để chỉ những tranh chấp hay yêu cầu liên
quan đến tài sản, nhân thân trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình và lao động
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 10). Tuy nhiên, nội hàm này sau đó
đã bị thu hẹp đáng kể khi Pháp lệnh số 31-L/CTN của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành ngày 29/3/1994 về Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh số
48-L/CTN của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành ngày 11/4/1996 về thủ
tục giải quyết các tranh chấp lao động đã loại trừ những tranh chấp kinh tế và lao
động ra khỏi cách hiểu nêu trên. Sau này, khi Bộ luật Tố tụng dân sự (“BLTTDS”)
năm 2004 ra đời và BLTTDS năm 2015 kế thừa cho đến nay, VADS đã được định
Những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án trước năm 1945 gồm hai loại: Việc hình và việc hộ.
Trong đó, việc hộ được hiểu là “các việc về dân sự và thương sự” (theo Điều 3, Điều 17 Sắc lệnh số 13-SL
của Chủ tịch nước ngày 24/01/1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch thẩm phán). Điều 9 Sắc lệnh số 85SL của Chủ tịch nước ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy Tư pháp và Luật Tố tụng sử dụng thuật ngữ “việc
kiện dân sự”, cũng có thể được gọi là “vụ kiện dân sự”, để chỉ những tranh chấp dân sự có yêu cầu được Tòa
án giải quyết (“việc” và “vụ” trong trường hợp này là tương đồng).
Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật Tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng,
Nxb. Tư pháp, tr. 154.
6
11
nghĩa lại với nội hàm đầy đủ. Theo đó, tại Điều 1 BLTTDS năm 2004 và Điều 1
BLTTDS năm 2015 đều có nội dung: “Bộ luật tố tụng dân sự quy định… trình tự,
thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự)”.
Quy định này không chỉ liệt kê các loại VADS thuộc thẩm quyền của TAND mà
còn cho thấy rõ các đặc trưng quan trọng của VADS: (i) Có sự tranh chấp hay sự
bất đồng, xung đột, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia
vào quan hệ pháp luật7; (ii) Có hành vi khởi kiện ra Tòa án nhằm yêu cầu giải quyết
tranh chấp; (iii) TAND có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện để chấp nhận giải quyết.
Như vậy, mặc dù BLTTDS không trực tiếp đưa ra định nghĩa cụ thể cho thuật ngữ
VADS nhưng có thể hiểu một cách ngắn gọn thông qua quy định trên như sau:
VADS là các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng
(gồm dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) được cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết và đã được
Tòa án thụ lý.
Về “giải quyết VADS”, thuật ngữ “giải quyết” trong tố tụng nói chung và
“giải quyết VADS” nói riêng không có định nghĩa pháp lý cụ thể mặc dù được sử
dụng phổ biến. Nguyên nhân có thể do các công trình nghiên cứu khoa học hiện nay
thường tập trung vào khai thác các vấn đề cụ thể, chuyên sâu trong trình tự, thủ tục
tố tụng dân sự nên không đưa ra nội hàm cho khái niệm này vì nó mang tính bao
quát, chung chung. “Giải quyết” theo nghĩa thông thường được hiểu là “làm cho đạt
được kết quả, không còn là khó khăn, trở ngại nữa”8. Như đã phân tích ở trên,
VADS là những tranh chấp về quyền, lợi ích giữa các đương sự trong lĩnh vực dân
sự (hiểu theo nghĩa rộng) mà các bên vì không thể tự mình giàn xếp, hòa giải đã
khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ bằng một quyết định hay bản án, được Tòa án thụ lý. Do đó, dựa
vào những lập luận này, cùng với việc căn cứ vào nội dung quy định tại Phần thứ
hai, Phần thứ ba và Phần thứ tư của BLTTDS, giải quyết ở đây có thể hiểu là Tòa án
bằng việc thực hiện các trình tự, thủ tục luật định về tố tụng dân sự để giúp các bên
đương sự đạt được mong muốn chấm dứt tranh chấp, quyền và lợi ích hợp pháp của
họ được bảo đảm.
Nguyễn Văn Tiến và Bành Quốc Tuấn (2011), Thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp dân sự có yếu tố
nước ngoài và việc bảo vệ quyền dân sự tại cơ quan tư pháp Việt Nam, Nxb. Lao động, tr. 7.
8
Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 503.
7
12
Tóm lại, giải quyết VADS là tổng hợp các hành vi tố tụng của Tòa án, đương
sự và các chủ thể khác theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng dân sự quy định,
gồm hai giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm (nếu có kháng cáo, kháng nghị), từ nộp
đơn khởi kiện cho đến khi Tòa án ban hành quyết định hoặc bản án, làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự trong tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động. Do đó, việc giải quyết VADS phải được thực hiện theo
những quy định mang tính bắt buộc do cơ quan nhà nước ban hành, đảm bảo tính
công khai, ổn định và gắn liền với yếu tố trình tự, thời gian.
Trong giải quyết VADS, xét xử đóng vai trò hạt nhân quan trọng. Bởi lẽ, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đến năm
2020 đã xác định trong hệ thống các cơ quan tư pháp, “Toà án có vị trí trung tâm và
xét xử là hoạt động trọng tâm”. Vai trò và vị trí trung tâm của thủ tục xét xử được giải
thích trước hết bởi tính pháp lý cao so với các phương thức khác dùng để giải quyết
tranh chấp, mâu thuẫn lợi ích: Đây là thủ tục công khai, dễ hiểu, dân chủ9. Toàn bộ
những yếu tố như sự độc lập của người xét xử; thủ tục được quy định công khai, được
bảo đảm để các bên phản ánh hết ý kiến của mình với Tòa án một cách trực tiếp, được
tiến hành dưới sự giám sát của Viện kiểm sát, của các luật sư, của nhân dân… đã làm
cho Tòa án và thủ tục xét xử là một giá trị không gì có thể thay thế được10. Tùy vào
tranh chấp, mâu thuẫn lợi ích phát sinh giữa từ hai chủ thể trở lên thuộc lĩnh vực nào
mà thủ tục xét xử mang những đặc thù, nguyên tắc, mục đích nhất định. Riêng đối với
tố tụng dân sự, thủ tục xét xử là hoạt động Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước xem
xét, đánh giá và ra phán quyết nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của đương
sự trong tranh chấp dân sự (nghĩa rộng). Và tùy thuộc vào tính chất của thủ tục xét xử
vụ án mà việc xét xử của Tòa án diễn ra ở các cấp xét xử khác nhau (sơ thẩm hoặc
phúc thẩm) cũng có những đặc thù mang tính chất pháp lý khác nhau.
Về “phương thức trực tuyến”, thuật ngữ này hiện nay bắt đầu được sử dụng
tương đối phổ biến, nhưng chủ yếu với ý nghĩa bổ sung cho thuật ngữ “xét xử” hoặc
Đỗ Đức Hồng Hà và Lê Quang Hậu, “Xét xử trực tuyến – giải pháp quan trọng thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác xét xử trong đại dịch toàn cầu Covid-19”,
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/xet-xu-truc-tuyen---giai-phap-quan-trong-thuc-hien-chu-truongduong-loi-cua-dang-chinh-sach-phap-luat-cua-nha-nuoc-ve-cong-tac-xet-xu-trong-dai-dich-toan-cau-covid19.html, ngày 01/10/2021.
10
Đào Trí Úc và Nguyễn Thu Trang, “Vai trò của hoạt động xét xử của tòa án trong quá trình phát triển hệ
thống pháp luật Việt Nam”, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208193, ngày 01/10/2021.
9
13
“phiên tòa/phiên điều trần”. Tuy nhiên, cách hiểu của “trực tuyến” trong “xét xử trực
tuyến” hay “phiên tòa trực tuyến” có độ chênh nhất định so với nội hàm cụm từ này
trong “giải quyết VADS bằng phương thức trực tuyến”, cần được phân biệt làm rõ.
Phiên tòa trực tuyến được khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 33/2021/QH15 của
Quốc Hội ngày 12/11/2021 về tổ chức phiên tòa trực tuyến (“Nghị quyết số
33/2021/QH15”) định nghĩa là “phiên tòa được tổ chức tại phòng xử án, có sử dụng
các thiết bị điện tử kết nối với nhau thông qua môi trường mạng, cho phép bị cáo,
bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa tại địa điểm ngoài
phòng xử án do Tòa án quyết định nhưng vẫn bảo đảm trực tiếp theo dõi đầy đủ
hình ảnh, âm thanh và tham gia các trình tự, thủ tục tố tụng của phiên tòa bằng lời
nói, hành vi tố tụng liên tục, công khai, vào cùng một thời điểm.” Định nghĩa này
tương thích với cách hiểu về thuật ngữ “phiên điều trần trực tuyến” hay “phiên tòa
trực tuyến” theo quan điểm quốc tế11. Trong đó, thuật ngữ “trực tuyến” theo quan
điểm của tác giả là sự lựa chọn hợp lý nhất so với nhiều thuật ngữ khác như “ảo”
(virtual)12 hay “từ xa” (remote)13 (vốn vẫn được sử dụng ở nhiều tài liệu hiện nay),
bởi nó lột tả được cả phương tiện tiến hành lẫn tính chất đặc trưng của mô hình.
“Phiên điều trần trực tuyến” được dùng để mô tả các phiên tòa, phiên điều trần được tiến hành với sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin nhằm kết nối tương tác đồng thời của các chủ thể tố tụng từ các địa điểm khác
nhau (theo Michael Legg và Anthony Song (2021), “The courts, the remote hearing and the pandemic: from
action to reflection”, Tạp chí UNSW Law Journal, tập 44(1), tr. 126). Theo khoản 1 Điều 2 của Quy tắc xử lý
nghiệp vụ xét xử trực tuyến số 1753 của Hàn Quốc có hiệu lực từ ngày 22/7/2020, “xét xử trực tuyến là việc
tiến hành xét xử mà một phần hoặc toàn bộ các bên liên quan trong vụ án không trực tiếp đến phòng xét xử
mà tham gia phiên tòa tại địa điểm từ xa được trang bị thiết bị truyền dẫn đồng thời tín hiệu hình ảnh và âm
thanh cùng lúc” (Báo cáo số 44/BC-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 02/10/2021 tổng quan về
kinh nghiệm xét xử trực tuyến của một số quốc gia trên thế giới).
12
Thuật ngữ “ảo” mặc dù có thể mô tả được phần nào phương tiện, phương thức tiến hành nhưng nó lại
mang nhiều nghĩa khác nhau, dễ gây hiểu lầm khi sử dụng. Trong khoa học máy tính, “ảo” được hiểu là
“không có mặt vật lý mà hiện diện thông qua phần mềm theo quan điểm của một chương trình hoặc người
dùng” (theo Oxford English Dictionary, www.oed.com/view/Entry/223829?redirectedFrom=virtual#eibid,
ngày 23/6/2021). Theo thuật ngữ chung, nó thường được hiểu là không thực sự tồn tại hoặc không tồn tại
trong thực tế, chẳng hạn như cảnh quan ảo trong một trò chơi máy tính. Trong một số tài liệu tham khảo về
“thẩm phán ảo”, cụm từ này được dùng để chỉ những người ra quyết định vốn dĩ phải là con người nhưng nay
có thể được thay thế hoặc hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo, điển hình như các Tòa án Internet của Trung Quốc. Bên
cạnh đó, cũng có các phiên tòa/phiên điều trần nơi mà người tiến hành xét xử và những người tham gia tố
tụng đều thực sự tồn tại, tương tác với nhau bằng cách sử dụng các công nghệ truyền thông để giải quyết
VADS, thuật ngữ “ảo” lúc này được dùng để chỉ không gian xét xử không phải là một phòng xử án vật lý hay
một địa điểm chính để xét xử tồn tại trên thực tế mà được xây dựng và tiến hành bằng công nghệ.
13
Thuật ngữ “từ xa” chỉ mô tả được đặc trưng về khoảng cách các địa điểm diễn ra phiên xét xử giữa các chủ
thể tiến hành và chủ thể tham gia tố tụng. Theo nghĩa chung nhất, một phiên tòa/phiên điều trần được gọi là
từ xa khi nó được tiến hành mà có ít nhất một chủ thể tố tụng tham gia từ bên ngoài phòng xử án thực tế, bao
gồm ba phương thức: (i) bằng âm thanh (được thực hiện thông qua điện thoại hoặc bằng hệ thống chỉ có âm
thanh); (ii) bằng video (tiến hành dựa trên phần mềm hội nghị truyền hình); hoặc (iii) bằng giấy (sử dụng các
bản đệ trình và bằng chứng) (theo Michael Legg và Anthony Song (2021), “The courts, the remote hearing
and the pandemic: from action to reflection”, Tạp chí UNSW Law Journal, tập 44(1), tr. 128).
11
14
Ngoài ra, cần lưu ý rằng khái niệm “phiên tòa trực tuyến” đôi khi cũng được tìm
kiếm trong sự tham chiếu với nhiều thuật ngữ tương tự, dễ gây nhầm lẫn vì sự trùng
lặp về từ ngữ mà điển hình là khái niệm “giải quyết tranh chấp trực tuyến”14 (gọi tắt
là ODR) và “tòa án trực tuyến”15. Điểm chung nhất của tòa án trực tuyến và ODR là
việc xác định và giải quyết các vụ việc bên ngoài phòng xử án bằng công nghệ máy
tính, đồng nghĩa với việc không có cuộc điều trần hay phiên tòa nào được tiến hành
(theo nghĩa một cuộc trao đổi đồng bộ và tức thời các lập luận và/hoặc chứng cứ)
mà được thay thế bằng các hình thức tương tác không đồng bộ. Vì vậy, cách hiểu
“trực tuyến” ở đây hoàn toàn khác với nội hàm trong “phiên tòa trực tuyến” đang
được bàn tới, khi tính đồng thời, đồng bộ, “trực tiếp theo dõi đầy đủ hình ảnh, âm
thanh… liên tục, công khai, vào cùng một thời điểm” là điểm mấu chốt để việc tiến
hành xét xử bằng phương thức này vẫn đảm bảo được những nguyên tắc cơ bản của
tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, như đã phân tích, giải quyết VADS là tổng hợp các hành vi tố tụng
của Tòa án, đương sự và các chủ thể khác theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng
dân sự quy định để có được kết quả cuối cùng có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các bên đương sự bằng quyết định hoặc bản án do Tòa án ban hành. Tập hợp này
gồm rất nhiều hoạt động như thụ lý đơn khởi kiện; cấp, tống đạt, thông báo văn bản
tố tụng; tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải;… xét xử cũng chỉ là một trong số đó. Và không phải hoạt động tố tụng nào
kể trên cũng yêu cầu tính “đồng thời” trong quá trình tiến hành giữa các chủ thể tham
Theo các chuyên gia pháp lý, “giải quyết tranh chấp trực tuyến” (Online-Dispute Resolution) là một thuật
ngữ ghép (collective terms) giữa trực tuyến (online) và giải quyết tranh tranh chấp thay thế (ADR) (theo
Esther van den Heuvel, “Online Dispute Resolution as a Solution to Cross-border E-disputes: An
Introduction to ODR”, www.oecd.org/internet/consumer/1878940.pdf, ngày 16/4/2021). Nó được hiểu như là
việc sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế với sự hỗ trợ của công nghệ Internet (mạng trực
tuyến) (theo AndraLeigh Nenstiel (2006), “Online Dispute Resolution: A Canada-United States Initiative”,
Tạp chí Canada – United States Law Journal, số 2006.32(1), tr. 313). Với đặc điểm này, ODR bao gồm một
loạt các quy trình giải quyết tranh chấp thay thế được thực hiện qua cơ chế trực tuyến như Internet hoặc một
số hình thức công nghệ cho phép thực hiện các kết nối thông tin trên mạng mà không đòi hỏi các bên phải
liên hệ trực tiếp trong một không gian vật chất nhất định (theo Phan Thị Thanh Thủy (2016), “Giải quyết
tranh chấp thương mại trực tuyến: Những vấn đề pháp lý đặt ra cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 4(2016),
tr. 39) và không yêu cầu tính đồng bộ (theo Michael Legg và Anthony Song (2021), “The courts, the remote
hearing and the pandemic: from action to reflection”, Tạp chí UNSW Law Journal, tập 44(1), tr. 128). Như
vậy, ODR là một thủ tục giải quyết tranh chấp có ứng dụng các công nghệ thông tin để tiến hành trực tuyến
nhưng không thông qua Tòa án.
15
“Tòa án trực tuyến” (online court) được dùng để chỉ trường hợp “những người tham gia không cần có mặt
cùng một lúc để giải quyết vụ việc” và “cũng như email, tin nhắn văn bản không yêu cầu những người có liên
quan phải truy cập đồng thời, những lập luận, bằng chứng hay quyết định cũng có thể gửi đi mà không cần
người gửi và người nhận phải có mặt cùng lúc về mặt vật lý hay thông qua công nghệ” (theo Richard
Susskind (2019), Online Courts and the Future of Justice, Nxb. Oxford University Press, tr. 60).
14
- Xem thêm -