Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính...

Tài liệu Luận văn đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính

.PDF
113
1
110

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH -----------***------------ TRẦN QUỐC VĂN MSSV: 1753801014229 ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Niên khóa: 2017 - 2021 Người hướng dẫn: ThS. LÊ THỊ MƠ TP.HCM – Năm 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Lê Thị Mơ. Các số liệu, kết quả nghiên cứu sử dụng trong khóa luận là trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Nếu có sự gian dối, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Tác giả Trần Quốc Văn MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN PHỤ LỤC CÁC DANH MỤC, BIỂU ĐỒ, BẢNG PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ............................................................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính .......................................................................................................................6 1.1.1. Khái niệm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ...........................6 1.1.2. Đặc điểm của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính .....................8 1.1.3. Ý nghĩa của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ......................11 1.2. Quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính trong pháp luật tố tụng hành chính ở một số quốc gia ........................................................13 1.2.1. Quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính trong Pháp luật Cộng hòa Pháp ..................................................................................................13 1.2.2. Quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính trong Pháp luật Liên Bang Nga...................................................................................................15 1.2.3. Quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính trong Pháp luật Ba Lan ...............................................................................................................18 1.3. Quy định pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính .....20 1.3.1. Căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ..............................20 1.3.2. Thẩm quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ......................31 1.3.3. Trình tự, thủ tục đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ...............33 1.3.4. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính 34 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................38 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN...............................39 2.1. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính .................................................................................................39 2.2. Một số bất cập trong quy định pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính .................................................................................................48 2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính .....................................................................................................................57 2.3.1. Về mặt pháp lý .........................................................................................57 2.3.2. Về mặt thực tiễn ......................................................................................65 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................68 KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................69 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC, BIỂU ĐỒ, BẢNG 1. DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC Phụ lục 1: Kết quả phỏng vấn chuyên gia Phụ lục 2: Mẫu quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 40-HC dành cho Thẩm phán và mẫu số 41-HC dành cho Hội đồng xét xử Phụ lục 3: Những trường hợp người kháng cáo vắng mặt không được Tòa án nhận định là bất khả kháng, trở ngại khách quan Phụ lục 4: Hiệu lực quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm Phụ lục 5: Đơn xin rút kháng cáo, biên bản giao nhận tiền Phụ lục 6: Một số bản án, quyết định trích dẫn trong đề tài 2. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, BẢNG Biểu đồ 1: Kết quả chung về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính Biểu đồ 2: Kết quả đình chỉ xét xử phúc thẩm trong trường hợp rút kháng cáo, kháng nghị Biểu đồ 3: Đình chỉ xét xử phúc thẩm trong trường hợp người kháng cáo vắng mặt Biểu đồ 4: Số lượng bản án, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm các năm 2018, 2019, 2020 Bảng 1: Kết quả công tác kiểm sát việc thụ lý và giải quyết vụ án hành chính phúc thẩm giai đoạn 2016-2019 của toàn ngành Kiểm sát 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính là một quyết định cần thiết và quan trọng để xử lý các tình huống, sự kiện phát sinh trong giai đoạn giải quyết phúc thẩm. Quyết định này giúp cho tiến trình tố tụng kết thúc một phần hoặc toàn bộ một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho Nhà nước lẫn đương sự khi không cần thiết phải tiếp tục xét xử phúc thẩm. Thế nhưng, trong một số trường hợp cụ thể, nếu hoạt động đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án được thực hiện không đúng, thiếu tính khả thi thì sẽ tác động không nhỏ đến cơ hội bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người kháng cáo, ảnh hưởng đến uy tín của Tòa án, hoạt động tố tụng. Nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc và ổn định hơn để Tòa án ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm một cách thuận lợi, chuẩn xác hơn, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 ra đời thay thế cho Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã có những sửa đổi, bổ sung kịp thời, đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật Tố tụng hành chính nói chung và quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính nói riêng. Tuy nhiên, sau một thời gian có hiệu lực thi hành, quy định của Luật Tố tụng hành chính về đình chỉ xét xử phúc thẩm đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, thiếu cụ thể, rõ ràng làm cho việc thực thi tại các Tòa án gặp phải những khó khăn, lúng túng nhất định. Đơn cử trường hợp người kháng cáo được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan, thì sẽ thế nào nếu họ vắng mặt nhưng có người đại diện hợp pháp tham gia thay họ? Cùng quy định về vấn đề này, theo Điều 225 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử, song theo Điều 229, 241 Luật này thì có thể hiểu Tòa án phải đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Một mặt khác không kém phần lưu tâm, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án đó là năng lực, tư tưởng, chuyên môn xét xử của Thẩm phán vẫn còn hạn chế, bị chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố; người kháng cáo, đương sự vẫn còn thái độ thiếu hợp tác, thờ ơ đối với hoạt động tố tụng. Với hậu quả nghiêm trọng và những bất cập, hạn chế đang tồn tại của việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính như vậy, việc khẩn trương nghiên cứu để đưa ra các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này là hết sức cần thiết, nhằm bảo vệ thỏa đáng quyền lợi hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đảm bảo pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở phương diện khoa học luật, đã có một số bài viết về giai đoạn phúc thẩm vụ án 2 hành chính, về đình chỉ xét xử vụ án hành chính. Tuy nhiên, tác giả chưa tìm thấy công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, đặc biệt với các hình thức khóa luận, luận văn, luận án. Xuất phát từ những nhận thức trên, tác giả chọn đề tài “Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính là một đề tài nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu. Trên thực tế, đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài này dựa trên những nhìn nhận, đánh giá đối tượng, phạm vi và cách thức nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên chỉ dừng lại ở một số khía cạnh nhất định. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: Thứ nhất, bài “Giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính” trong sách Giải thích và bình luận Luật Tố tụng hành chính 2015 của tác giả Nguyễn Hoàng Yến, Lê Thị Mơ (2017). Trong bài này, các tác giả tập trung làm rõ các căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm và các quy định khác tại Điều 299 Luật Tố tụng hành chính. Thứ hai, khóa luận “Phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính” của tác giả Trần Thị Như Quỳnh (2017). Trong khóa luận này, tác giả dành một phần để phân tích quy định pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm và đưa ra kiến nghị về sự có mặt của người tham gia tố tụng tại Điều 229 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 theo hướng “Khi người kháng cáo được triệu tập từ lần thứ hai mà vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc vì trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng”. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật: nâng cao đội ngũ tiến hành tố tụng; thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật Tố tụng hành chính từ đó nâng cao hiểu biết của người dân. Thứ ba, bài viết “Bất cập trong quy định về quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính và kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Lê Thị Mơ (2021). Trong bài viết, tác giả đã phân tích, đánh giá quy định pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm và đưa ra 04 kiến nghị sau: (1) Cần bổ sung thêm khái niệm về đình chỉ xét xử phúc thẩm nhằm bảo đảm việc hiểu chính xác, thống nhất về loại quyết định này; (2) Sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 229 Luật Tố tụng hành chính; Giữ nguyên quy định tại điểm a khoản 2 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm tại điểm d khoản 1 Điều 229 cần phải quy định lại cho tương thích với điểm a khoản 1 Điều 225, quy định lại khoản 5 Điều 241, bỏ quy định ở phần cuối của khoản 5 Điều 241; (3) Sửa lại khoản 4 Điều 229 về thẩm quyền kiến nghị 3 giám đốc thẩm; (4) Cần bổ sung tại khoản 5 Điều 229 về hiệu lực thi hành của quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Trên cơ sở phân tích, kế thừa các kết quả đạt được của các công trình nghiên cứu nêu trên, đề tài tiếp tục kiến nghị, đóng góp các nội dung sau: (1) Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Việc làm sáng tỏ này sẽ là cơ sở để tiếp cận và định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính; (2) Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện nay về đình chỉ xét xử phúc thẩm và thực tiễn đình chỉ xét xử phúc thẩm, từ đó chỉ ra những vướng mắc, bất cập đang tồn tại; (3) Đưa ra các kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, đây là những kiến nghị mới dựa trên những căn cứ, lập luận khoa học, đối chiếu thực tiễn, tham khảo pháp luật nước ngoài, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, cơ quan và tổ chức trong xã hội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Đề tài có 02 mục tiêu chung, mang tính định hướng khái quát và các nhiệm vụ cụ thể để thực hiện các mục tiêu đó: Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận, pháp lý về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Để thực hiện mục tiêu này, tác giả thực hiện các nhiệm vụ sau: thu thập, hệ thống và chọn lọc các tài liệu trong trường và ngoài trường có liên quan đến đề tài để làm rõ các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, quy định pháp luật Việt Nam và thế giới về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Thứ hai, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Để thực hiện mục tiêu này, trước hết cần đánh giá quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những thực trạng, thực tiễn này, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể. Để thực hiện việc này, cùng với nghiên cứu các sách chuyên khảo, các bài tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa học, tác giả đồng thời tìm hiểu, nắm bắt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; tập hợp, phân tích và đánh giá các báo cáo chuyên ngành và các quyết định của Tòa án; tham khảo pháp luật nước ngoài. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: khóa luận nghiên cứu các quan điểm, nhận thức lý luận về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, quy định pháp luật về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính và thực tiễn thi hành pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Dưới góc độ pháp lý, lý luận: khóa luận đặt trọng tâm nghiên cứu về đình chỉ xét xử phúc thẩm tại Điều 229 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và những vấn đề mang tính lý luận trong nước. Ngoài ra, đề tài kết hợp so sánh pháp luật Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga và Ba Lan về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về vấn đề này. Dưới góc độ thực tiễn: đề tài chủ yếu nghiên cứu các số liệu từ khi Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có hiệu lực ngày 01/7/2016 đến nay, với các bản án, quyết định đã được công bố trên trang Công bố bản án, báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Phương pháp luận: tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu trong đề tài. Phương pháp cụ thể: Thứ nhất, phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong đề tài, nhằm thể hiện được những đặc tính thuộc bản chất của đối tượng nghiên cứu. Trong đó, phương pháp phân tích nhằm bóc tách từng quy phạm pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật để thấy hết được các khía cạnh của vấn đề; cùng với đó, phương pháp tổng hợp được dùng để góp nhặt những đặc điểm, khía cạnh nhỏ lẻ từ đó đi đến kết luận khái quát. Thứ hai, phương pháp chứng minh: cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp thì phương pháp chứng minh cũng được sử dụng thường xuyên trong khóa luận, nhằm làm rõ được tính đúng đắn của các luận điểm được đưa ra. Trong đó, phương pháp này được sử dụng nhiều nhất tại phần kiến nghị của đề tài trên cơ sở đưa ra các minh chứng, kết hợp các luận cứ để thuyết phục về các kiến nghị hoàn thiện. Thứ ba, phương pháp so sánh: được dùng chủ yếu trong mục quy định pháp luật một số quốc gia về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, để phát hiện, phân tích những điểm tương đồng và khác biệt về quy định pháp luật và đánh giá chúng dựa trên một hệ thống tiêu chí khách quan, rõ ràng. 5 Thứ tư, phương pháp nghiên cứu vụ việc cụ thể: được sử dụng chủ yếu trong phần thực trạng áp dụng pháp luật với các hoạt động phân tích, đánh giá các quyết định của Tòa án, các số liệu, vụ việc trong các báo cáo, tạp chí về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Thứ năm, phương pháp phỏng vấn chuyên gia: được dùng trong phần thực trạng và kiến nghị của đề tài, nhằm thu thập các thông tin, ý kiến đánh giá của các chuyên gia có kinh nghiệm như: Thẩm phán, Kiểm sát viên… để tìm ra giải pháp hữu ích về mặt pháp luật và cả thực tiễn trong việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Ý nghĩa hoa học: Khóa luận là công trình khoa học nghiên cứu một cách hoàn chỉnh về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính dưới góc độ lý luận, pháp lý đồng thời đánh giá khách quan thực trạng và đưa ra những giải pháp chi tiết, toàn diện, mới mẻ, hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này. Giá trị ứng dụng: Dưới góc độ học thuật, các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đóng góp vào việc hoàn thiện kiến thức khoa học luật, có giá trị tiền đề cho những nghiên cứu khoa học về sau. Dưới góc độ thực tiễn, những kiến nghị của đề tài có thể gợi ý cho các nhà làm luật ban hành các quy định, chính sách phù hợp, hiệu quả, góp phần bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, đề tài còn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho đương sự, những người làm công tác thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung khóa luận gồm 02 chương: Chương 1: Những vấn lý luận, pháp lý về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính Chương 2: Thực trạng đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính và một số kiến nghị hoàn thiện 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính 1.1.1. Khái niệm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính Quá trình giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính trải qua các trình tự, thủ tục khác nhau từ thụ lý phúc thẩm, chuẩn bị xét xử phúc thẩm cho đến xét xử phúc thẩm. Mỗi giai đoạn sẽ có những nhiệm vụ riêng nhất định nhưng chung quy lại đều giúp cho Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ tính có căn cứ và tính hợp pháp của phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và đưa ra quyết định chính thức về “số phận” của phần bản án, quyết định sơ thẩm đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc giải quyết phúc thẩm cũng diễn ra xuyên suốt, liền mạch vì khi có những căn cứ như người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị; người kháng cáo chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế… thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, chấm dứt việc giải quyết phúc thẩm để xác lập hiệu lực pháp lý cho phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Vậy đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính được hiểu như thế nào? Hiện nay, cả Luật Tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật có liên quan đều không có quy định chính thức đề cập về khái niệm này. Chính vì lẽ đó, việc làm rõ khái niệm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính được chúng tôi tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Ở góc độ ngôn ngữ học, “đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính” là một cụm từ cấu thành bởi nhiều từ ghép, nhưng khi tiến hành phân tích khái niệm này, chúng tôi không phân tích sâu vào từng từ trong cụm từ mà chỉ tập trung vào từ trọng tâm là “đình chỉ xét xử phúc thẩm”, sau đó khái quát thành một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác và tương ứng với phạm vi nghiên cứu của đề tài. Theo Từ điển Tiếng Việt: “đình chỉ” là “ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh viễn”1 hoặc theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam “đình chỉ” là “không tiến hành nữa, ngừng lại một hoạt động, hay một thủ tục nào đó”2. Bản chất, hậu quả của “đình chỉ” là chấm dứt, không tiếp tục tiến hành, ngừng hẳn một Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung Tâm từ điển học (chế bản), Hà Nội, tr. 324. 2 Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tp. Hồ Chí Minh, tr. 632. Ngoài các nghĩa là nhà công cộng, phần phía trên trần của màn thì theo từ điển này, “đình” còn có nghĩa là nhà nhỏ trong một vườn hoa và “đình” có nghĩa là dừng lại không tiếp tục nữa, thay vì ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại như được nêu tại Từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học (tr. 632). 1 7 công việc, hoạt động hay một thủ tục nào đó. Như vậy, theo nghĩa của từ điển thì “đình chỉ” chứa đựng nội hàm của việc chấm dứt không còn tiếp tục. Còn nghĩa của từ “xét xử” là “hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án, xét xử là xem xét và xử các vụ án3. Trong khi đó, “phúc thẩm” được hiểu là “việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xử sơ thẩm mà có chống án”4. Hay theo từ điển Luật học thì “phúc thẩm” là xét xử lại vụ án, quyết định đã được Tòa án cấp dưới sơ thẩm xét xử nhưng chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo, kháng nghị. Phúc thẩm là một hoạt động tố tụng, trong đó Tòa án cấp trên tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định do Tòa án cấp sơ thẩm xử bị kháng cáo, kháng nghị5. Trên cơ sở lồng ghép giữa thuật ngữ “xét xử” và “phúc thẩm” thì xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Thông qua các cách luận giải nghĩa ngữ trên, chúng ta đi đến một khái niệm tổng hợp: “đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính là việc Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử lại bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị đã ra quyết định chấm dứt việc xét xử”. Khái niệm về đình chỉ xét xử phúc thẩm theo cách tiếp cận này rất đơn giản, mang nghĩa nôm na, thế nên nó còn mang tính phổ thông và đại khái, không phản ánh được bản chất của vấn đề, chưa lột tả được căn cứ, hậu quả pháp lý về đình chỉ một cách cô đọng nhất. Trong khoa học pháp lý, khái niệm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ít được quan tâm luận giải. Có thể tìm thấy quan điểm của một số tác giả về khái niệm hoặc chí ít cũng có liên quan đến khái niệm này, thể hiện trong các công trình nghiên cứu khoa học như sau: Theo tác giả Tống Công Cường, đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt các hoạt động xét xử phúc thẩm nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm, theo đó những quyền nghĩa vụ trong bản án, quyết định sơ thẩm của các đương sự phải được tôn trọng và thi hành 6. Quan sát khái niệm, chúng ta thấy tác giả đã biểu đạt về tính chất, hậu quả của đình chỉ xét xử phúc thẩm, thế nhưng xét ở khía cạnh lý luận thì khái niệm này chưa nêu bật được căn cứ cũng như chủ thể của đình chỉ xét xử phúc thẩm. Do vậy, việc sử dụng quan Viện ngôn ngữ học(2002), Từ điển Tiếng việt phổ thông, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 1057. Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung Tâm từ điển học (chế bản), Hà Nội, tr. 791. 5 Bộ Tư pháp (2006), Từ Điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 626 -627. 6 Tống Công Cường (2007), “Quy định về đình chỉ trong Bộ Luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 (41), tr. 47. 3 4 8 điểm trên như một khái niệm chính thức thì vẫn chưa thật sự chính xác để mô tả về đình chỉ xét xử phúc thẩm. Có phần toàn diện hơn, tác giả Nguyễn Thị Thu Hà nêu “Đình chỉ xét xử phúc thẩm là quyết định của Tòa án làm chấm dứt hoạt động tố tụng giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm và kết quả của quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm sẽ được công nhận theo đó quyền và nghĩa vụ của các bên được ấn định trong bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được tôn trọng và có hiệu lực thi hành”7. Ngoài việc đề cập đến hậu quả của việc đình chỉ là chấm dứt hoạt động tố tụng giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm và bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được tôn trọng có hiệu lực thi hành, khái niệm còn làm rõ chủ thể ban hành quyết định đình chỉ xét xử là Tòa án khi giải quyết phúc thẩm. Nhận thấy, khái niệm này đã phản ánh được tương đối các tiêu chí để thiết kế khái niệm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Đồng quan điểm, tác giả Trần Thị Thảo viết “Đình chỉ xét xử phúc thẩm là một hoạt động tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm dựa trên các căn cứ luật định qua đó làm chấm dứt việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm đồng thời làm phát sinh hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm”8.Việc cập nhật căn cứ của đình chỉ xét xử phúc thẩm theo quy định của pháp luật và nêu cụ thể chủ thể của đình chỉ xét xử phúc thẩm là điểm sáng quan trọng trong khái niệm này, góp phần cho chúng ta nhìn nhận chính xác, toàn diện hơn về khái niệm đình chỉ xét xử phúc thẩm dưới góc độ lý luận. Trên cơ sở kết hợp các cách luận giải trên đây, tác giả đề xuất xây dựng khái niệm khoa học về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính như sau: Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính là hành vi tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm sau khi thụ lý vụ án, phát hiện có những căn cứ luật định đã ra quyết định làm chấm dứt việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, quyền, nghĩa vụ của đương sự được ấn định trong bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được tôn trọng có hiệu lực thi hành. 1.1.2. Đặc điểm của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính Thông qua khái niệm vừa được đúc kết ở trên, có thể thấy đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính có những đặc điểm sau: Thứ nhất, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính chỉ được Tòa án cấp phúc thẩm ban hành sau khi thụ lý xét xử phúc thẩm Về nguyên tắc, vụ án hành chính chỉ được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm khi và chỉ khi Tòa án cấp phúc thẩm ra thông báo thụ lý phúc thẩm. Nói cách khác, Nguyễn Thị Thu Hà (2010) “Đình chỉ xét xử phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm, Tạp chí Luật học, số 07, tr. 3. 8 Trần Thị Thảo (2017), Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 7. 7 9 động thái thụ lý phúc thẩm chính là điều kiện quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc xét xử lại vụ án, đánh giá tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Đặc biệt, đối với một số quyết định quan trọng, việc thụ lý cũng là điều kiện cần để chúng được ban hành nhằm xử lý các tình huống, sự kiện phát sinh trong quá trình tố tụng. Một trong những quyết định đó phải kể đến đó là quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Theo đó, Điều 221 Luật tố tụng hành chính quy định: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra một trong các quyết định: tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm; đình chỉ xét xử phúc thẩm; đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Rõ ràng, dù không trực tiếp đề cập nhưng điều khoản đã cho thấy, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm là hành vi tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm và chúng chỉ được ban hành sau khi thụ lý phúc thẩm vụ án. Như vậy, đây là đặc điểm giúp chúng ta phân biệt việc đình chỉ xét xử phúc thẩm với việc đình chỉ giải quyết vụ án tại giai đoạn sơ thẩm. Qua đó cho chúng ta có cái nhìn tổng thể về đình chỉ xét xử phúc thẩm, làm nền tảng để nghiên cứu các nội dung tiếp theo. Thứ hai, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính được ban hành dựa trên những căn cứ luật định So với đặc điểm trên, đây cũng là một trong những đặc điểm không thể thiếu của đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nội dung này xuất phát từ chính nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 4 Luật Tố tụng hành chính “mọi hoạt động tố tụng hành chính của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân theo quy định của Luật này”. Xét về khía cạnh lý luận, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm toàn bộ vụ án không chỉ đơn thuần làm chấm dứt việc giải quyết phúc thẩm mà còn là điều kiện để bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phát sinh hiệu lực, xác định việc thi hành về quyền, nghĩa vụ của các đương sự trong bản án, quyết định sơ thẩm trước đó. Do vậy, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm rất quan trọng, tính chính xác hay không chính xác của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát có kháng nghị. Chính vì điều này nên khi Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phải có sự thận trọng và chính xác. Nói cách khác, chỉ khi xuất hiện các căn cứ luật định thì Tòa án mới được đình chỉ xét xử phúc thẩm, chấm dứt việc giải quyết phúc thẩm, tránh trường hợp tùy tiện, chủ quan gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự trong vụ án, đảm bảo triệt để ý nghĩa của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. 10 Thứ ba, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính làm chấm dứt việc xét xử phúc thẩm vụ án hành chính Chúng ta có thể khẳng định đây là đặc điểm vô cùng quan trọng và không thể không bàn tới khi nghiên cứu về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Nếu như việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm làm gián đoạn việc giải quyết phúc thẩm trong một khoảng thời gian, vụ án sẽ được tiếp tục xét xử lại khi các căn cứ tạm đình chỉ được khắc phục thì việc đình chỉ xét xử phúc thẩm lại làm chấm dứt việc giải quyết phúc thẩm, các phán quyết trong bản án quyết định sơ thẩm sẽ phát sinh hiệu lực pháp luật và được công nhận. Như vậy, bản chất cơ bản của đình chỉ xét xử phúc thẩm là làm chấm dứt hoạt động tố tụng giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm và kết quả giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm sẽ được công nhận và quyền, nghĩa vụ của các bên được ấn định trong bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được tôn trọng và có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên cần phải lưu ý, tùy thuộc vào các căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm khác nhau mà việc đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể dẫn đến kết quả làm chấm dứt toàn bộ hoặc một phần việc giải quyết phúc thẩm. Theo đó, nếu thủ tục phúc thẩm phát sinh do có kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát mà cả đương sự, Viện kiểm sát đều rút hết các kháng cáo, kháng nghị thì việc đình chỉ xét xử phúc thẩm lúc này sẽ làm chấm dứt toàn bộ việc giải quyết phúc thẩm, hiệu lực của bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị sẽ phát sinh hiệu lực. Ngược lại, nếu đương sự chỉ rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị thì việc đình chỉ xét xử phúc thẩm chỉ là một phần và không thể làm chấm dứt toàn bộ việc giải quyết phúc thẩm vụ án, vì vẫn còn các kháng cáo, kháng nghị chưa rút. Rõ ràng, xét về mặt lý luận, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể là quyết định giải quyết cuối cùng của thủ tục phúc thẩm và cũng có thể là quyết định làm giảm tải một phần trách nhiệm của Tòa án cấp phúc thẩm khi không phải xem xét các nội dung các kháng cáo, kháng nghị đã đình chỉ. Thứ tư, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính khác với đình chỉ giải quyết vụ án hành chính tại giai đoạn phúc thẩm Đặc điểm này có sự gắn liền với đặc điểm liền kề phía trên, giúp cho chúng ta nhìn nhận toàn diện, chuyên sâu hơn về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính trong mối liên hệ so sánh với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án tại giai đoạn phúc thẩm. Theo đó, mặc dù cả hai quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án trong giai đoạn phúc thẩm đều là hành vi tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm nhằm xử lý những sự kiện cụ thể nhưng xét về căn cứ, hậu quả chúng lại có những điểm khác biệt cơ bản đáng lưu tâm: Trước hết, về căn cứ pháp lý: Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính chỉ được ban hành khi có 11 những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 229, khoản 2 Điều 225 khoản 3 Điều 218, khoản khoản 5 Điều 241. Đây là các căn cứ xuất hiện trong giai đoạn phúc thẩm, gắn liền với kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát. Trong khi đó, căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án tại giai đoạn phúc thẩm được ghi nhận tại Điều 234, 235, khoản 4 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính – chúng có liên quan tới việc khởi kiện – yếu tố làm phát sinh vụ án hành chính. Tiếp đến, về hậu quả pháp lý: Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động tố tụng ở cấp phúc thẩm đồng thời làm phát sinh hiệu lực bản án sơ thẩm, kết quả của việc giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm vẫn được giữ nguyên, quyền và nghĩa vụ trong bản án sơ thẩm của đương sự phải được tôn trọng thi hành. Hoàn toàn khác, việc đình chỉ giải quyết vụ án trong giai đoạn phúc thẩm làm chấm dứt toàn bộ hoạt động tố tụng, cả hiệu lực của bản án sơ thẩm, kết quả của quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm đều không được công nhận. Nhìn chung, đây là hai điểm khác biệt cơ bản nhất giữa hai quyết định nêu trên. 1.1.3. Ý nghĩa của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính là một trong nhiều nội dung không thể thiếu của Luật Tố tụng hành chính khi quy định về thủ tục phúc thẩm. Nghiên cứu chuyên sâu về các căn cứ, thẩm quyền, trình tự thủ tục và hậu quả pháp lý của đình chỉ xét xử phúc thẩm có ý nghĩa quan trọng đối với đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, với Tòa án, Viện kiểm sát và với tiến trình tố tụng giải quyết vụ án. Thứ nhất, đối với đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự Đương sự, người diện hợp pháp của đương sự là nhân tố chính trong vụ án hành chính. Trên thực tiễn, việc xét xử phúc thẩm phát sinh hầu như đều do họ kháng cáo, chống lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đương sự kháng cáo không chỉ dừng lại ở việc yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại tính hợp pháp, tính có căn cứ trong bản án, quyết định sơ thẩm mà còn mong muốn tìm kiếm cơ hội thắng kiện, xoay ngược lại phán quyết đã “thua kiện” trong bản án sơ thẩm để bảo vệ triệt để cho các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ở góc độ này, nếu việc xét xử phúc thẩm bị đình chỉ ngoài ý muốn chủ quan của họ thì đồng nghĩa rằng cơ hội được bảo vệ của họ sẽ bị khép lại. Do đó, hơn bao giờ hết việc đình chỉ xét xử phúc thẩm và sự hiểu biết sâu sắc, triệt để về các nội dung pháp lý của loại quyết định này thật sự rất cần thiết với các đương sự của vụ án. Trước hết, nó sẽ giúp họ nắm bắt được hoạt động đình chỉ của Tòa án cấp phúc thẩm để thực hiện việc giám sát, theo dõi, kịp thời thực hiện quyền kiến nghị với người có thẩm quyền để bảo vệ lợi ích của mình, loại trừ các trường hợp đình chỉ tùy tiện mang 12 tính chủ quan phiến diện của Tòa án. Đồng thời cũng giúp các đương sự thực hiện đầy đủ, chính xác các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, tránh được trường hợp rơi vào các căn cứ đình chỉ ngoài ý muốn, bảo đảm cho hoạt động xét xử phúc thẩm được tiến hành theo ý muốn. Như vậy, nhìn một cách chung nhất, hiểu biết toàn diện về đình chỉ xét xử phúc thẩm thực sự rất cần thiết đối với các đương sự của vụ án. Thứ hai, đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính là một công việc không đơn giản, đòi hỏi Tòa án phải luôn thận trọng, kỹ lưỡng trong từng nội dung. Khi Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đúng đắn, tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật sẽ làm cho quá trình giải quyết phúc thẩm nhanh hơn, chính xác hơn, Tòa án không phải kéo dài thời gian giải quyết, thậm chí không cần mở phiên tòa, phiên họp, giảm bớt áp lực và có thể tập trung giải quyết vụ án khác quan trọng hơn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phúc thẩm. Mặt khác, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm đúng đắn còn giúp Tòa án khẳng định vị trí, uy tín của mình trước các đương sự, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, khi có căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm mà Tòa án lại không đình chỉ xét xử phúc thẩm sẽ dẫn đến hậu quả vi phạm nghiêm trọng về mặt thủ tục tố tụng làm kéo dài tiến trình tố tụng hành chính, quyền và lợi ích chính đáng của đương sự sẽ bị ảnh hưởng. Ngoài ra, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm còn giúp Tòa án kịp thời khắc phục những thiếu sót sai lầm của giai đoạn tiếp nhận, xem xét đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị trước đó của Tòa án cấp sơ thẩm, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng trọng tâm, tránh được các sai lầm mang tính dây chuyền không đáng có. Điều này góp phần nâng cao chất lượng của việc phối hợp giữa các cấp tòa trong việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị. Thứ ba, đối với tiến trình tố tụng hành chính Tiến trình tố tụng hành chính bao gồm nhiều trình tự, thủ tục khác nhau. Song mục tiêu chung nhất mà quá trình tố tụng hành chính hướng đến là giải quyết vụ án hành chính triệt để, chất lượng, bảo đảm kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Xét xử phúc thẩm là một trong những giai đoạn của tiến trình tố tụng hành chính, có mục tiêu là xét xử lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Trong giai đoạn này Tòa án có thể ban hành quyết định đình chỉ chấm dứt việc xét xử phúc thẩm theo ý nguyện của đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị hoặc theo những căn cứ Luật định khác. Khi Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án một cách đúng đắn, 13 tuân thủ đúng các quy định của pháp luật sẽ giúp cho tiến trình tố tụng diễn ra hiệu quả, tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc, cho cả nhà nước lẫn đương sự, tránh kéo dài hoạt động tố tụng một cách không cần thiết. Trước hết, việc đình chỉ sẽ giúp tiết kiệm thời gian, công sức cho Tòa án khi chủ thể kháng cáo không còn tồn tại mà không có người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng hoặc không còn nhu cầu tiếp tục vụ án bằng cách rút kháng cáo, kháng nghị. Mặt khác, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm còn giúp cho Tòa án kịp thời khắc phục những thiếu sót, sai lầm của các giai đoạn trước đó. Cụ thể đối với căn cứ tại điểm b khoản 1 Điều 229, đây là các trường hợp phải trả lại đơn kháng cáo khi có căn cứ theo khoản 4 Điều 207 Luật Tố tụng hành chính nhưng Tòa án không trả lại đơn và vẫn thụ lý giải quyết. Ngoài ra, đình chỉ xét xử phúc thẩm còn góp phần tác động, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của người kháng cáo, xử lý nghiêm minh các trường hợp người kháng cáo cố tình không thực hiện yêu cầu tham gia phiên tòa của Tòa án hoặc trường hợp không thực hiện đúng các thủ tục mà Tòa án yêu cầu. Như vậy, với tiến trình tố tụng hành chính thì hoạt động đình chỉ xét xử luôn có sự tác động nhất định. 1.2. Quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính trong pháp luật tố tụng hành chính ở một số quốc gia Tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia khác nhau, các quy định về việc giải quyết vụ án hành chính nói chung và vấn đề về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính nói riêng cũng có những điểm không tương đồng nhất định. Theo đó, thông qua việc nghiên cứu tổng quan, tác giả nhận thấy: hiện nay, trên thế giới có khá nhiều quốc gia ban hành đạo luật tố tụng hành chính có đề cập cụ thể về căn cứ, thẩm quyền, hậu quả của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung trình bày, phân tích quy định pháp luật của một số nước về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính dưới đây. Qua đó, nội dung này sẽ là cơ sở quan trọng để hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hành chính về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam. 1.2.1. Quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính trong Pháp luật Cộng hòa Pháp Cộng hòa Pháp là quốc gia đầu tiên cần được xem xét khi nghiên cứu về pháp luật nước ngoài trong lĩnh vực tố tụng hành chính. Bởi lẽ, Pháp là quốc gia có nền tài phán hành chính phát triển mạnh mẽ và lâu đời nhất trên thế giới. Đồng thời, Pháp là một trong những quốc gia ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với Việt Nam trong lịch sử hiện đại bởi chế độ thuộc địa kéo dài gần một thế kỷ và cũng là một trong những quốc gia có hoạt động trợ giúp pháp lý sớm nhất thông qua con đường Chính 14 phủ từ những năm đầu 1990, thực hiện nhiều dự án liên quan đến việc giới thiệu mô hình Tòa án hành chính của Pháp, giúp đỡ Việt Nam trong việc soạn thảo các văn bản quy phạm liên quan đến việc giải quyết các vụ án hành chính9. Nhìn chung, Bộ luật hành chính năm 2001 của Cộng hòa Pháp gồm có 2 phần (phần Tòa án từ Điều L1 đến L911-10 và phần Thủ tục từ Điều R112 đến R931-8). Trong đó, nội dung về đình chỉ xét xử phúc thẩm trước hết được tập trung quy định tại Chương 8 Phần 2 và các Chương 4, 6, 7 của Phần này10. Theo đó, nội dung đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính của Pháp được thể hiện trọng tâm ở các vấn đề sau: Về căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm: Trong quá trình xét xử phúc thẩm tại phiên tòa, các bên gửi bảng giải trình, quan điểm tranh luận kèm tài liệu cho các trưởng ban, chủ tọa phiên tòa (Điều R611-17). Trưởng ban, chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu các bên bổ sung tài liệu (Điều R612-5)11 hoặc xác nhận về việc tiếp tục theo đuổi vụ án (Điều R612-5-1)12. Nếu các bên không phản hồi trong thời hạn quy định, đồng nghĩa họ từ bỏ kháng cáo. Đây là căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm tuy có sự diễn giải không giống nhau nhưng lại có nét tương đồng với căn cứ đình chỉ xét xử ở Việt Nam, một căn cứ của việc người kháng cáo vắng mặt không có lý do chính đáng. Về thẩm quyền, thủ tục đình chỉ xét xử phúc thẩm: Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể được thực hiện bởi Hội đồng xét xử nếu quyết định được đưa ra tại giai đoạn giải quyết hoặc bởi Hội nghị tiểu ban nếu được đưa ra tại giai đoạn thẩm cứu (Điều R612-3). Rõ ràng, về thẩm quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm ở đây cũng có những phân định khá rõ ràng, loại trừ được sự chồng chéo, mâu thuẫn và xác định rõ được trách nhiệm của các chủ thể. Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy, việc phân định thẩm quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm có sự phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng ở cấp phúc thẩm. Nếu ở giai đoạn thẩm cứu – giai đoạn được tính từ khi nhận hồ sơ cho đến khi đưa vụ án ra giải quyết thì quyền hạn đình chỉ thuộc về hội nghị tiểu bang phụ trách. Nghĩa là, việc đình chỉ xét xử lúc này không do cá nhân đảm Phạm Hồng Quang (2010), “Kinh nghiệm từ mô hình và thẩm quyền xét xử Vụ án hành chính của một số quốc gia trên thế giới”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21, tr. 55, 56. 10 Theo Điều R811-13, trừ khi có quy định khác, việc bắt đầu tố tụng trước Tòa án phúc thẩm tuân theo các quy tắc liên quan đến việc bắt đầu thủ tục sơ thẩm được định nghĩa trong Chương 4 (thủ tục sơ thẩm), các quy định trong Chương 6 (hướng dẫn), 7 (phán quyết) cũng được áp dụng. 11 Trước Tòa án hành chính cấp phúc thẩm, nếu người nộp đơn, mặc dù đã gửi thông báo chính thức, nhưng vẫn chưa xuất trình tài liệu bổ sung hoặc trong các trường hợp được đề cập trong đoạn thứ hai của Điều R. 611- 6 (chuyển tài liệu từ các cơ quan có thẩm quyền), anh ta được coi là đã từ bỏ kháng cáo. 12 Khi tình trạng của hồ sơ khiến người ta có thể nghi ngờ về việc tiếp tục theo đuổi vụ việc của người kháng cáo, chủ tịch hoặc trưởng ban phụ trách điều tra có thể mời người kháng cáo xác nhận rõ ràng việc duy trì kết luận. Yêu cầu được gửi đến người kháng cáo đề cập rằng, nếu không nhận được xác nhận này khi hết thời hạn ấn định, có thể không dưới một tháng, anh ta sẽ được coi là đã rút khỏi tất cả các kết luận của mình. 9 15 trách mà cũng phải được thảo luận, thông qua tại Hội nghị tiểu ban (gồm Trưởng ban dự thẩm và hai thành viên khác), song người ký quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm lại là Trưởng ban đóng vai trò dự thẩm chính. Nếu ở giai đoạn giải quyết phúc thẩm vụ án thì quy trình, thủ tục, thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án lại có sự khác biệt. Theo đó, tại phiên tòa, báo cáo viên trình bày sự việc, nêu yêu cầu của các bên. Khi xem xét một quyết định hành chính, Hội đồng xét xử sẽ xem xét cả hiệu lực về mặt hình thức lẫn nội dung quyết định đó13. Về hậu quả pháp lý của đình chỉ xét xử phúc thẩm: nếu các bên không đưa ra được các giải trình theo yêu cầu trong thời hạn được đặt ra thì các bên được coi là đã từ bỏ kháng cáo của mình. Lúc này, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án đối với yêu cầu kháng cáo đã bị từ bỏ (Điều R611-8-1). Nhìn nhận một cách tổng quát, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính của Cộng hòa Pháp và của Việt Nam có nhiều nét tương đồng và cũng có sự khác biệt. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì Pháp và Việt Nam có những điều kiện và thể chế chính trị khác nhau nên không thể có sự tương đồng hoàn toàn. 1.2.2. Quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính trong Pháp luật Liên Bang Nga Cũng như Cộng Hòa Pháp, Liên Bang Nga cũng là một quốc gia mà hệ thống pháp luật của họ có sự ảnh hưởng đáng kể đến hệ thống pháp luật của Việt Nam. Riêng về Luật Tố tụng hành chính của nước ta cũng nằm trong phạm vi ảnh hưởng đó. Theo đó, Bộ Luật Tố tụng hành chính Liên bang Nga năm 2015 gồm 9 phần, trong đó nội dung về phúc thẩm được quy định tại Chương 34, Phần 6 từ Điều 295 đến Điều 317. Về việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính theo Luật pháp của Liên Bang Nga có nhiều nét “na ná” như nước ta. Đương sự, người đại diện và Viện kiểm sát có quyền kháng cáo, kháng nghị khi các phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật (Điều 295). Sau khi nộp đơn, người đã kháng cáo, kháng nghị có quyền rút lại đơn đó trước khi Tòa án phúc thẩm thụ lý và cả sau khi Tòa án thụ lý. Nếu Tòa án đã thụ lý, việc rút kháng cáo, kháng nghị sẽ tuân thủ theo Điều 303 của Bộ Luật về rút kháng cáo, kháng nghị: “1. Được phép rút kháng cáo hoặc kháng nghị cho đến khi tòa án đưa ra phán quyết kháng cáo. 2. Đơn rút kháng cáo, kháng nghị sẽ được nộp bằng văn bản cho tòa án cấp phúc thẩm. Nguyễn Thu Thảo (2015), “Sơ lược về hệ thống tòa án hành chính và thủ tục tố tụng hành chính của Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số Tết Ất Mùi, tr. 44 - 47. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan