BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG TRỌNG KHA
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
LÀ BẤT ĐỘNG SẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
LÀ BẤT ĐỘNG SẢN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
Học viên
: Lương Trọng Kha
Lớp
: Cao học luật, Bình Thuận Khoá 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc.
Các tài liệu, cơ sở pháp lý, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy, trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu
trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả
Lương Trọng Kha
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ, cụm từ được viết tắt
Từ, cụm từ viết tắt
1
HNGĐ
Hôn nhân và gia đình
2
BLDS
Bộ luật dân sự
3
TTDS
Tố tụng dân sự
TT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO THỎA THUẬN ................................... 6
1.1. Điều kiện để thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của
vợ, chồng có hiệu lực pháp luật .......................................................................... 6
1.1.1. Quy định pháp luật.................................................................................... 6
1.1.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện ................................................................ 9
1.2. Hậu quả pháp lý của việc thoả thuận chia bất động sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân .......................................................................... 12
1.2.1. Về quan hệ tài sản của vợ chồng ............................................................. 12
1.2.2. Về quan hệ nhân thân của vợ chồng và nghĩa vụ đối với con chung ....... 16
1.3. Chấm dứt hiệu lực của việc thỏa thuận phân chia bất động sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .............................................................. 20
1.3.1. Điều kiện để thoả thuận chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực .................................................... 20
1.3.2. Thời điểm có hiệu lực và hậu quả của việc chấm dứt việc phân chia bất
động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ...................................... 21
1.3.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện .............................................................. 23
1.4. Thoả thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân vô hiệu ............................................................................................... 25
1.4.1. Các trường hợp thoả thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu ......................................................................... 25
1.4.2. Hậu quả của việc chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị
tuyên bố vô hiệu ................................................................................................ 28
1.4.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện giải pháp bảo vệ quyền lợi của bên thứ
ba trong trường hợp việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân vô hiệu ............................................................................................... 29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 33
CHƯƠNG 2. CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO TOÀ ÁN ............................................. 34
2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung vợ, chồng là bất
động sản trong thời kỳ hôn nhân ..................................................................... 34
2.1.1. Quy định pháp luật.................................................................................. 34
2.1.2. Bất cập và kiến nghị ................................................................................ 35
2.2. Nguyên tắc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân ............................................................................................................ 37
2.2.1. Quy định pháp luật.................................................................................. 37
2.2.2. Bất cập và kiến nghị ................................................................................ 38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 44
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào và là hạt nhân của xã hội, là nơi những người có quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống cùng chung sống, nuôi dưỡng, chăm sóc lẫn nhau.
Xây dựng gia đình hạnh phúc là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của công cuộc
xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ. Sự phát triển ổn định và lành mạnh của gia đình
sẽ tác động trực tiếp vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Vấn đề xây dựng và
bảo vệ gia đình được tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan tâm, trong đó có
Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn chú trọng quan tâm xây dựng gia đình văn
hoá, hạnh phúc.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực pháp lý, bên cạnh việc quy định nhằm xác lập, bảo
vệ và gìn giữ gia đình, một nội dung quan trọng khác là tìm cách giải quyết những
vấn đề phát sinh trong gia đình, đặc biệt là quan hệ hôn nhân. Mặc dù quan hệ hôn
nhân vẫn dựa trên cơ sở tình cảm là trên hết, nhưng khi xã hội vận động và phát
triển, bất cứ ai cũng có những nhu cầu riêng về việc sử dụng tài sản. Bởi vậy, khi
không có sự phân biệt rạch ròi về nguồn gốc tài sản hay tài sản của ai, đặc biệt là
đối với loại tài sản có giá trị lớn như bất động sản thì tranh chấp dễ xảy ra. Vì lý do
chủ quan hay khách quan nào đó mà vợ chồng có nhu cầu chia bất động sản trong
thời kì hôn nhân, nên việc pháp luật có quy định và Toà án có cơ chế giải quyết chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân đã và đang giúp giải quyết nhanh
chóng những xung đột phát sinh.
Theo thời gian, các quy định của pháp luật dân sự điều chỉnh về việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân đã có bước phát triển phù hợp với sự
vận động liên tục của xã hội, góp phần quan trọng vào hiệu quả giải quyết vụ việc
trên thực tế. Việc nghiên cứu về chế định chia bất động sản của vợ chồng trong thời
kì hôn nhân là rất cần thiết.
Với tất cả những lý do nêu trên, theo tác giả việc chọn đề tài “Chia tài sản
chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là bất động sản” làm luận văn thạc
sĩ luật học là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chia tài sản là nội dung luôn được đề cập khi xét đến việc giải quyết những
vấn đề của quan hệ hôn nhân, tuy nhiên, sự quan tâm dành cho mảng nội dung nhỏ
hơn là chia tài sản bất động sản trong thời kì hôn nhân của vợ chồng còn chưa
nhiều. Hiện chỉ có một số ít các công trình nghiên cứu đáng chú ý:
2
Bài viết “Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của
tác giả Phùng Trung Tập trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2012. Bài viết
này của tác giả Phùng Trung Tập phân tích các quy định pháp luật có liên quan về
chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân dưới hiệu lực của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, từ đó chỉ ra các bất cập và kiến nghị, làm cơ sở hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Trong công trình này, loại tài sản là bất động sản
được tác giả nhắc đến như là một loại tài sản mà vợ, chồng có thể phân chia, nhưng
còn rất mờ nhạt. Hơn nữa, vì bài viết được viết theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 nên không còn tính thời sự, dẫu vậy, những gợi mở quý giá trong bài viết này
giúp tác giả luận văn thực hiện đề tài này.
Khoá luận tốt nghiệp “Pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Đặng Lê Phương Uyên năm 2018 tại Trường
Đại học Luật TP. HCM. Khoá luận này phân tích toàn diện các quy định pháp luật
liên quan đến việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân,
trong số đó có nhắc đến bất động sản; tác giả cũng có chỉ ra các bất cập để đề xuất
các kiến nghị hoàn thiện. Tuy vậy, vì giới hạn của khoá luận nên thực tiễn giải
quyết các tranh chấp hay yêu cầu về chia tài sản chung là bất động sản của vợ,
chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa có điều kiện để phân tích nhiều.
Bài viết “Thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân”
của các tác giả Ngô Thị Anh Vân và Đặng Lê Phương Uyên trên Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 6/2019. Bài viết phân tích các nội dung tiêu biểu như: Phạm vi tài sản
chung của vợ, chồng được chia trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân vì mục đích đầu tư kinh doanh; bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi
vợ, chồng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Trong mỗi phần, các tác giả
phân tích các quy định pháp luật hiện hành và có đề xuất các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật. Bài viết phân tích sâu các vấn đề tổng thể, trong đó có đề cập đến tài sản
là bất động sản, gồm cả các bất động sản hình thành trong tương lai. Một vài phân
tích trong nghiên cứu này liên quan trực tiếp đến đề tài mà tác giả đang thực hiện.
Bài viết “Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân” của tác giả Nguyễn Thị Hường đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số
6/2020. Bài viết này đề cập đến khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân; một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng quy định về thỏa thuận
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; từ đó đưa ra một số đề
xuất, kiến nghị. Bài viết có nhấn mạnh đến một vài khía cạnh pháp lý liên quan đến
3
chia tài sản là bất động sản, như là một loại tài sản phức tạp nhất và dễ gây ra các
tranh chấp sau này.
Bài viết “Hiệu lực của hợp đồng chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân” của tác giả Vũ Thị Thanh Huyền trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
339/2020; hay như bài viết “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp
đồng chia tài sản chung vợ chồng trong kỳ hôn nhân” cũng của tác giả Vũ Thị
Thanh Huyền trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 346/2021. Các bài viết phân
tích công phu các điều kiện để thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân có hiệu lực, đặc biệt là đối với việc chia bất động sản, vấn đề có
nên công chứng hợp đồng này hay không cũng được tác giả đề cập sâu sắc. Tuy
vậy, các bài viết chủ yếu tập trung phân tích các quy định pháp luật hiện hành mà
chưa liên hệ thực tiễn xét xử trong lĩnh vực này.
Những công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân ở những khía cạnh, góc độ và mức độ khác
nhau. Trong một số công trình cũng đã đề cập đến việc chia bất động sản của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân, nhưng chưa sâu, chưa có nhiều nghiên cứu về thực
tiễn áp dụng pháp luật ở mảng này, đặc biệt là giai đoạn năm 2015 đến nay, tức thời
điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực. Vì vậy đề tài mà tác giả
thực hiện đảm bảo tính mới, tính thời sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là bất động sản, căn cứ chia tài sản,
phương thức chia tài sản, hệ quả pháp lý của chia bất động sản trong thời kì hôn
nhân của vợ chồng, chỉ ra những bất cập, đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện việc
áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật
về các vấn đề trọng tâm của đề tài luận văn này:
- Xác định hiệu lực pháp luật của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân của vợ, chồng là bất động sản, phương thức chia và hệ quả pháp lý của việc
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng là bất động sản.
- Tìm hiểu về thực trạng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ,
chồng là bất động sản trong thực tiễn xét xử tại các toà án các cấp.
4
- Chỉ ra những vướng mắc, bất cập đang tồn tại trong các quy định pháp luật
hoặc thực tiễn xét xử, để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về chia bất động sản
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân tại các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp
như Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật Đất đai
năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Với tính chất ứng
dụng thực tiễn, luận văn tập trung vào phân tích một số vụ việc thực tế do Toà án
thụ lý giải quyết, nhằm làm sáng tỏ những quy định của pháp luật, chỉ ra những ưu
điểm và tồn tại của các quy định hiện hành còn gây vướng mắc, khó khăn cho công
tác xét xử, từ đó đóng góp ý kiến hoàn thiện pháp luật về giải quyết chia bất động
sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân là bất động sản theo các khía cạnh: các phương thức chia tài
sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân và hệ quả pháp lý của việc chia
này; hiệu lực pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân trên thực tiễn xét xử giải quyết các tranh chấp có liên quan tại toà án, từ đó tìm
ra những vướng mắc phát sinh và phương hướng giải quyết.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp bình luận án, tổng
kết thực tiễn...để phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu đặt ra.
Thứ nhất, phương pháp phân tích
Phương pháp này được tác giả sử dụng để phân tích các quy định pháp luật
và thực tiễn thực hiện pháp luật, vì vậy trong toàn bộ luận văn đều sử dụng phương
pháp này.
Thứ hai, phương pháp tổng hợp
Phương pháp này được tác giả sử dụng để tổng kết lại các vấn đề đã phân tích
trong từng mục của luận văn và để tổng hợp nội dung của mỗi chương và đưa ra kết
luận chung cho toàn luận văn.
Thứ ba, phương pháp so sánh
5
Phương pháp này được sử dụng để so sánh các quy định hiện hành về chia
bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng với các giai đoạn trước đây và
với các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan, để rút ra những điểm thuận lợi cũng
như những tồn tại, hạn chế nhằm hướng đến việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này.
Thứ tư, phương pháp bình luận bản án: phương pháp được sử dụng nhằm
phân tích, bình luận thực tiễn việc chia bất động sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, nhằm thấy được những bất cập, vướng mắc của pháp luật cũng như thực tiễn
áp dụng pháp luật.
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Luận văn này góp phần tạo ra một tài liệu tham khảo có giá trị cho các chủ
thể nghiên cứu pháp luật.
Luận văn không chỉ có trị phục vụ trong nghiên cứu học thuật, mà còn có thể
được sử dụng làm tư liệu cho những người tham gia vào quan hệ pháp luật chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng là bất động sản; những người tham
gia giải quyết, xét xử, áp dụng pháp luật có thêm nguồn tài liệu tham khảo, góp
phần hoàn thiện việc giải quyết yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
của vợ, chồng là bất động sản.
6
CHƯƠNG 1
CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO THỎA THUẬN
1.1. Điều kiện để thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân
của vợ, chồng có hiệu lực pháp luật
1.1.1. Quy định pháp luật
Điều kiện có hiệu lực của việc thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn
nhân của vợ, chồng có hiệu lực pháp luật bao gồm: điều kiện về ý chí, điều kiện về
hình thức.
Thứ nhất, điều kiện về ý chí của vợ và chồng để thoả thuận phân chia bất
động sản trong thời kì hôn nhân có hiệu lực pháp luật.
Điều kiện có hiệu lực về ý chí cho biết ý chí của chủ thể hoặc những chủ thể
nào sẽ làm phát sinh việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Khoản 1 Điều
219 BLDS 2015 quy định trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở
hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung. Vì sở hữu chung của vợ chồng
là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia nên vợ và chồng đều có quyền yêu cầu
chia tài sản chung. Luật HNGĐ 2014 khẳng định vợ chồng được trao quyền tự do
định đoạt việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Khoản 1 Điều 38 Luật
HNGĐ 2014 quy định “Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia
một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật
này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Có thể thấy rằng, pháp luật HNGĐ vẫn bảo vệ quyền năng của chủ sở hữu
đối với tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng theo hướng đề cao sự thống nhất ý chí
của các chủ sở hữu. Quy định như vậy là hợp lý vì hành vi chia tài sản chung chính
là một trường hợp định đoạt tài sản chung của vợ chồng và theo nguyên tắc luật
định thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung phải do vợ chồng thoả
thuận.1 Mặt khác, việc phân chia dựa trên thoả thuận giữa vợ chồng sẽ phù hợp với
tính chất của tài sản chung hợp nhất, do phần quyền của mỗi chủ sở hữu không
được xác định theo tỷ lệ nên khó có thể cho rằng một bên được tuỳ ý đơn phương
tách riêng phần tài sản thuộc sở hữu của mình ra khỏi khối tài sản chung. Khác với
chủ sở hữu chung theo phần được pháp luật trao quyền định đoạt phần quyền sở
hữu của mình, chủ sở hữu chung hợp nhất chỉ được định đoạt tài sản theo thoả
1
Khoản 1 Điều 35 Luật HNGĐ 2014
7
thuận với các chủ sở hữu chung khác hoặc theo quy quy định của pháp luật. Việc
khuyến khích sự thống nhất ý chí từ cả hai phía, một mặt tôn trọng quyền tự quyết
của vợ chồng, mặt khác hướng đến bảo đảm tính ổn định, bền vững của gia đình thể
hiện qua sự kiện vợ chồng đồng thuận.
Luật HNGĐ 2014 không đặt ra yêu cầu về lý do phân chia tài sản chung nói
chung và bất động sản nói riêng trong thời kỳ hôn nhân. Đây là nội dung tiến bộ so
với quy định của Luật HNGĐ 2000. Điều 29 Luật HNGĐ 2000 giới hạn điều kiện
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong ba trường hợp luật định, bao gồm:
đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng và có lý do chính đáng
khác.2 Với Luật HNGĐ 2000, khi tranh chấp diễn ra, vợ chồng phải luôn chứng
minh được lý do chính đáng cho việc phân chia bất động sản trong thời kỳ hôn
nhân. Trong khi đó, về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền tự do định đoạt tài sản của
mình, miễn là không trái pháp luật và không gây thiệt hại đến lợi ích quốc gia, dân
tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.3 Bản chất việc
phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một quan hệ dân sự, mà cốt lõi
trong quan hệ dân sự là ý chí đồng thuận của các bên tham gia. Việc giới hạn các
trường hợp được tiến hành phân chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại đã phủ
nhận phần lớn quyền tự định đoạt của chủ sở hữu và quyền tự thoả thuận của các
chủ thể trong quan hệ dân sự. So với pháp luật HNGĐ giai đoạn trước, quy định
hiện nay đảm bảo tốt hơn quyền lợi của chủ sở hữu tài sản cũng như thể hiện đúng
bản chất quyền sở hữu trong pháp luật dân sự. Chỉ cần nội dung thoả thuận không vi
phạm các trường hợp vô hiệu luật định thì vợ chồng - với tư cách là chủ sở hữu tài
sản - được toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình.
Thứ hai, điều kiện về hình thức của thoả thuận phân chia bất động sản của
vợ, chồng trong thời kì hôn nhân có hiệu lực pháp luật.
Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể
được thể hiện dưới dạng văn bản thoả thuận hoặc bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Toà án. Trừ trường hợp một bên đơn phương yêu cầu Toà án chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân, việc phân chia này chỉ có thể tiến hành khi có sự
thoả thuận giữa vợ và chồng. Thỏa thuận chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn
tại là một trong những giao dịch dân sự mà pháp luật quy định hình thức là điều
kiện để giao dịch phát sinh hiệu lực.
2
3
Khoản 1 Điều 29 Luật HNGĐ 2000
Khoản 1 Điều 3 BLDS 2015
8
Theo khoản 2 Điều 38 Luật HNGĐ 2014: “Thỏa thuận về việc chia tài sản
chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ
chồng hoặc theo quy định của pháp luật”. Việc chia tài sản chung được ưu tiên thực
hiện theo hình thức thoả thuận giữa vợ chồng. Tuy nhiên để đảm bảo tính hợp pháp,
Luật HNGĐ 2014 quy định thoả thuận này phải được lập thành văn bản.
Theo pháp luật về công chứng và chứng thực thì không có quy định về việc
bắt buộc phải công chứng, chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung
của vợ chồng là quyền sử dụng sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.4
Theo Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về việc
công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất
phải công chứng, chứng thực thì không có quy định đối với văn bản thỏa thuận phân
chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bắt
buộc phải công chứng, chứng thực.
Theo quy định của Luật Đất đai 2013, đối với văn bản thỏa thuận phân chia
tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì
không thuộc trường hợp bắt buộc phải công chứng, chứng thực khi thực hiện quyền
của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Sự khác nhau giữa những giao dịch phải công chứng, chứng thực theo Luật
Đất đai 2013 và thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất không bắt buộc phải công chứng, chứng thực như sau:
Các giao dịch bắt buộc phải công chứng, chứng thực theo quy định của Luật Đất đai
2013 là những giao dịch thực hiện giữa một bên là người sử dụng đất, chủ sở hữu
tài sản gắn liền với đất và một bên không phải là người sử dụng đất, chủ sở hữu tài
sản gắn liền với đất. Do đó, các giao dịch này cần được công chứng, chứng thực để
phòng ngừa rủi ro trong giao dịch chuyển quyền; để xác định một bên có quyền hợp
pháp với tài sản và một bên có quyền nhận chuyển quyền hợp pháp với tài sản đó.
Đối với giao dịch thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (không bắt buộc phải công chứng, chứng
thực theo quy đinh của Luật Đất đai 2013), đây là giao dịch giữa hai bên cùng là
người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đang cùng có quyền hợp pháp
đối với tài sản chung được pháp luật công nhận và bảo vệ. Vì vậy, họ có quyền tự
thỏa thuận với nhau phân chia quyền lợi của mình trong khối tài sản sản chung đó
Luật Công chứng 2014, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ
gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch
4
9
mà không bắt buộc phải công chứng, chứng thực. Ngoài ra, trong thành phần hồ sơ
để thực hiện thủ tục thành chính đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất
trong trường hợp thỏa thuận hợp nhất hoặc phân chia quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu tài sản gắn liền với đất của vợ và chồng tại Điều 84 Nghị định 43/2014/NĐ-CP
và tại khoản 5 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT cũng không có quy định
bắt buộc văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất phải công chứng, chứng thực.
Như vậy, từ những căn cứ pháp lý trên có thể nhận định rằng, thỏa thuận
phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực. Quyền sử dụng đất là
bất động sản, thuộc loại tài sản phải đăng ký, vì vậy mặc dù pháp luật không quy
định bắt buộc việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải được công
chứng, chứng thực nhưng với đối tượng là bất động sản thì việc công chứng là
cần thiết. Đây cũng là căn cứ trong trường hợp có tranh chấp cần phải giải quyết
tại Toà án.
1.1.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Pháp luật hiện hành không bắt buộc phải công chứng, chứng thực đối với
giao dịch thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất, tuy nhiên, giao dịch này có thể được công chứng, chứng
thực nếu người sử dụng đất, và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất yêu cầu công
chứng, chứng thực. Quy định này vốn tồn tại từ Luật HNGĐ 2000 và Nghị định số
70/2001/NĐ-CP.
Trong thực tiễn xét xử, có Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cho rằng
Bản thoả thuận phân chia tài sản không trái pháp luật, đạo đức xã hội, được pháp
luật cho phép thì Bản thoả thuận vẫn có hiệu lực dù không công chứng. Tuy nhiên,
quan điểm này đã bị Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao bác bỏ. Theo đó, Bản thoả
thuận về tài sản là bất động sản chưa được công chứng, chứng thực nên chưa có giá
trị pháp lý. Quyết định Giám đốc thẩm số 215/2015/DS-GĐT về vụ án: “Hôn nhân
và gia đình” của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao có đoạn:
“Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện: Trước khi có đơn khởi kiện, này
07/4/2011 giữa ông Nghị và bà Tuyết có lập “Bản thỏa thuận về tài sản” với nội
dung: “Bà Tuyết được toàn quyền sở hữu các tài sản sau: Nhà số 114 Cộng Hòa,
phường 4, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh; nhà số 60/12/32 Cách Mạng
Tháng Tám, phường 15, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh; đất xã Phước Vĩnh An,
10
huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nghị được toàn quyền sở hữu các tài
sản sau: Nhà xưởng 291 đường Lê Văn Khương, tổ 4, khu phố 1, phường Hiệp
Thành, quận 12, TP. Hồ Chí Minh; nhà đất 8B5 Thạnh Lộc, quận 12, thành phố Hồ
Chí Minh.
Xét thấy, Bản thoả thuận về tài sản (là bất động sản) ngày 07/4/2011 nêu
trên chưa được công chứng, chứng thực nên chưa có giá trị pháp lý. Mặt khác, nội
dung Bản thỏa thuận lại phân chia tài sản là nhà đất đã cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu, sử dụng cho các con ông Nghị và bà Tuyết, khi không có ý kiến của các con.
Thực tế thì nhà đất tranh chấp ông Nghị cũng chưa đăng ký kê khai theo quy định
của pháp luật nên nhà đất trên chưa được chuyển quyền cho ông Nghị. Do vây, Toà
án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cho rằng bản thoả thuận về tài sản ngày
07/4/2011, đây là bản thoả thuận cuối cùng, bản phân chia tài sản này không trái
pháp luật, đạo đức xã hội được pháp luật cho phép, để từ đó không chấp nhận yêu
cầu của bà Tuyết chia nhà đất số 291 đường Lê Văn Khương; chấp nhận yêu cầu
phản tố của ông Nghị, giao toàn bộ nhà đất tranh chấp cho ông Nghị được quyền
sở hữu, sử dụng là chưa phù hợp với quy định của pháp luật”.
Rõ ràng từ các quy định có hiệu lực bởi Luật HNGĐ 2000 không có quy
phạm nào buộc Bản thoả thuận về tài sản (là bất động sản) ngày 07/4/2011 nêu trên
phải được công chứng, chứng thực mới có giá trị pháp lý. Nhận định của Toà án
nhân dân tối cao trong Quyết định Giám đốc thẩm số: 215/2015/DS-GĐT cũng
không nêu cơ sở pháp lý nào để củng cố cho lập luận của mình. Điều này làm cho
nhận định của Toà án nhân dân tối cao thiếu tính thuyết phục.
Từ các quy định của Luật HNGĐ 2014, có thể suy ngược lại, nếu vợ chồng tự
tiến hành chia bất động sản chung, pháp luật không quy định văn bản thoả thuận
phân chia phải được công chứng và vợ chồng cũng không có nhu cầu công chứng
thì chỉ vợ và chồng biết về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Bên thứ
ba có mối quan hệ tài sản với một hoặc cả hai bên vợ chồng không biết về sự thay
đổi hình thức sở hữu tài sản của vợ chồng nhưng sự thay đổi đó vẫn phát sinh hiệu
lực với bên thứ ba. Rõ ràng những văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân không được công chứng đem lại khá nhiều rủi ro cho
bên thứ ba, nhất là những người chỉ thực hiện giao dịch với một bên vợ hoặc chồng.
Trong thực tế rất khó kiểm soát việc phân chia của vợ chồng, đặc biệt là xác định
các trường hợp thỏa thuận phân chia để trốn tránh các nghĩa vụ riêng về tài sản của
một bên. Cơ chế giám sát hiệu quả nhất là từ phía người có quyền lợi liên quan, tuy
11
nhiên những người này cũng khó biết được khi nào thì vợ, chồng thỏa thuận phân
chia tài sản chung và thỏa thuận phân chia như thế nào.5
Mặc dù theo quy định của pháp luật hiện hành có thể hiểu một cách rõ ràng là
thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực, nhưng trên thực tế
việc áp dụng pháp luật vẫn chưa thực hiện thống nhất, có nhiều cách áp dụng khác
nhau làm ảnh hưởng đền quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất và chủ sở hữu
tài sản gắn liền với đất. Vì vậy, tác giả đề xuất việc chia tài sản chung của vợ chồng
do tự thoả thuận với nhau dứt khoát phải được Toà án công nhận hoặc phải được
công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật nhằm hạn chế tối đa hành vi
của vợ chồng lợi dụng việc chia tài sản chung để tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ
tài sản đối với người khác.6
So sánh với pháp luật công chứng, rõ ràng có sự khác nhau giữa Luật Công
chứng 2014 với Luật HNGĐ 2014 về thời điểm có hiệu lực của văn bản thoả thuận
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được công chứng theo yêu cầu của vợ
chồng. Khoản 1 Điều 5 Luật Công chứng 2014 quy định: “Văn bản công chứng có
hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề
công chứng”, còn theo Luật HNGĐ 2014 thì thời điểm phát sinh hiệu lực do vợ
chồng thoả thuận trong văn bản hoặc là ngày lập văn bản.
Xét thấy Luật HNGĐ 2014 là văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh
thoả thuận phân chia tài sản chung, vì vậy áp dụng quy định trong Luật HNGĐ năm
2014 sẽ hợp lý hơn. Mặt khác, trong trường hợp này, công chứng không phải điều
kiện bắt buộc để thoả thuận có hiệu lực. Pháp luật vốn không đặt ra sự kiểm soát
nghiêm ngặt đối với những tài sản mà giao dịch liên quan đến tài sản đó không phải
tuân thủ hình thức nhất định, việc công chứng hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện
của vợ chồng. Do đó, trong trường hợp này, không nên áp đặt ngày công chứng là
ngày có hiệu lực của văn bản thỏa thuận. Hơn nữa, khi việc thoả thuận chia tài sản
chung đã có hiệu lực từ ngày lập văn bản, sau đó vợ chồng có nhu cầu công chứng
thì không hợp lý khi phủ nhận hiệu lực trước đó của thoả thuận để xác lập lại thời
điểm có hiệu lực mới.
Tóm lại, quy định như pháp luật hiện hành không chỉ tinh gọn các trường hợp
mà còn thể hiện sự hợp lý hơn vì đề cao quyền tự quyết của vợ chồng.
Trường Đại học Luật TP. HCM (2016), Giáo trình Pháp luật hôn nhân và gia đình, NXB. Hồng Đức, tr. 240
Phan Tấn Pháp, Nguyễn Nho Hoàng (2012), “Một số vấn đề về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1, tr. 20
5
6
12
1.2. Hậu quả pháp lý của việc thoả thuận chia bất động sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân
1.2.1. Về quan hệ tài sản của vợ chồng
Sau khi chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quan hệ tài sản của
vợ chồng có những thay đổi nhất định liên quan đến hình thức sở hữu một số loại tài
sản. Các nguyên tắc xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng tại Điều
33, Điều 43 Luật HNGĐ 2014 cũng mất hiệu lực một phần. Riêng chế độ tài sản
của vợ chồng không thay đổi, gồm cả bất động sản, trước hay sau khi chia tài sản
chung thì chế độ tài sản của vợ chồng luôn là chế độ tài sản theo luật định.
(i) Chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi chế
độ tài sản giữa vợ và chồng.
Dù vợ, chồng tiến hành chia toàn bộ bất động sản chung thì chế độ tài sản
của vợ chồng vẫn là chế độ tài sản theo luật định. Việc chia bất động sản chung khi
hôn nhân đang tồn tại chỉ thay đổi hình thức sở hữu từ chung sang riêng. Những tài
sản còn lại không nằm trong thoả thuận vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng. Khối tài sản chung của vợ chồng mang tính chất mở, chừng nào hôn nhân
còn tồn tại thì khối tài sản đó còn tiếp tục phát sinh và phát triển. Do đó ngay cả
trong trường hợp vợ chồng phân chia toàn bộ tài sản chung thì cũng không làm thay
đổi chế độ tài sản trong tương lai. Pháp luật HNGĐ cũng đã luật hoá nội dung này
thông qua quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP: “Việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản
của vợ chồng theo luật định”.
(ii) Hình thức sở hữu một số loại tài sản thay đổi sau khi phân chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân
Khoản 1 Điều 40 Luật HNGĐ 2014 xác định hậu quả của việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân là “phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ,
chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác; phần tài sản còn lại không
chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng”. Điều luật này được hướng dẫn rõ hơn tại
văn bản hướng dẫn thi hành, theo đó, khoản 2 Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐCP liệt kê những tài sản sau sẽ trở thành tài sản riêng của vợ chồng do hậu quả của
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, bao gồm: phần tài sản được chia;
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác
của vợ, chồng. So sánh với pháp luật giai đoạn trước, phạm vi tài sản bị tác động
13
bởi sự kiện chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại đã có một số thay đổi đáng
kể. Cụ thể, Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định: sau khi chia tài sản chung nếu vợ
chồng không có thoả thuận khác thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản được
chia và thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập hợp pháp
khác sẽ là tài sản riêng của vợ, chồng. Điểm giống nhau giữa các văn bản pháp luật
kể trên là đều công nhận phần tài sản được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản đó là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng.
Việc thay đổi hình thức sở hữu của những tài sản được chia (từ sở hữu chung
hợp nhất trở thành sở hữu riêng) là đương nhiên, vì đây là những tài sản chịu tác động
trực tiếp nhất và rõ ràng nhất từ hành vi phân chia tài sản chung. Trong đa số trường
hợp, hệ quả này là mục đích quan trọng mà các bên hướng đến khi tiến hành chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Nếu phần bất động sản được chia phát sinh hoa lợi,
lợi tức thì những hoa lợi, lợi tức này cũng thuộc về tài sản riêng của một bên.
Dễ thấy, những quy tắc chung về thành phần cấu tạo nên khối tài sản chung
và khối tài sản riêng của vợ, chồng đã có sự thay đổi. Sự kiện phân chia tài sản
chung khi hôn nhân đang tồn tại làm cho một bộ phận tài sản đáng lẽ sẽ là tài sản
chung nay lại trở thành tài sản riêng. Cũng cần lưu ý là hệ quả này chỉ áp dụng cho
hoa lợi, lợi tức phát sinh sau khi đã chia bất động sản chung, những hoa lợi, lợi tức
có trước đó vẫn thuộc tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo quan điểm của tác
giả, sự thay đổi này là hợp lý. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh
và thu nhập hợp pháp khác là nhóm tài sản chủ yếu tạo dựng nên khối tài sản chung
của vợ chồng, thực tế nhiều cặp vợ chồng cũng chỉ sở hữu nguồn tài sản này trong
thời kỳ hôn nhân. Nghĩa là, trong một chừng mực nào đó, hệ quả này sẽ tạo nên
những thay đổi lớn trong mối quan hệ tài sản giữa vợ chồng mà dễ nhận thấy nhất là
sự ràng buộc vợ chồng về tài sản càng trở nên suy yếu. Điều này cũng đồng thời tạo
những ảnh hưởng không tốt đến đời sống vật chất của gia đình khi mà có thể vợ,
chồng phải tính toán phần đóng góp của mình vào việc duy trì gia đình sao cho
không thua thiệt với bên còn lại.
Về mặt lý luận, hệ quả này tạo ra sự bất hợp lý do việc phân chia bất động
gây tác động đến những tài sản không liên quan khác. Trừ trường hợp vợ chồng ghi
nhận cụ thể trong thoả thuận, không có mối liên hệ nào giữa “thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác” với những tài sản
được phân chia. Việc mặc nhiên xác định thu nhập hợp pháp phát sinh sau khi chia
tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng là chưa thật sự phù hợp với quy đinh về
14
căn cứ xác định tài sản chung được thể hiện tại khoản 1 Điều 27 Luật HNGĐ 2000:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh”. Hậu quả pháp lý khi phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân chỉ nên tác động đến những bất động sản mà vợ chồng thoả thuận phân
chia và tài sản khác có liên quan. Đối với những tài sản còn lại cần được áp dụng
các căn cứ xác định tài sản chung và tài sản riêng một cách thống nhất. Hơn nữa,
nếu vợ chồng chỉ tiến hành phân chia một phần bất động sản chung, theo logic
thông thường, họ sẽ không nghĩ và cũng không mong muốn toàn bộ thu nhập làm ra
sau này đều là tài sản riêng. Có quan điểm nhận định rằng: “Sẽ có nhiều người thật
sự bất ngờ nếu biết rằng sau khi chia tài sản chung để trả một món nợ riêng thì tiền
lương, thu nhập do lao động của mình không còn là tài sản chung nữa mà là tài sản
riêng do quy định của pháp luật”.7 Để tránh hiện tượng này, vợ chồng buộc phải ghi
nhận thêm trong văn bản thoả thuận nội dung ngược lại.
Từ những phân tích trên, có thể thấy việc pháp luật hiện hành không đưa
nhóm tài sản “thu nhập do hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu nhập hợp pháp
khác” vào khối tài sản riêng của một bên sau khi chia tài sản chung là hoàn toàn hợp
lý. Hơn nữa, văn bản hướng dẫn còn quy định minh thị: “Từ thời điểm việc chia tài
sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản
riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.8 Rõ ràng đã có sự thay đổi tư duy pháp
lý, lúc này thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh luôn thuộc sở hữu
chung hợp nhất, bất kể có nguồn gốc từ tài sản riêng hay tài sản chung. Sự kiện
phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoàn toàn không ảnh hưởng đến
hình thức sở hữu của nhóm tài sản này. Quy định trên cũng phù hợp với nguyên tắc
suy đoán pháp lý: tài sản không chứng mình được là tài sản riêng của một bên thì
thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Điểm tiến bộ trong pháp luật hiện hành còn nằm
ở việc bổ sung sự điều chỉnh đối với nhóm tài sản dường như bị “bỏ quên” khi xây
dựng Luật HNGĐ 2000, đó là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ,
chồng (những tài sản thuộc sở hữu riêng không phải do việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân). Việc bổ sung thêm nhóm tài sản này giúp các bên quản lý
Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tập II: Các quan hệ
tài sản giữa vợ chồng, NXB. Trẻ, tr. 27
8
Khoản 4 Điều 44, Khoản 2 Điều 45 Luật HNGĐ 2014
7
- Xem thêm -