Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là bất động sản...

Tài liệu Luận văn chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là bất động sản

.PDF
82
1
121

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH LƯƠNG TRỌNG KHA CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN LÀ BẤT ĐỘNG SẢN LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN LÀ BẤT ĐỘNG SẢN Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Định hướng ứng dụng Mã số: 8380103 Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc Học viên : Lương Trọng Kha Lớp : Cao học luật, Bình Thuận Khoá 2 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học thực sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc. Các tài liệu, cơ sở pháp lý, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả Lương Trọng Kha DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Từ, cụm từ được viết tắt Từ, cụm từ viết tắt 1 HNGĐ Hôn nhân và gia đình 2 BLDS Bộ luật dân sự 3 TTDS Tố tụng dân sự TT MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO THỎA THUẬN ................................... 6 1.1. Điều kiện để thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng có hiệu lực pháp luật .......................................................................... 6 1.1.1. Quy định pháp luật.................................................................................... 6 1.1.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện ................................................................ 9 1.2. Hậu quả pháp lý của việc thoả thuận chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .......................................................................... 12 1.2.1. Về quan hệ tài sản của vợ chồng ............................................................. 12 1.2.2. Về quan hệ nhân thân của vợ chồng và nghĩa vụ đối với con chung ....... 16 1.3. Chấm dứt hiệu lực của việc thỏa thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .............................................................. 20 1.3.1. Điều kiện để thoả thuận chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực .................................................... 20 1.3.2. Thời điểm có hiệu lực và hậu quả của việc chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ...................................... 21 1.3.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện .............................................................. 23 1.4. Thoả thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu ............................................................................................... 25 1.4.1. Các trường hợp thoả thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu ......................................................................... 25 1.4.2. Hậu quả của việc chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị tuyên bố vô hiệu ................................................................................................ 28 1.4.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện giải pháp bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba trong trường hợp việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu ............................................................................................... 29 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 33 CHƯƠNG 2. CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO TOÀ ÁN ............................................. 34 2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung vợ, chồng là bất động sản trong thời kỳ hôn nhân ..................................................................... 34 2.1.1. Quy định pháp luật.................................................................................. 34 2.1.2. Bất cập và kiến nghị ................................................................................ 35 2.2. Nguyên tắc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ............................................................................................................ 37 2.2.1. Quy định pháp luật.................................................................................. 37 2.2.2. Bất cập và kiến nghị ................................................................................ 38 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 44 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 45 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Gia đình là tế bào và là hạt nhân của xã hội, là nơi những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống cùng chung sống, nuôi dưỡng, chăm sóc lẫn nhau. Xây dựng gia đình hạnh phúc là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của công cuộc xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ. Sự phát triển ổn định và lành mạnh của gia đình sẽ tác động trực tiếp vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Vấn đề xây dựng và bảo vệ gia đình được tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan tâm, trong đó có Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn chú trọng quan tâm xây dựng gia đình văn hoá, hạnh phúc. Tuy nhiên, trong lĩnh vực pháp lý, bên cạnh việc quy định nhằm xác lập, bảo vệ và gìn giữ gia đình, một nội dung quan trọng khác là tìm cách giải quyết những vấn đề phát sinh trong gia đình, đặc biệt là quan hệ hôn nhân. Mặc dù quan hệ hôn nhân vẫn dựa trên cơ sở tình cảm là trên hết, nhưng khi xã hội vận động và phát triển, bất cứ ai cũng có những nhu cầu riêng về việc sử dụng tài sản. Bởi vậy, khi không có sự phân biệt rạch ròi về nguồn gốc tài sản hay tài sản của ai, đặc biệt là đối với loại tài sản có giá trị lớn như bất động sản thì tranh chấp dễ xảy ra. Vì lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà vợ chồng có nhu cầu chia bất động sản trong thời kì hôn nhân, nên việc pháp luật có quy định và Toà án có cơ chế giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân đã và đang giúp giải quyết nhanh chóng những xung đột phát sinh. Theo thời gian, các quy định của pháp luật dân sự điều chỉnh về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân đã có bước phát triển phù hợp với sự vận động liên tục của xã hội, góp phần quan trọng vào hiệu quả giải quyết vụ việc trên thực tế. Việc nghiên cứu về chế định chia bất động sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là rất cần thiết. Với tất cả những lý do nêu trên, theo tác giả việc chọn đề tài “Chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là bất động sản” làm luận văn thạc sĩ luật học là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chia tài sản là nội dung luôn được đề cập khi xét đến việc giải quyết những vấn đề của quan hệ hôn nhân, tuy nhiên, sự quan tâm dành cho mảng nội dung nhỏ hơn là chia tài sản bất động sản trong thời kì hôn nhân của vợ chồng còn chưa nhiều. Hiện chỉ có một số ít các công trình nghiên cứu đáng chú ý: 2 Bài viết “Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Phùng Trung Tập trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2012. Bài viết này của tác giả Phùng Trung Tập phân tích các quy định pháp luật có liên quan về chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân dưới hiệu lực của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, từ đó chỉ ra các bất cập và kiến nghị, làm cơ sở hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Trong công trình này, loại tài sản là bất động sản được tác giả nhắc đến như là một loại tài sản mà vợ, chồng có thể phân chia, nhưng còn rất mờ nhạt. Hơn nữa, vì bài viết được viết theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên không còn tính thời sự, dẫu vậy, những gợi mở quý giá trong bài viết này giúp tác giả luận văn thực hiện đề tài này. Khoá luận tốt nghiệp “Pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Đặng Lê Phương Uyên năm 2018 tại Trường Đại học Luật TP. HCM. Khoá luận này phân tích toàn diện các quy định pháp luật liên quan đến việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân, trong số đó có nhắc đến bất động sản; tác giả cũng có chỉ ra các bất cập để đề xuất các kiến nghị hoàn thiện. Tuy vậy, vì giới hạn của khoá luận nên thực tiễn giải quyết các tranh chấp hay yêu cầu về chia tài sản chung là bất động sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa có điều kiện để phân tích nhiều. Bài viết “Thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân” của các tác giả Ngô Thị Anh Vân và Đặng Lê Phương Uyên trên Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2019. Bài viết phân tích các nội dung tiêu biểu như: Phạm vi tài sản chung của vợ, chồng được chia trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vì mục đích đầu tư kinh doanh; bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi vợ, chồng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Trong mỗi phần, các tác giả phân tích các quy định pháp luật hiện hành và có đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Bài viết phân tích sâu các vấn đề tổng thể, trong đó có đề cập đến tài sản là bất động sản, gồm cả các bất động sản hình thành trong tương lai. Một vài phân tích trong nghiên cứu này liên quan trực tiếp đến đề tài mà tác giả đang thực hiện. Bài viết “Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Nguyễn Thị Hường đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/2020. Bài viết này đề cập đến khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng quy định về thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị. Bài viết có nhấn mạnh đến một vài khía cạnh pháp lý liên quan đến 3 chia tài sản là bất động sản, như là một loại tài sản phức tạp nhất và dễ gây ra các tranh chấp sau này. Bài viết “Hiệu lực của hợp đồng chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Vũ Thị Thanh Huyền trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 339/2020; hay như bài viết “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng chia tài sản chung vợ chồng trong kỳ hôn nhân” cũng của tác giả Vũ Thị Thanh Huyền trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 346/2021. Các bài viết phân tích công phu các điều kiện để thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực, đặc biệt là đối với việc chia bất động sản, vấn đề có nên công chứng hợp đồng này hay không cũng được tác giả đề cập sâu sắc. Tuy vậy, các bài viết chủ yếu tập trung phân tích các quy định pháp luật hiện hành mà chưa liên hệ thực tiễn xét xử trong lĩnh vực này. Những công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân ở những khía cạnh, góc độ và mức độ khác nhau. Trong một số công trình cũng đã đề cập đến việc chia bất động sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, nhưng chưa sâu, chưa có nhiều nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật ở mảng này, đặc biệt là giai đoạn năm 2015 đến nay, tức thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực. Vì vậy đề tài mà tác giả thực hiện đảm bảo tính mới, tính thời sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là bất động sản, căn cứ chia tài sản, phương thức chia tài sản, hệ quả pháp lý của chia bất động sản trong thời kì hôn nhân của vợ chồng, chỉ ra những bất cập, đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về các vấn đề trọng tâm của đề tài luận văn này: - Xác định hiệu lực pháp luật của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng là bất động sản, phương thức chia và hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng là bất động sản. - Tìm hiểu về thực trạng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng là bất động sản trong thực tiễn xét xử tại các toà án các cấp. 4 - Chỉ ra những vướng mắc, bất cập đang tồn tại trong các quy định pháp luật hoặc thực tiễn xét xử, để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về chia bất động sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân tại các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp như Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Với tính chất ứng dụng thực tiễn, luận văn tập trung vào phân tích một số vụ việc thực tế do Toà án thụ lý giải quyết, nhằm làm sáng tỏ những quy định của pháp luật, chỉ ra những ưu điểm và tồn tại của các quy định hiện hành còn gây vướng mắc, khó khăn cho công tác xét xử, từ đó đóng góp ý kiến hoàn thiện pháp luật về giải quyết chia bất động sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là bất động sản theo các khía cạnh: các phương thức chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân và hệ quả pháp lý của việc chia này; hiệu lực pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trên thực tiễn xét xử giải quyết các tranh chấp có liên quan tại toà án, từ đó tìm ra những vướng mắc phát sinh và phương hướng giải quyết. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp bình luận án, tổng kết thực tiễn...để phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu đặt ra. Thứ nhất, phương pháp phân tích Phương pháp này được tác giả sử dụng để phân tích các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật, vì vậy trong toàn bộ luận văn đều sử dụng phương pháp này. Thứ hai, phương pháp tổng hợp Phương pháp này được tác giả sử dụng để tổng kết lại các vấn đề đã phân tích trong từng mục của luận văn và để tổng hợp nội dung của mỗi chương và đưa ra kết luận chung cho toàn luận văn. Thứ ba, phương pháp so sánh 5 Phương pháp này được sử dụng để so sánh các quy định hiện hành về chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng với các giai đoạn trước đây và với các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan, để rút ra những điểm thuận lợi cũng như những tồn tại, hạn chế nhằm hướng đến việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Thứ tư, phương pháp bình luận bản án: phương pháp được sử dụng nhằm phân tích, bình luận thực tiễn việc chia bất động sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nhằm thấy được những bất cập, vướng mắc của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. 6. Dự kiến kết quả nghiên cứu Luận văn này góp phần tạo ra một tài liệu tham khảo có giá trị cho các chủ thể nghiên cứu pháp luật. Luận văn không chỉ có trị phục vụ trong nghiên cứu học thuật, mà còn có thể được sử dụng làm tư liệu cho những người tham gia vào quan hệ pháp luật chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng là bất động sản; những người tham gia giải quyết, xét xử, áp dụng pháp luật có thêm nguồn tài liệu tham khảo, góp phần hoàn thiện việc giải quyết yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng là bất động sản. 6 CHƯƠNG 1 CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO THỎA THUẬN 1.1. Điều kiện để thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng có hiệu lực pháp luật 1.1.1. Quy định pháp luật Điều kiện có hiệu lực của việc thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng có hiệu lực pháp luật bao gồm: điều kiện về ý chí, điều kiện về hình thức. Thứ nhất, điều kiện về ý chí của vợ và chồng để thoả thuận phân chia bất động sản trong thời kì hôn nhân có hiệu lực pháp luật. Điều kiện có hiệu lực về ý chí cho biết ý chí của chủ thể hoặc những chủ thể nào sẽ làm phát sinh việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Khoản 1 Điều 219 BLDS 2015 quy định trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung. Vì sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia nên vợ và chồng đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung. Luật HNGĐ 2014 khẳng định vợ chồng được trao quyền tự do định đoạt việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Khoản 1 Điều 38 Luật HNGĐ 2014 quy định “Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Có thể thấy rằng, pháp luật HNGĐ vẫn bảo vệ quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng theo hướng đề cao sự thống nhất ý chí của các chủ sở hữu. Quy định như vậy là hợp lý vì hành vi chia tài sản chung chính là một trường hợp định đoạt tài sản chung của vợ chồng và theo nguyên tắc luật định thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung phải do vợ chồng thoả thuận.1 Mặt khác, việc phân chia dựa trên thoả thuận giữa vợ chồng sẽ phù hợp với tính chất của tài sản chung hợp nhất, do phần quyền của mỗi chủ sở hữu không được xác định theo tỷ lệ nên khó có thể cho rằng một bên được tuỳ ý đơn phương tách riêng phần tài sản thuộc sở hữu của mình ra khỏi khối tài sản chung. Khác với chủ sở hữu chung theo phần được pháp luật trao quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình, chủ sở hữu chung hợp nhất chỉ được định đoạt tài sản theo thoả 1 Khoản 1 Điều 35 Luật HNGĐ 2014 7 thuận với các chủ sở hữu chung khác hoặc theo quy quy định của pháp luật. Việc khuyến khích sự thống nhất ý chí từ cả hai phía, một mặt tôn trọng quyền tự quyết của vợ chồng, mặt khác hướng đến bảo đảm tính ổn định, bền vững của gia đình thể hiện qua sự kiện vợ chồng đồng thuận. Luật HNGĐ 2014 không đặt ra yêu cầu về lý do phân chia tài sản chung nói chung và bất động sản nói riêng trong thời kỳ hôn nhân. Đây là nội dung tiến bộ so với quy định của Luật HNGĐ 2000. Điều 29 Luật HNGĐ 2000 giới hạn điều kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong ba trường hợp luật định, bao gồm: đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng và có lý do chính đáng khác.2 Với Luật HNGĐ 2000, khi tranh chấp diễn ra, vợ chồng phải luôn chứng minh được lý do chính đáng cho việc phân chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân. Trong khi đó, về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền tự do định đoạt tài sản của mình, miễn là không trái pháp luật và không gây thiệt hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.3 Bản chất việc phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một quan hệ dân sự, mà cốt lõi trong quan hệ dân sự là ý chí đồng thuận của các bên tham gia. Việc giới hạn các trường hợp được tiến hành phân chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại đã phủ nhận phần lớn quyền tự định đoạt của chủ sở hữu và quyền tự thoả thuận của các chủ thể trong quan hệ dân sự. So với pháp luật HNGĐ giai đoạn trước, quy định hiện nay đảm bảo tốt hơn quyền lợi của chủ sở hữu tài sản cũng như thể hiện đúng bản chất quyền sở hữu trong pháp luật dân sự. Chỉ cần nội dung thoả thuận không vi phạm các trường hợp vô hiệu luật định thì vợ chồng - với tư cách là chủ sở hữu tài sản - được toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Thứ hai, điều kiện về hình thức của thoả thuận phân chia bất động sản của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân có hiệu lực pháp luật. Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể được thể hiện dưới dạng văn bản thoả thuận hoặc bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Trừ trường hợp một bên đơn phương yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, việc phân chia này chỉ có thể tiến hành khi có sự thoả thuận giữa vợ và chồng. Thỏa thuận chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại là một trong những giao dịch dân sự mà pháp luật quy định hình thức là điều kiện để giao dịch phát sinh hiệu lực. 2 3 Khoản 1 Điều 29 Luật HNGĐ 2000 Khoản 1 Điều 3 BLDS 2015 8 Theo khoản 2 Điều 38 Luật HNGĐ 2014: “Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật”. Việc chia tài sản chung được ưu tiên thực hiện theo hình thức thoả thuận giữa vợ chồng. Tuy nhiên để đảm bảo tính hợp pháp, Luật HNGĐ 2014 quy định thoả thuận này phải được lập thành văn bản. Theo pháp luật về công chứng và chứng thực thì không có quy định về việc bắt buộc phải công chứng, chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.4 Theo Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất phải công chứng, chứng thực thì không có quy định đối với văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bắt buộc phải công chứng, chứng thực. Theo quy định của Luật Đất đai 2013, đối với văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì không thuộc trường hợp bắt buộc phải công chứng, chứng thực khi thực hiện quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất. Sự khác nhau giữa những giao dịch phải công chứng, chứng thực theo Luật Đất đai 2013 và thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không bắt buộc phải công chứng, chứng thực như sau: Các giao dịch bắt buộc phải công chứng, chứng thực theo quy định của Luật Đất đai 2013 là những giao dịch thực hiện giữa một bên là người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất và một bên không phải là người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất. Do đó, các giao dịch này cần được công chứng, chứng thực để phòng ngừa rủi ro trong giao dịch chuyển quyền; để xác định một bên có quyền hợp pháp với tài sản và một bên có quyền nhận chuyển quyền hợp pháp với tài sản đó. Đối với giao dịch thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (không bắt buộc phải công chứng, chứng thực theo quy đinh của Luật Đất đai 2013), đây là giao dịch giữa hai bên cùng là người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đang cùng có quyền hợp pháp đối với tài sản chung được pháp luật công nhận và bảo vệ. Vì vậy, họ có quyền tự thỏa thuận với nhau phân chia quyền lợi của mình trong khối tài sản sản chung đó Luật Công chứng 2014, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch 4 9 mà không bắt buộc phải công chứng, chứng thực. Ngoài ra, trong thành phần hồ sơ để thực hiện thủ tục thành chính đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp thỏa thuận hợp nhất hoặc phân chia quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của vợ và chồng tại Điều 84 Nghị định 43/2014/NĐ-CP và tại khoản 5 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT cũng không có quy định bắt buộc văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải công chứng, chứng thực. Như vậy, từ những căn cứ pháp lý trên có thể nhận định rằng, thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực. Quyền sử dụng đất là bất động sản, thuộc loại tài sản phải đăng ký, vì vậy mặc dù pháp luật không quy định bắt buộc việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải được công chứng, chứng thực nhưng với đối tượng là bất động sản thì việc công chứng là cần thiết. Đây cũng là căn cứ trong trường hợp có tranh chấp cần phải giải quyết tại Toà án. 1.1.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện Pháp luật hiện hành không bắt buộc phải công chứng, chứng thực đối với giao dịch thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tuy nhiên, giao dịch này có thể được công chứng, chứng thực nếu người sử dụng đất, và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất yêu cầu công chứng, chứng thực. Quy định này vốn tồn tại từ Luật HNGĐ 2000 và Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Trong thực tiễn xét xử, có Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cho rằng Bản thoả thuận phân chia tài sản không trái pháp luật, đạo đức xã hội, được pháp luật cho phép thì Bản thoả thuận vẫn có hiệu lực dù không công chứng. Tuy nhiên, quan điểm này đã bị Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao bác bỏ. Theo đó, Bản thoả thuận về tài sản là bất động sản chưa được công chứng, chứng thực nên chưa có giá trị pháp lý. Quyết định Giám đốc thẩm số 215/2015/DS-GĐT về vụ án: “Hôn nhân và gia đình” của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao có đoạn: “Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện: Trước khi có đơn khởi kiện, này 07/4/2011 giữa ông Nghị và bà Tuyết có lập “Bản thỏa thuận về tài sản” với nội dung: “Bà Tuyết được toàn quyền sở hữu các tài sản sau: Nhà số 114 Cộng Hòa, phường 4, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh; nhà số 60/12/32 Cách Mạng Tháng Tám, phường 15, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh; đất xã Phước Vĩnh An, 10 huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nghị được toàn quyền sở hữu các tài sản sau: Nhà xưởng 291 đường Lê Văn Khương, tổ 4, khu phố 1, phường Hiệp Thành, quận 12, TP. Hồ Chí Minh; nhà đất 8B5 Thạnh Lộc, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Xét thấy, Bản thoả thuận về tài sản (là bất động sản) ngày 07/4/2011 nêu trên chưa được công chứng, chứng thực nên chưa có giá trị pháp lý. Mặt khác, nội dung Bản thỏa thuận lại phân chia tài sản là nhà đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng cho các con ông Nghị và bà Tuyết, khi không có ý kiến của các con. Thực tế thì nhà đất tranh chấp ông Nghị cũng chưa đăng ký kê khai theo quy định của pháp luật nên nhà đất trên chưa được chuyển quyền cho ông Nghị. Do vây, Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cho rằng bản thoả thuận về tài sản ngày 07/4/2011, đây là bản thoả thuận cuối cùng, bản phân chia tài sản này không trái pháp luật, đạo đức xã hội được pháp luật cho phép, để từ đó không chấp nhận yêu cầu của bà Tuyết chia nhà đất số 291 đường Lê Văn Khương; chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nghị, giao toàn bộ nhà đất tranh chấp cho ông Nghị được quyền sở hữu, sử dụng là chưa phù hợp với quy định của pháp luật”. Rõ ràng từ các quy định có hiệu lực bởi Luật HNGĐ 2000 không có quy phạm nào buộc Bản thoả thuận về tài sản (là bất động sản) ngày 07/4/2011 nêu trên phải được công chứng, chứng thực mới có giá trị pháp lý. Nhận định của Toà án nhân dân tối cao trong Quyết định Giám đốc thẩm số: 215/2015/DS-GĐT cũng không nêu cơ sở pháp lý nào để củng cố cho lập luận của mình. Điều này làm cho nhận định của Toà án nhân dân tối cao thiếu tính thuyết phục. Từ các quy định của Luật HNGĐ 2014, có thể suy ngược lại, nếu vợ chồng tự tiến hành chia bất động sản chung, pháp luật không quy định văn bản thoả thuận phân chia phải được công chứng và vợ chồng cũng không có nhu cầu công chứng thì chỉ vợ và chồng biết về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Bên thứ ba có mối quan hệ tài sản với một hoặc cả hai bên vợ chồng không biết về sự thay đổi hình thức sở hữu tài sản của vợ chồng nhưng sự thay đổi đó vẫn phát sinh hiệu lực với bên thứ ba. Rõ ràng những văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không được công chứng đem lại khá nhiều rủi ro cho bên thứ ba, nhất là những người chỉ thực hiện giao dịch với một bên vợ hoặc chồng. Trong thực tế rất khó kiểm soát việc phân chia của vợ chồng, đặc biệt là xác định các trường hợp thỏa thuận phân chia để trốn tránh các nghĩa vụ riêng về tài sản của một bên. Cơ chế giám sát hiệu quả nhất là từ phía người có quyền lợi liên quan, tuy 11 nhiên những người này cũng khó biết được khi nào thì vợ, chồng thỏa thuận phân chia tài sản chung và thỏa thuận phân chia như thế nào.5 Mặc dù theo quy định của pháp luật hiện hành có thể hiểu một cách rõ ràng là thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực, nhưng trên thực tế việc áp dụng pháp luật vẫn chưa thực hiện thống nhất, có nhiều cách áp dụng khác nhau làm ảnh hưởng đền quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất. Vì vậy, tác giả đề xuất việc chia tài sản chung của vợ chồng do tự thoả thuận với nhau dứt khoát phải được Toà án công nhận hoặc phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật nhằm hạn chế tối đa hành vi của vợ chồng lợi dụng việc chia tài sản chung để tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người khác.6 So sánh với pháp luật công chứng, rõ ràng có sự khác nhau giữa Luật Công chứng 2014 với Luật HNGĐ 2014 về thời điểm có hiệu lực của văn bản thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng. Khoản 1 Điều 5 Luật Công chứng 2014 quy định: “Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng”, còn theo Luật HNGĐ 2014 thì thời điểm phát sinh hiệu lực do vợ chồng thoả thuận trong văn bản hoặc là ngày lập văn bản. Xét thấy Luật HNGĐ 2014 là văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh thoả thuận phân chia tài sản chung, vì vậy áp dụng quy định trong Luật HNGĐ năm 2014 sẽ hợp lý hơn. Mặt khác, trong trường hợp này, công chứng không phải điều kiện bắt buộc để thoả thuận có hiệu lực. Pháp luật vốn không đặt ra sự kiểm soát nghiêm ngặt đối với những tài sản mà giao dịch liên quan đến tài sản đó không phải tuân thủ hình thức nhất định, việc công chứng hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của vợ chồng. Do đó, trong trường hợp này, không nên áp đặt ngày công chứng là ngày có hiệu lực của văn bản thỏa thuận. Hơn nữa, khi việc thoả thuận chia tài sản chung đã có hiệu lực từ ngày lập văn bản, sau đó vợ chồng có nhu cầu công chứng thì không hợp lý khi phủ nhận hiệu lực trước đó của thoả thuận để xác lập lại thời điểm có hiệu lực mới. Tóm lại, quy định như pháp luật hiện hành không chỉ tinh gọn các trường hợp mà còn thể hiện sự hợp lý hơn vì đề cao quyền tự quyết của vợ chồng. Trường Đại học Luật TP. HCM (2016), Giáo trình Pháp luật hôn nhân và gia đình, NXB. Hồng Đức, tr. 240 Phan Tấn Pháp, Nguyễn Nho Hoàng (2012), “Một số vấn đề về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1, tr. 20 5 6 12 1.2. Hậu quả pháp lý của việc thoả thuận chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 1.2.1. Về quan hệ tài sản của vợ chồng Sau khi chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quan hệ tài sản của vợ chồng có những thay đổi nhất định liên quan đến hình thức sở hữu một số loại tài sản. Các nguyên tắc xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng tại Điều 33, Điều 43 Luật HNGĐ 2014 cũng mất hiệu lực một phần. Riêng chế độ tài sản của vợ chồng không thay đổi, gồm cả bất động sản, trước hay sau khi chia tài sản chung thì chế độ tài sản của vợ chồng luôn là chế độ tài sản theo luật định. (i) Chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi chế độ tài sản giữa vợ và chồng. Dù vợ, chồng tiến hành chia toàn bộ bất động sản chung thì chế độ tài sản của vợ chồng vẫn là chế độ tài sản theo luật định. Việc chia bất động sản chung khi hôn nhân đang tồn tại chỉ thay đổi hình thức sở hữu từ chung sang riêng. Những tài sản còn lại không nằm trong thoả thuận vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Khối tài sản chung của vợ chồng mang tính chất mở, chừng nào hôn nhân còn tồn tại thì khối tài sản đó còn tiếp tục phát sinh và phát triển. Do đó ngay cả trong trường hợp vợ chồng phân chia toàn bộ tài sản chung thì cũng không làm thay đổi chế độ tài sản trong tương lai. Pháp luật HNGĐ cũng đã luật hoá nội dung này thông qua quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP: “Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định”. (ii) Hình thức sở hữu một số loại tài sản thay đổi sau khi phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Khoản 1 Điều 40 Luật HNGĐ 2014 xác định hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là “phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác; phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng”. Điều luật này được hướng dẫn rõ hơn tại văn bản hướng dẫn thi hành, theo đó, khoản 2 Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐCP liệt kê những tài sản sau sẽ trở thành tài sản riêng của vợ chồng do hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, bao gồm: phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng. So sánh với pháp luật giai đoạn trước, phạm vi tài sản bị tác động 13 bởi sự kiện chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại đã có một số thay đổi đáng kể. Cụ thể, Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định: sau khi chia tài sản chung nếu vợ chồng không có thoả thuận khác thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản được chia và thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác sẽ là tài sản riêng của vợ, chồng. Điểm giống nhau giữa các văn bản pháp luật kể trên là đều công nhận phần tài sản được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng. Việc thay đổi hình thức sở hữu của những tài sản được chia (từ sở hữu chung hợp nhất trở thành sở hữu riêng) là đương nhiên, vì đây là những tài sản chịu tác động trực tiếp nhất và rõ ràng nhất từ hành vi phân chia tài sản chung. Trong đa số trường hợp, hệ quả này là mục đích quan trọng mà các bên hướng đến khi tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Nếu phần bất động sản được chia phát sinh hoa lợi, lợi tức thì những hoa lợi, lợi tức này cũng thuộc về tài sản riêng của một bên. Dễ thấy, những quy tắc chung về thành phần cấu tạo nên khối tài sản chung và khối tài sản riêng của vợ, chồng đã có sự thay đổi. Sự kiện phân chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại làm cho một bộ phận tài sản đáng lẽ sẽ là tài sản chung nay lại trở thành tài sản riêng. Cũng cần lưu ý là hệ quả này chỉ áp dụng cho hoa lợi, lợi tức phát sinh sau khi đã chia bất động sản chung, những hoa lợi, lợi tức có trước đó vẫn thuộc tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo quan điểm của tác giả, sự thay đổi này là hợp lý. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác là nhóm tài sản chủ yếu tạo dựng nên khối tài sản chung của vợ chồng, thực tế nhiều cặp vợ chồng cũng chỉ sở hữu nguồn tài sản này trong thời kỳ hôn nhân. Nghĩa là, trong một chừng mực nào đó, hệ quả này sẽ tạo nên những thay đổi lớn trong mối quan hệ tài sản giữa vợ chồng mà dễ nhận thấy nhất là sự ràng buộc vợ chồng về tài sản càng trở nên suy yếu. Điều này cũng đồng thời tạo những ảnh hưởng không tốt đến đời sống vật chất của gia đình khi mà có thể vợ, chồng phải tính toán phần đóng góp của mình vào việc duy trì gia đình sao cho không thua thiệt với bên còn lại. Về mặt lý luận, hệ quả này tạo ra sự bất hợp lý do việc phân chia bất động gây tác động đến những tài sản không liên quan khác. Trừ trường hợp vợ chồng ghi nhận cụ thể trong thoả thuận, không có mối liên hệ nào giữa “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác” với những tài sản được phân chia. Việc mặc nhiên xác định thu nhập hợp pháp phát sinh sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng là chưa thật sự phù hợp với quy đinh về 14 căn cứ xác định tài sản chung được thể hiện tại khoản 1 Điều 27 Luật HNGĐ 2000: “Tài sản chung của vợ chồng gồm thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh”. Hậu quả pháp lý khi phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ nên tác động đến những bất động sản mà vợ chồng thoả thuận phân chia và tài sản khác có liên quan. Đối với những tài sản còn lại cần được áp dụng các căn cứ xác định tài sản chung và tài sản riêng một cách thống nhất. Hơn nữa, nếu vợ chồng chỉ tiến hành phân chia một phần bất động sản chung, theo logic thông thường, họ sẽ không nghĩ và cũng không mong muốn toàn bộ thu nhập làm ra sau này đều là tài sản riêng. Có quan điểm nhận định rằng: “Sẽ có nhiều người thật sự bất ngờ nếu biết rằng sau khi chia tài sản chung để trả một món nợ riêng thì tiền lương, thu nhập do lao động của mình không còn là tài sản chung nữa mà là tài sản riêng do quy định của pháp luật”.7 Để tránh hiện tượng này, vợ chồng buộc phải ghi nhận thêm trong văn bản thoả thuận nội dung ngược lại. Từ những phân tích trên, có thể thấy việc pháp luật hiện hành không đưa nhóm tài sản “thu nhập do hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác” vào khối tài sản riêng của một bên sau khi chia tài sản chung là hoàn toàn hợp lý. Hơn nữa, văn bản hướng dẫn còn quy định minh thị: “Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.8 Rõ ràng đã có sự thay đổi tư duy pháp lý, lúc này thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh luôn thuộc sở hữu chung hợp nhất, bất kể có nguồn gốc từ tài sản riêng hay tài sản chung. Sự kiện phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoàn toàn không ảnh hưởng đến hình thức sở hữu của nhóm tài sản này. Quy định trên cũng phù hợp với nguyên tắc suy đoán pháp lý: tài sản không chứng mình được là tài sản riêng của một bên thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Điểm tiến bộ trong pháp luật hiện hành còn nằm ở việc bổ sung sự điều chỉnh đối với nhóm tài sản dường như bị “bỏ quên” khi xây dựng Luật HNGĐ 2000, đó là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng (những tài sản thuộc sở hữu riêng không phải do việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân). Việc bổ sung thêm nhóm tài sản này giúp các bên quản lý Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tập II: Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, NXB. Trẻ, tr. 27 8 Khoản 4 Điều 44, Khoản 2 Điều 45 Luật HNGĐ 2014 7
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan