TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
NGUYỄN DUY PHÚC
CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG THEO
LUẬT THƯƠNG MẠI 2005
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG THEO
LUẬT THƯƠNG MẠI 2005
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN DUY PHÚC
Khóa: 2017 – 2021
MSSV: 1753801011150
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. NGUYỄN HOÀNG THÙY TRANG
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Thùy Trang, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 06 năm 2021
Tác giả
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật dân sự
BTHĐHĐ
Buộc thực hiện đúng hợp đồng
CISG
Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế
LTM
Luật Thương mại
PICC 2004
Nguyên tắc hợp đồng Thương mại
Quốc tế 2004 của Unidroit
PLHĐKT 1989
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG………… .........................................................................................................6
1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ..............6
1.1.1.
Khái niệm chế tài trong thương mại ....................................................6
1.1.2.
Khái niệm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ...............................7
1.1.3.
Đặc điểm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ................................8
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam .............................................................................11
1.2.1.
Giai đoạn trước năm 1997 .................................................................11
1.2.2.
Giai đoạn từ sau năm 1997 ................................................................12
1.3. Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng .................................13
1.3.1.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong trường
hợp mà các bên đã thỏa thuận ...........................................................................13
1.3.2.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong trường
hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng ......................................................................14
1.3.3.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng khi hành vi vi
phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia ...............................................15
1.3.4.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng khi hành vi vi
phạm của một bên do thực hiện quyết định của của cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng…… ...........................................................................................................16
1.4. Vấn đề giới hạn việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.........17
1.5. Vấn đề gia hạn thực hiện nghĩa vụ ..............................................................18
1.6. Hệ quả pháp lý của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ...21
1.7. Ý nghĩa của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ....................................22
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC
HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG .....................................................................................24
2.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng.. .....................................................................................................................26
2.1.1.
Thực trạng quy định pháp luật về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng ...........................................................................................26
2.1.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng ...........................................................................................31
2.2. Thực trạng pháp luật về cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng.. .....................................................................................................................32
2.2.1.
Thực trạng quy định pháp luật về cách thức áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng ...................................................................................32
2.2.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật về cách thức áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng ...........................................................................................37
2.3. Thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng và một số chế tài khác trong thương mại .....................................................41
2.3.1.
Thực trạng quy định pháp luật về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng và một số chế tài khác trong thương mại .........................41
2.3.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng và một số chế tài khác trong thương mại .........................45
KẾT LUẬN ..............................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Phi thương bất phú” đó là câu thành ngữ được đúc kết cho thấy vai trò quan
trọng của thương mại đối với nền kinh tế. Vai trò đó trước hết được thể hiện ở việc
thương mại thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Tiếp theo đó là thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phân phối các nguồn lực của nền kinh tế đồng thời
là góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Theo báo cáo tổng kết công tác năm
2020 và 5 năm 2016 - 2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021 ngành Công Thương thì
ngành thương mại và dịch vụ đóng góp 1,487,625.6 tỷ đồng trên tổng số 3,847,181.6
tỷ đồng (xấp xỉ 38.67% - chiếm tỉ trọng cao nhất trong tất cả các ngành kinh tế) cho
GDP năm 2020 theo giá so sánh và có tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016
– 2020 là 106.20%/năm1. Như vậy, thương mại là một trong những hoạt động quan
trọng của nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay, để điều chỉnh hoạt động thương mại ở
nước ta thì có các văn bản như LTM 2005, Luật Quản lý ngoại thương 2017,… còn
trước đây thì có LTM 1997 hay xa hơn nữa là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 điều
chỉnh các hợp đồng kinh tế.
Do tính chất của các hoạt động thương mại là việc thực hiện các hoạt động
nhằm sinh lợi mà các hoạt động này có giá trị về kinh tế tương đối lớn, vì vậy để đảm
bảo việc sản xuất, kinh doanh diễn ra một cách trôi chảy thì giữa các chủ thể (chủ yếu
là các thương nhân) sẽ thường tồn tại các hợp đồng thương mại. Các hợp đồng thương
mại này có thể là hợp đồng đầu tư, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,… Để các
hợp đồng nói trên được thực thi một cách có hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của các bên
tham gia hợp đồng thương mại thì ngoài thiện chí thực hiện của các bên thì việc quy
định các chế tài trong thương mại cũng là một công cụ hữu hiệu. Luật Thương mại
2005 ra đời đã ghi nhận 6 loại chế tài trong thương mại và ghi nhận biện pháp mở do
các bên tự thỏa thuận. Một trong những chế tài thường được áp dụng nhiều nhất là
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng2. Tuy nhiên, do việc ra đời đã hơn 15 năm mà
các yếu tố kinh tế, xã hội luôn luôn vận động, biến đổi đã dẫn đến một số sự sai khác,
bất cập giữa quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng của chế tài buộc thực hiện đúng
Bộ Công Thương(2020), Phụ lục I “Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020, triển khai
nhiệm vụ năm 2021 ngành Công Thương”.
2
Theo thống kê của tác giả, chỉ tính riêng đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa thì trong 04 tháng đầu năm
2021, trong tổng số 53 bản án, quyết định được công bố trên trang web [http://congbobanan.toaan.gov.vn/]
(truy cập lần cuối ngày 22/5/2021) thì có tới 42 bản án, quyết định mà nội dung có đề cập đến việc một trong
các bên đã áp dụng hoặc yêu cầu Tòa án áp dụng việc BTHĐHĐ. Con số này cao hơn rất nhiều so với các chế
tài Phạt vi phạm, Hủy bỏ hợp đồng (3 vụ), Đình chỉ hợp đồng (2 vụ).
1
1
hợp đồng theo Luật Thương mại 2005. Từ những lí do kể trên, tác giả lựa chọn đề tài
“Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Luật Thương mại 2005” để thực hiện
công trình khóa luận.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một trong những chế tài quan trọng
của Luật Thương mại 2005. Trải qua thời gian dài được quy định trong các văn bản
pháp luật và được áp dụng trong thực tiễn thì việc nghiên cứu về chế tài này cũng đã
được thực hiện rất nhiều bởi nhiều tác giả khác nhau với nhiều công trình nghiên cứu.
Dưới đây tác giả khóa luận liệt kê một số công trình nghiên cứu nổi bật về chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng mà tác giả đã nghiên cứu để tham khảo trong việc thực
hiện Khóa luận tốt nghiệp.
Nguyễn Ngọc Hiếu (2011), Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật
thương mại, luận văn Ths Luật học, Đại học Luật TP HCM. Đề tài này làm rõ cơ sở
lý luận, thực trạng pháp lý và áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong
thực tiễn xét xử. Qua đó cung cấp kiến thức pháp lý cần thiết cho các bên trong quá
trình thực hiện hợp đồng thương mại, góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về
vấn đề này.
Đặng Hoa Trang (2014), Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Công
ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật thương mại Việt
Nam, luận văn Ths Luật học, ĐH Luật TP HCM. Đề tài này nghiên cứu thực trạng
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật thương mại Việt Nam và quy
định của Công ước Viên 1980. Đưa ra những so sánh làm cơ sở khoa học đề kiến
nghị hoàn thiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng dưới khía cạnh giải thích và áp
dụng pháp luật.
Mai Bích Việt (2014), Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của Bộ
luật dân sự Việt Nam 2005, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, trường đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh. Công trình chủ yếu nghiên cứu về vấn đề buộc thực hiện đúng hợp
đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 và có khai thác thêm quy định của pháp
luật nước ngoài và thực trạng của quy định pháp luật đồng thời đưa ra các kiến nghị
để hoàn thiện pháp luật dân sự Việt Nam về chế định này.
Mã Thị Bích Mai (2017), Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, Khóa luận
tốt nghiệp cử nhân Luật, trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Đề tài này làm rõ chế
tài buộc thực hiện đúng hợp đồng với cách tiếp cận những nội dung như khái niệm,
đặc điểm, cách thức áp dụng, các trường hợp không áp dụng, điều kiện áp dụng, chức
2
năng, vai trò, quan hệ và nghiên cứu việc thực thi pháp luật về chế tài, từ đó đưa ra
những kiến nghị.
Đỗ Văn Đại (2010), Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật
thực định Việt Nam, đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ, TP.Hồ Chí Minh; Đỗ Văn
Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc thực hiện không đúng hợp đồng trong pháp luật
Việt Nam (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu độc lập, chuyên sâu về chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng thì đề tài này còn được nghiên cứu với tư cách là một bộ phận
của rất nhiều các công trình nghiên cứu khác nhau. Có thể kể đến đó là các công trình
như Nguyễn Hải Long (2017), Các chế tài đối với vi phạm hợp đồng song vụ theo
pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạ Khánh
Hà (2012), chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội;v.v…
Ngoài ra, còn nhiều công trình khác là các bài viết có liên quan được đăng trên
các tạp chí khoa học pháp lý như bài viết “Bất cập trong việc áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng và tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong thương mại – một
số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thanh Tùng đăng trên tạp chí Luật học số 7/2015;
Bài viết “Một số ý kiến liên quan đến các quy định về chế tài trong thương mại theo
các quy định của Luật Thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Khế đăng trên tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 01(237) năm 2018; Nguyễn Thị Thanh Huyền (2021), “Bàn
về cơ sở tồn tại và vấn đề giới hạn phạm vi áp dụng của chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng” được đăng tải trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3(395),2021. Bên
cạnh đó là các bài viết trên internet có thể kể đến như “Một số quy định về chế tài
của Luật Thương mại năm 2005 cần được hoàn thiện” (2016) của tác giả Lê Văn Sua
mà chế tài BTHĐHĐ là một phần của bài viết; Hồ Ngọc Hiển, Đỗ Giang Nam, “Một
số vấn đề về biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam”. Đồng thời rất nhiều công trình nghiên cứu khác là nguồn tài liệu phong phú
tạo điều kiện để tác giả có cơ hội hoàn thành tốt công trình khóa luận này.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả mong muốn khóa luận có thể góp
một phần quan điểm, phân tích, tổng hợp các chế định của pháp luật có liên quan, cơ
sở lý luận về nhưng không giới hạn ở bản chất chế tài BTHĐHĐ, điều kiện áp dụng,
cách thức áp dụng, hệ quả pháp lý, mối quan hệ với các chế tài khác trong LTM nhằm
giúp các tổ chức, cá nhân quan tâm đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong
Luật Thương mại có thêm nguồn tư liệu tham khảo trong việc thực hiện chế tài cũng
3
như là hoàn thiện chế định nêu trên. Bên cạnh đó là đóng góp một cái nhìn ở góc độ
thực tiễn để nhận biết các vướng mắc, bất cập liên quan đến chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng để đưa ra những kiến nghị, hướng giải quyết trong tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các văn bản quy
phạm pháp luật, bản án, các quan điểm khoa học về chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng.
Về phạm vi nghiên cứu: Vì chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một vấn
đề pháp lý tương đối rộng, được ghi nhận, quy định ở trong nhiều văn bản pháp luật
ở trong nước như Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, Luật Thương mại (LTM) 2005 và các
văn bản mang tính quốc tế như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế
(CISG), Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit… Trong giới
hạn phạm vi Khóa luận tốt nghiệp, tác giả tập trung nghiên cứu trong khuôn khổ Luật
Thương mại 2005, có liên hệ với BLDS để làm sáng tỏ một số nội dung mà Luật
Thương mại không quy định. Ngoài ra, nhằm mục đích hoàn thiện các quy định của
Luật Thương mại về chế tài thì tác giả cũng sẽ tham khảo một số quy định của các
văn bản quốc tế như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế và Bộ nguyên
tắc Unidroit 2004.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Khóa luận được tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
nhằm hiện thực hóa mục tiêu nghiên cứu, trong đó bao gồm các phương pháp sau:
-
-
-
Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử được áp dụng
xuyên suốt khóa luận nhằm tránh sự chủ quan, duy ý chí
Phương pháp phân tích – tổng hợp nhằm làm rõ các vấn đề lý luận chung về đề
tài được sử dụng ở trong chương 1 của khóa luận và dùng để làm rõ những quy
định còn vướng mắc, bất cập không phù hợp của các quy định trong chế tài khi áp
dụng trong thực tiễn được nêu ở chương 2.
Phương pháp phân tích – bình luận dùng trong quá trình xem xét các quy định
pháp luật ở Chương 1 và các bản án, quyết định của tòa án, trọng tài thương mại
ở chương 2.
Phương pháp suy luận – logic: được sử dụng trong toàn bộ khóa luận, giúp tiếp
cận các quan điểm, thông tin liên quan có được trong quá trình đánh giá các ý kiến
của các tác giả, chuyên gia, các quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết
các vụ việc liên quan. Ngoài ra, phương pháp này còn giúp liên kết, xâu chuỗi các
lập luận, thông tin trong các tài liệu tham khảo và thực tiễn. Qua đó, tác giả có thể
4
đưa ra những nhận định, đánh giá dưới góc độ cá nhân về mức độ thống nhất,
đồng bộ về nhận thức và vận dụng pháp luật.
-
Phương pháp so sánh - đối chiếu được sử dụng trong toàn khóa luận. Ở Chương
1 và Chương 2 tác giả có sự so sánh, đối chiếu giữa các quy định về chế tài
BTHĐHĐ trong pháp luật thương mại Việt Nam với các quy định về chế tài này
trong pháp luật quốc tế; Ngoài ra, ở Chương 2 tác giả còn sử dụng phương pháp
so sánh để làm rõ sự khác biệt trong việc giải quyết các tranh chấp có liên quan
đến chế tài BTHĐHĐ của các cơ quan tài phán, từ đó làm rõ sự không thống nhất
trong thực tiễn xét xử.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm 02 chương, cụ thể như sau:
-
Chương 1: Tổng quan về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
5
CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG
HỢP ĐỒNG
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
1.1.1. Khái niệm chế tài trong thương mại
Khi một hợp đồng thương mại được xác lập thì mong muốn hay ý chí ban đầu
của các bên là hướng đến việc hợp đồng được thực hiện để đạt được các mục đích
giao kết của mình, mục đích đó có thể là mục đích bán được hàng, cung cấp được
dịch vụ để thu lại một khoản tiền hay mua được hàng, sử dụng được dịch vụ,… Tuy
nhiên, thực tế quan hệ thương mại không phải lúc nào cũng sẽ thuận lợi diễn ra như
mong muốn ban đầu của các bên mà trong rất nhiều trường hợp thì bởi nhiều lý do,
các bên vi phạm những nghĩa vụ hợp đồng của mình, dẫn đến nguy cơ, thiệt hại cho
đối tác. Vì vậy, chế tài thương mại ra đời như là phương pháp phòng ngừa hay tạo
niềm tin để các bên có thể tham gia vào quan hệ thương mại với ít sự lo lắng nhất có
thể, bởi khi có sự vi phạm hợp đồng thì các chế tài có thể được áp dụng để đảm bảo
hợp đồng được thực hiện trên thực tế, khôi phục và bù đắp thiệt hại cho bên bị vi
phạm hay chấm dứt hoặc tạm chấm dứt việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp
đồng.
Luật thương mại Việt Nam 2005 sử dụng nhưng không định nghĩa thuật ngữ
“chế tài trong thương mại”. Do đó, sau đây tác giả sẽ trình bày các khái niệm về thuật
ngữ này theo nhiều nguồn khác nhau từ đó rút ra khái niệm về chế tài trong thương
mại.
Về thuật ngữ “chế tài”, theo từ điển pháp lý Black, chế tài là hình phạt hoặc
các biện pháp thực thi khác được sử dụng để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật hoặc các
quy tắc, quy định3.
Ở Việt Nam, theo Từ điển Luật học, chế tài được định nghĩa là một trong ba
bộ phận cấu thành một quy phạm pháp luật (bao gồm giả định, quy định, chế tài).
Trong đó, chế tài là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành
vi vi phạm với các quy tắc xử sự chung được ghi nhận trong phần quy định và giả
định của pháp luật4.
Trong khi đó, “thương mại” tuy không được định nghĩa trong LTM 2005
nhưng LTM 2005 có định nghĩa thuật ngữ “hoạt động thương mại” theo đó hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung
Black, Henry Campbell (1990), Black’s Law Dictionary, 6th ed, St.Paun, MN.: West Publishing, p. 1341.
ISBN 0-314-76271 -X.
4
Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, tr.130.
3
6
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác.
Mối quan hệ giữa Luật Thương mại và Luật Dân sự là mối quan hệ giữa luật
chuyên ngành và luật chung. Xem xét BLDS 2005 thì không sử dụng thuật ngữ “Chế
tài” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “trách nhiệm dân sự” để gọi các biện pháp xử lý hành
vi vi phạm hợp đồng. Xem xét tiếp quy định của BLDS 2015 có sử dụng thuật ngữ
chế tài tại Điều 10 về giới hạn việc thực hiện quyền dân sự, theo đó trường hợp cá
nhân, pháp nhân lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, vi
phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật thì Tòa án, cơ
quan có thẩm quyền khác có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định. Như vậy, theo
BLDS thì “chế tài” là biện pháp xử lý hành vi lạm dụng quyền dân sự gây thiệt hại
cho người khác hoặc hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm nghĩa vụ dân sự. Bên
cạnh đó, BLDS còn sử dụng thuật ngữ “trách nhiệm dân sự” để chỉ các biện pháp xử
lý hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể rút ra định nghĩa “chế tài trong thương
mại” theo nghĩa rộng đó là những hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm các quy định của pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại phải gánh
chịu. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại
có thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các bên trong quan hệ thương mại.
Các hành vi vi phạm có thể là các hành vi vi phạm các quy định về quản lý trong lĩnh
vực thương mại như hành vi vi phạm nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của thương nhân,
vi phạm về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh,…(Điều 320 LTM 2005).
Ở phạm vi nghiên cứu của đề tài thì “chế tài trong thương mại” được hiểu
theo nghĩa hẹp, có thể hiểu đồng nhất với khái niệm chế tài đối với vi phạm hợp đồng
thương mại, đó là những hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm
hợp đồng thương mại phải gánh chịu. Chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại ở
đây là các bên trong hợp đồng mà cụ thể là bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và hành
vi vi phạm ở đây là các hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng như vi phạm nghĩa vụ
giao hàng (Điều 34 LTM 2005), nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng (Điều 50 LTM
2005), nghĩa vụ nhận hàng (Điều 56 LTM 2005),…
1.1.2. Khái niệm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Điều 385 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Khoản 1 Điều 275
BLDS quy định một trong các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ là hợp đồng. Mặt khác,
có thể hiểu rằng hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Như
7
vậy, hợp đồng thương mại là một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ hợp
đồng thương mại. Đây là sự cam kết của các bên khi tham gia vào quan hệ thương
mại với bên đối tác, theo đó khi tham gia vào quan hệ thương mại thì các bên phải
tuân thủ các cam kết của mình. Bởi lẽ, khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại thì
mục đích của các bên là đạt được lợi ích từ việc hợp đồng được thực hiện, bên bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ thì được thanh toán từ hàng hóa, dịch vụ mà họ cung cấp,
bên mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ thì có được hàng hóa, được thực hiện công
việc. Và như vậy, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ra đời như là một hệ quả tất
yếu của nguyên tắc Pacta sunt Servanda – nguyên tắc giao ước cần được tuân thủ5.
Theo đó, ở góc độ lý luận thì “buộc thực hiện đúng hợp đồng” là việc buộc bên vi
phạm nghĩa vụ, cam kết trong hợp đồng phải thực hiện các hành vi để hợp đồng được
diễn ra đúng như cam kết, mong muốn của các bên - được thể hiện trong hợp đồng.
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một trong các chế tài trong thương
mại được liệt kê ở Điều 292 LTM 20056. Pháp luật thương mại Việt Nam đưa ra định
nghĩa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng như sau: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng
là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các
biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát
sinh”7. Như vậy, theo định nghĩa này thì ta có thể rút ra các vấn đề chủ yếu như sau:
Thứ nhất, chủ thể áp dụng chế tài này là “bên bị vi phạm”, chủ thể bị áp dụng
chế tài là “bên vi phạm”.
Thứ hai, hình thức thực hiện chế tài bao gồm hai hình thức là “yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng hợp đồng” và “sử dụng các biện pháp khác để hợp đồng được
thực hiện”, bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
1.1.3. Đặc điểm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một chế tài trong thương mại, do đó
nó có các đặc điểm chung của chế tài trong thương mại và đồng thời cũng có những
đặc điểm riêng của mình.
Đặng Hoa Trang (2014), Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế và pháp luật thương mại Việt Nam, luận văn Ths Luật học, Đại học Luật TP HCM, tr.16
6
Các chế tài được quy định tại Điều 292 LTM 2005 bao gồm: (1) Buộc thực hiện đúng hợp đồng, (2) Phạt vi
phạm, (3) Buộc bồi thường thiệt hại, (4) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng, (5) Đình chỉ thực hiện hợp đồng,
(6) Huỷ bỏ hợp đồng và (7) Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán
thương mại quốc tế.
7
Khoản 1 Điều 297 LTM 2005
5
8
Thứ nhất, chủ thể áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là các
bên của hợp đồng thương mại
Đây là đặc điểm chung của các chế tài trong thương mại. Đối với chế tài
BTHĐHĐ thì xuất phát từ định nghĩa của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng tại
điều 297 LTM 2005, buộc thực hiện đúng hợp đồng là bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm… Như vậy, chỉ có chủ thể của hợp đồng cụ thể là chủ thể bị vi phạm mới có
quyền áp dụng chế tài này với chủ thể vi phạm hợp đồng. Bên bị vi phạm có thể áp
dụng hay không áp dụng chế tài này bởi đây là quyền của họ.
Ngoài bên bị vi phạm hợp đồng là chủ thể áp dụng chế tài BTHĐHĐ thì liệu
rằng Tòa án có là chủ thể áp dụng chế tài BTHĐHĐ hay không? Theo tác giả thì việc
áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng của Tòa án trong trường hợp này không
phải là một quyền trong hợp đồng thương mại. Bởi việc buộc bên vi phạm thực hiện
đúng hợp đồng của Tòa án được thực hiện thông qua việc yêu cầu của bên bị vi phạm,
tức là Tòa án sẽ không có quyền này nếu bên bị vi phạm không thực hiện nó. Như
vậy, quyền buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng của Tòa án chỉ là quyền của
chủ thể mang quyền lực nhà nước đứng ra xem xét, giải quyết tranh chấp, xem xét sự
hợp pháp, hợp lý đối với vi phạm và yêu cầu của các bên. Do vậy, không thể xem xét
rằng chủ thể áp dụng chế tài BTHĐHĐ là Tòa án mà chỉ có thể là bên bị vi phạm hợp
đồng.
Thứ hai, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài cơ bản nhất để
các bên đạt được mục đích hợp đồng
Xuất phát từ việc “Hợp đồng sinh ra để đem lại cho các bên lợi ích hợp pháp
mà họ mong đợi thông qua việc thực hiện”8, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
giữ các bên tồn tại ở mối quan hệ mà các bên mong muốn ngay từ đầu – quan hệ
thương mại với các quyền, nghĩa vụ cụ thể, giúp các bên đạt được mục đích ban đầu
của mình khi tham gia giao kết chứ không phải là những lợi ích vật chất có được từ
bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm. Và do đó, đây là chế tài mà chức năng của nó
là đảm bảo quan hệ hợp đồng được thực hiện như thỏa thuận. Với chức năng trên,
chế tài này thường là chế tài được ưu tiên áp dụng9.
Đặc biệt, tinh thần ưu tiên áp dụng của chế tài BTHĐHĐ còn được thể hiện
thông qua thứ tự liệt kê các chế tài trong thương mại, theo đó, tại Điều 292 LTM 2005
chế tài BTHĐHĐ được sắp xếp vị trí số một, ở trên các chế tài khác trong thương
Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc thực hiện không đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.45
9
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật thương mại, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 454
8
9
mại10. Xem xét các quy định của CISG thì tại Điều 45 quy định các biện pháp bảo hộ
pháp lý trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng thì biện pháp đầu tiên được
đề cập đó là quyền yêu cầu người bán phải thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng (dẫn
chiếu đến quy định yêu cầu người bán thực hiện đúng nghĩa vụ tại Điều 46 CISG)
hay biện pháp bảo hộ pháp lý khi người mua vi phạm hợp đồng tại Điều 61 CISG thì
biện pháp đầu tiên được đề cập cũng quy định dẫn chiếu đến quyền yêu cầu người
mua thực hiện đúng hợp đồng (Điều 62 CISG).11 Tương tự, Bộ nguyên tắc về hợp
đồng của Unidroit 2004 (PICC 2004) cũng dành những quy định đầu tiên cho vấn đề
buộc thực hiện hợp đồng12. Như vậy, có thể nhận thấy được tinh thần ưu tiên áp dụng
chế tài BTHĐHĐ trong LTM 2005 của Việt Nam và một số văn bản quốc tế như
CISG và PICC 2004.
Ngoài ra, một biểu hiện của tinh thần ưu tiên áp dụng chế tài BTHĐHĐ trong
pháp luật thương mại Việt Nam mà mục đích cốt lõi là bảo vệ quan hệ hợp đồng của
chế tài BTHĐHĐ còn được thể hiện ở điều kiện áp dụng chế tài BTHĐHĐ (tác giả
sẽ phân tích chi tiết hơn tại phần 2.1.1 trong Chương 2 của khóa luận) là đơn giản
hơn rất nhiều so với các chế tài khác trong thương mại. Khái quát thì có thể nhận thấy
điều kiện áp dụng chế tài BTHĐHĐ chỉ bao gồm hợp đồng bị vi phạm là hợp đồng
có hiệu lực (i), tồn tại hành vi vi phạm hợp đồng (ii) và hành vi vi phạm không rơi
vào các trường hợp miễn trách (iii). Trong khi đối với các chế tài khác, chẳng hạn chế
tài phạt vi phạm thì ngoài các điều kiện nêu trên thì còn phải đáp ứng điều kiện là có
thỏa thuận phạt vi phạm, hay chế tài hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng thì
điều kiện có hành vi vi phạm hợp đồng thì hành vi vi phạm phải là vi phạm cơ bản
nghĩa vụ hợp đồng hoặc vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện áp dụng chế
tài (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác), đối với chế tài buộc bồi thường thiệt
hại thì yêu cầu có thiệt hại xảy ra trên thực tế là điều kiện bổ sung. Như vậy, có thể
hiểu chế tài BTHĐHĐ có vị trí ưu tiên áp dụng so với các chế tài khác trong thương
mại và với tính chất ưu tiên áp dụng cùng với chức năng của mình thì chế tài
BTHĐHĐ là chế tài cơ bản nhất để bảo vệ quan hệ hợp đồng – nhằm mục đích cuối
cùng là để các bên đạt được mục đích giao kết hợp đồng.
Nguyễn Đăng Duy (2012), Chế tài thương mại trong luật thương mại Việt Nam 2005, Luận văn ThS Luật
Kinh tế, trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.17
11
Nguyễn Ngọc Hiếu (2011), Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật thương mại, Luận văn Ths Luật
học, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.25
12
Điều 7.2.1 PICC 2004 thực hiện nghĩa vụ thanh toán “Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán, bên có quyền có thể yêu cầu thanh toán”
Điều 7.2.2 PICC 2004 thực hiện nghĩa vụ phi tiền tệ: “Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ không
phải là nghĩa vụ thanh toán, bên có quyền có thể yêu cầu nghĩa vụ phải thực hiện”
10
10
Thứ ba, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng có thể áp dụng đồng thời
với một số chế tài khác trong thương mại
Trong hoạt động thương mại, khi có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì các bên
có thể áp dụng chế tài để đảm bảo được quyền, lợi ích chính đáng của mình. Đôi khi,
việc chỉ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là không đủ để bên bị vi phạm
đạt được những lợi ích, mục đích của mình và do đó chế tài này có thể được áp dụng
đồng thời với một số chế tài trong thương mại. Tuy nhiên, không phải mọi chế tài
trong thương mại đều có thể áp dụng đồng thời với thời chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng. Cụ thể, LTM 2005 chỉ cho phép áp dụng đồng thời chế tài BTHĐHĐ với
chế tài phạt vi phạm, yêu cầu bồi thường thiệt hại mà không áp dụng đồng thời với
các chế tài hủy hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng
và các biện pháp khác. Về nguyên nhân, tác giả sẽ phân tích chi tiết tại Mục 2.3 trong
Chương 2 của khóa luận.
1.2.
Quá trình hình thành và phát triển của chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1997
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam có thể coi là
được xuất hiện lần đầu tiên trong thời kỳ Pháp thuộc, được quy định thông qua một
số điều luật. Cụ thể như sau:
Ở Miền Bắc, Điều 912 Bộ dân luật Bắc kỳ quy định như sau: “Nếu người bán
không nộp trong thời hạn hai bên đã định với nhau, thì người mua có thể tùy ý xin
thủ tiêu việc mua bán, hay là nếu sự chậm trễ tại người bán, thì có thể bắt phải giao
nộp”. Như vậy, trong Bộ dân luật Bắc kỳ 1931 có quy định về việc cho phép người
mua được quyền buộc bên bán phải giao nộp vật bán.
Trong khi đó, trong Bộ Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật (Bộ luật Dân sự Trung
kỳ 1936) cũng ghi nhận về chế tài BTHĐHĐ, theo đó, tại Điều thứ 1040 ghi nhận
“Nếu người bán không giao-phó trong thời-hạn hai bên đã định với nhau, và nếu sự
chậm giao ấy chỉ do lỗi người bán thời người mua có thể tùy-ý hoặc xin thủ-tiêu việc
mua bán, hoặc bắt phải giao-phó vật đã bán”. Như vậy, cũng giống như Bộ luật dân
sự Bắc kỳ 1931, bộ Hoàng luật Dân sự Trung kỳ cũng có quy định về chế tài
BTHĐHĐ.
Sau cách mạng Tháng tám 1945 những quy định về chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng được tiếp tục sử dụng cùng với các bộ luật dân sự kể trên cho đến
năm 1959. Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 Tòa án tối cao ra chỉ
11
thị số 772/TATC để “đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ của phong kiến đế quốc”13.
Trong thời kì này, tuy có các văn bản về chế tài thương mại song chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng đã không còn được quy định.
Ở Miền Nam, trong Bộ luật Thương mại 1972 Việt Nam Cộng Hòa, chế tài
BTHĐHĐ được quy định tại Điều 353 với nội dung, “nếu đã có giao ước mà người
bán không giao hàng thì người mua, sau khi đốc thúc vô hiệu bằng văn thư ngoại tư
pháp, có thể mua một số hàng cùng loại để thay thế và xin Tòa buộc người bán phải
chịu phí tổn cùng giá sai biệt”14.
Đến giai đoạn những năm từ 1989 đến trước 1997 thì các hợp đồng kinh tế
được điều chỉnh bởi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 (PLHĐKT 1989). Theo Pháp
lệnh này thì chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được quy định tại các Điều 31,
Điều 32, Điều 3415. Theo đó, buộc thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng khi sản
phẩm, hàng hóa không đúng chất lượng, công việc không đúng yêu cầu kỹ thuật đã
thỏa thuận (Điều 31); Khi phát hiện sai sót thì các bên có quyền thỏa thuận thay thế
việc sửa chữa sai sót bằng cách giảm giá hoặc đổi lấy sản phẩm, hàng hóa khác (Điều
32); Khi một bên không hoàn thành sản phẩm, hàng hóa, công việc một cách đồng bộ
theo thỏa thuận thì bên bị vi phạm có quyền không nhận sản phẩm, hàng hóa, công
việc đó cho đến khi được hoàn thành đồng bộ (Điều 34). Tuy nhiên, các quy định này
vẫn còn ở mức sơ khai, chưa hoàn thiện. Chẳng hạn, tại Điều 32 PLHĐKT 1989
không quy định về việc một bên có quyền đơn phương thay thế việc sửa chữa sai sót
bằng cách đổi lấy sản phẩm, hàng hóa khác mà việc này phải được thực hiện thông
qua quá trình thỏa thuận. Việc quy định như vậy có thể dẫn đến sự chậm trễ, gây ra
thiệt hại và có thể nhận xét là “thiếu linh động” khi mà để cho thiệt hại xảy ra sau đó
yêu cầu thực hiện các chế tài khác là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 1997
Sau một thời gian thực thi thì Luật Thương mại 1997 (LTM 1997) ra đời thay
thế PLHĐKT 1989, đánh dấu một bước phát triển về việc điều chỉnh các quan hệ
thương mại. Đặc biệt về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, LTM 1997 dành
khoản 1 Điều 223 để định nghĩa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng16.
13
Luật dân sự Việt Nam, trang web: [https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2007/11/16/2487/], truy cập lần
cuối ngày 13/5/2021
14
Mã Thị Bích Mai (2017), Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo luật thương mại 2005, Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân luật, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.8
15
Đặng Hoa Trang, tlđd (5), tr. 14
16
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp
đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh.
12
Sau bảy năm được thực thi, LTM 1997 đã có nhiều đóng góp cho việc điều
chỉnh hoạt động thương mại nói chung và các chế tài trong thương mại cụ thể là chế
tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nói riêng. Tuy nhiên, nhằm đáp ứng hơn nữa các
yêu cầu cho công cuộc phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế thì Luật Thương mại 2005
(LTM 2005) ra đời, bên cạnh việc kế thừa LTM 1997 thì LTM 2005 bổ sung rất nhiều
quy định mới, trong đó là các quy định về chế tài trong thương mại và đặc biệt là sự
hoàn thiện đối với chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng hơn so với quy định của
LTM 1997. Đơn cử như việc quy định trong LTM về cách thức áp dụng chế tài
BTHĐHĐ, trường hợp bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ
không đúng hợp đồng thì theo LTM 1997 bên vi phạm phải “tìm cách loại trừ khuyết
tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ”, trong khi đó LTM 2005 có sự hoàn thiện
hơn khi loại bỏ cụm từ “tìm cách” trong câu trên. Như vậy theo LTM 2005 nghĩa vụ
của bên vi phạm không chỉ giới hạn ở việc “tìm cách” để khắc phục vi phạm mà
nghĩa vụ của họ phải là loại trừ khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ.
1.3.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Theo Điều 294 LTM 2005 quy định về 04 trường hợp mà bên vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm. Quy định này cũng đồng thời áp dụng đối
với việc miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bởi vì lúc này bên vi
phạm hợp đồng có thể viện dẫn các quy định về miễn trách nhiệm để từ chối yêu cầu
buộc thực hiện đúng hợp đồng của bên bị vi phạm. Cụ thể các trường hợp được miễn
áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng sẽ được phân tích dưới đây.
1.3.1. Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong trường hợp
mà các bên đã thỏa thuận
Một trong những nguyên tắc của pháp luật thương mại đó chính là nguyên tắc
tự do, tự nguyện thỏa thuận. Theo đó “các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái
với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và
bảo hộ các quyền đó”. Tại điểm a khoản 1 Điều 294 LTM 2005 quy định bên vi phạm
hợp đồng được miễn trách nhiệm khi xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên
đã thỏa thuận. Như vậy, bằng việc quy định thỏa thuận là một trong các trường hợp
miễn trách nhiệm khi có sự vi phạm hợp đồng thương mại hay trường hợp miễn áp
dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đã thể hiện sự tôn trọng và bảo hộ quyền
tự do thỏa thuận của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại.
Phân tích quy định về trường hợp miễn trách nhiệm do các bên đã thỏa thuận
có những điểm cần lưu ý như sau:
13
Thứ nhất, điều kiện để miễn trách nhiệm là các bên “đã” có thỏa thuận về
việc miễn trách nhiệm nếu xảy ra tình huống như các bên đã thỏa thuận. Như vậy, xét
về mặt thời điểm thì việc thỏa thuận này phải xảy ra trước khi bên bị vi phạm áp dụng
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Thứ hai, như thế nào được coi là “đã có thỏa thuận” về việc miễn trách nhiệm
hay hình thức của thỏa thuận này là gì? Pháp luật thương mại hiện không có quy định
rõ ràng về hình thức của thỏa thuận vấn đề miễn trách nhiệm này. Tuy nhiên, tham
khảo quy định tại Điều 24 LTM 2005 về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa,
Điều 74 LTM 2005 về hình thức của hợp đồng dịch vụ thì những điều luật này quy
định nếu không có quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật khác thì các hợp đồng
này có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi
cụ thể. Xét về thỏa thuận trường hợp miễn trách nhiệm thì đây có thể coi là một nội
dung hợp đồng và do đó nó có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản, lời nói hay
hành vi cụ thể.
Đối với hình thức văn bản thì thỏa thuận về trường hợp miễn trách nhiệm hay
miễn áp dụng chế tài BTHĐHĐ có thể được ghi nhận trong văn bản hợp đồng hay
phụ kiện hợp đồng (như phụ lục hợp đồng) với tư cách là bộ phận không tách rời của
hợp đồng hay trong một văn bản mà pháp luật chuyên ngành quy định là tài liệu kèm
theo hợp đồng17.
Đối với hình thức lời nói hay hành vi cụ thể thì việc chứng minh có tồn tại
thỏa thuận về trường hợp miễn trách nhiệm hay trường hợp không áp dụng chế tài
BTHĐHĐ là vấn đề không dễ. Trên thực tế cũng rất ít khi xảy ra trường hợp có sự
thỏa thuận về việc miễn áp dụng chế tài BTHĐHĐ bằng lời nói hay hành vi cụ thể
bởi lẽ những hợp đồng thương mại được giao kết bằng lời nói hay hành vi cụ thể
thông thường có giá trị không quá lớn mà mang tính chất nhỏ lẻ do đó các bên sẽ
thường bỏ qua việc thỏa thuận những vấn đề như chế tài, miễn trách nhiệm…
1.3.2. Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong trường hợp
xảy ra sự kiện bất khả kháng
Sự kiện bất khả kháng không được định nghĩa trong LTM 2005. Do đó, theo
nguyên tắc áp dụng luật chung vào giải quyết những vấn đề luật chuyên ngành không
quy định được ghi nhận tại khoản 3 Điều 4 LTM 200518 thì tác giả sẽ viện dẫn quy
định của BLDS để định nghĩa. Theo quy định của BLDS 2015, “sự kiện bất khả
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, tlđd (9), tr.442
Khoản 3 Điều 4 LTM 2005: “ 3. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và
trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.”
17
18
14
- Xem thêm -