Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong luật doan...

Tài liệu Luận văn chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong luật doanh nghiệp năm 2020

.PDF
118
1
59

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ PHÙNG THỊ KIM KHUYÊN CHẾ ĐỊNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020 CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ ------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT CHẾ ĐỊNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020 SINH VIÊN THỰC HIỆN: Phùng Thị Kim Khuyên Khóa: 41 MSSV: 1651101030063 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.S Lê Nhật Bảo TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Nhật Bảo, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Sinh viên ký tên Phùng Thị Kim Khuyên DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIÊT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT BLDS Bộ Luật Dân sự BL TTDS Bộ Luật Tố tụng Dân sự CTCP Công ty cổ phần CTHD Công ty hợp danh CT TNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn DNTN Doanh nghiệp tư nhân GĐ/TGĐ Giám đốc/Tổng giám đốc HĐQT Hội đồng quản trị LDN Luật Doanh nghiệp NĐDTPL Người đại diện theo pháp luật MỤC LỤC CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP ............................................................................................. 6 1.1 Khái niệm và đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .. 6 1.1.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ....................... 6 1.1.2 Đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...................... 10 1.2 Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.................... 14 1.3 Nội dung của chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp . 17 1.3.1 Điều kiện và tiêu chuẩn làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ................................................................................................................... 17 1.3.2 Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .... 18 1.3.3 Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ........... 20 1.3.4 Xác lập và chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ................................................................................................................... 21 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 22 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .................................. 23 2.1 Về điều kiện và tiêu chuẩn trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ......................................................................................................... 23 2.1.1 Thực trạng quy định pháp luật về điều kiện và tiêu chuẩn trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ............................................................. 23 2.1.2 2.2 Một số kiến nghị ..................................................................................... 30 Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ... 32 2.2.1 Thực trạng quy định pháp luật về phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .................................................................................. 32 2.2.2 2.3 Một số kiến nghị ..................................................................................... 39 Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .......... 43 2.3.1 Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .................................................................................. 43 2.3.2 Một số kiến nghị ..................................................................................... 53 2.4 Xác lập và chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .................................................................................................................... 54 2.4.1 Thực trạng quy định pháp luật về xác lập và chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp................................................................... 54 2.4.2 Một số kiến nghị ..................................................................................... 62 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 65 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC CÁC BẢN ÁN CỦA TÒA ÁN PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp luôn không ngừng hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý để các chủ thể phát huy tối đa quyền tự do kinh doanh của mình. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những quy định tiến bộ trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, đồng thời khắc phục và cải tiến những hạn chế, vướng mắc của quy định cũ, Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 đã được Quốc hội thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2020, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021. Một trong các điểm mới của luật là đã sửa đổi, bổ sung khá nhiều quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đây được coi là một trong những bước tiến quan trọng và mang tính đột phá của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Tuy vậy, cho đến nay, cùng với sự phát triển và thay đổi không ngừng của nền kinh tế, chế định người đại diện theo pháp luật cũng bắt đầu bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về mặt quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để cả trên phương diện lý luận cũng như luật thực định. Mặc dù Luật Doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện nhưng quy định pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng vẫn còn đặt ra những vấn đề mà Luật Doanh nghiệp vẫn chưa giải quyết ổn thỏa. Nhiều quy định mới được sửa đổi bổ sung mang tính đột phá, thiết thực và thể hiện tư duy rất thoáng về quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều vướng mắc, như quy định về số lượng người đại diện theo pháp luật, căn cứ pháp lý xác lập quyền đại diện, vấn đề quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có từ hai người đại diện theo pháp luật trở lên. Do vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp năm 2020” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của mình để làm sáng tỏ chế định người đại diện theo pháp luật, góp phần hoàn thiện hơn quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng như tạo hành lang pháp lý an toàn hơn cho các hoạt động của doanh nghiệp. Trong phạm vi bài này, tác giả phân tích những quy định nổi bật mang tính đột phá và những điểm bất cập của Luật doanh nghiệp năm 2020 về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đồng thời, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn 1 thiện các quy định liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kể từ ngày Luật Doanh nghiệp năm 2020 có hiệu lực, đến nay Việt Nam vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủ, chuyên sâu và toàn diện về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dưới hiệu lực của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Còn trước đây, phần lớn các nghiên cứu được thể hiện dưới dạng bài báo khoa học và vẫn chưa đi sâu vào phân tích cụ thể từng khía cạnh của chế định này mà chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái quát chung về người đại diện theo pháp luật. Cụ thể, có thể kể đến các nghiên cứu như: - Bài viết “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam” của Bùi Xuân Hải trong Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2007. Bài viết phân tích những vấn đề cơ bản của học thuyết về đại diện ở các nước phương Tây trong việc lý giải mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty, và sử dụng những luận điểm của học thuyết này để bình luận về một số vấn đề trong thực tiễn quản trị - doanh nghiệp và pháp luật công ty Việt Nam nhằm mục đích đưa ra kiến nghị cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật hiện hành. Bài viết “Quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” của Vũ Thị Lan Anh trong Tạp chí Luật học, số 4/2016. Bài viết phân tích những quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, chỉ ra những điểm cần lưu ý trong việc áp dụng trên thực tế những quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2014 về vấn đề này đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - - Bài viết “Một số góp ý nhằm hoàn thiện dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp về người đại diện theo pháp luật” của Nguyễn Tuấn Vũ trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2019. Bài viết đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp về người đại diện theo pháp luật. Sách “Bình luận án: Các tranh chấp điển hình trong quản trị công ty” của tác giả Phạm Hoài Huấn và Lê Nhật Bảo (2021), đã cung cấp những thông tin hữu ích và cách nhìn nhận về một số vấn đề pháp lý phát sinh trong thực tiễn xét xử tranh chấp thuộc pháp luật về quản trị doanh nghiệp. Cuốn sách là tài liệu hữu ích để tác 2 giả tìm hiểu thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp trong các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có một số luận văn và khóa luận nghiên cứu về chế định này như: - Luận văn Thạc sĩ Luật của tác giả Lê Việt Phương với đề tài “Người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013). Đề tài đã đưa ra cơ sở lý luận về đại diện, khái niệm người đại diện theo pháp luật của công ty. Đề tài cũng đánh giá được thực trạng quy định pháp luật và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này được thực hiện theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 và hiện nay đã - hết hiệu lực thi hành và chỉ còn giá trị tham khảo. Luận văn Thạc sĩ Luật của tác giả Mai Thị Ngân Hà với đề tài “Pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty”, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2020). Đề tài phân tích và đánh giá chuyên sâu được thực trạng quy định pháp luật và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này được thực hiện theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và hiện nay cũng đã hết - hiệu lực thi hành. Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Ngô Thị Huệ My với đề tài “Chế định người đại diện theo pháp luật trong Luật Doanh nghiệp năm 2014”, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017). Khóa luận của tác giả được thực hiện theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu khái quát dựa trên những quy định của pháp luật. Tóm lại, qua việc phân tích tình hình nghiên cứu ở trên, có thể thấy đã có nhiều nghiên cứu về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhưng số lượng nghiên cứu về người đại diện theo pháp luật dưới hiệu lực của Luật Doanh nghiệp năm 2020 còn rất ít. Ngoài ra, đa số các nghiên cứu chỉ đề cập đến một vài khía cạnh của chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mà rất ít bài viết đi sâu nghiên cứu chế định này một cách đầy đủ và toàn diện. Do đó, tác giả sẽ tiếp nhận những kết quả đã đạt được và tiếp tục nghiên cứu, phân tích thêm các vấn đề còn thiếu sót trong khóa luận của mình. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài 3 Nhằm mục đích đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, phân tích, đánh giá quy định của pháp luật và thực tiến áp dụng pháp luật trên thực tế, chỉ ra các vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn. Để thực hiện mục đích nêu trên, tác giả tập trung vào các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhằm hiểu đúng và đủ các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, từ đó có thể phân biệt được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại diện theo pháp luật nói chung. Thứ hai, chỉ ra các vướng mắc, hạn chế trong quy định hiện hành và trong thực tiễn khi áp dụng các quy định về vấn đề này. Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1 Đối tượng nghiên cứu đề tài Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài đã đặt ra, tác giả tập trung nghiên cứu các đối tượng sau theo pháp luật Việt Nam: Thứ nhất, những vấn đề mang tính lý luận quan trọng về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Thứ hai, các quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp năm 2020, Bộ luật Dân sự năm 2015 và một số quy định khác có liên quan. Thứ ba, thực tiễn xét xử của toà án các cấp thông qua bình luận một số bản án điển hình. 4.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài Tác giả tập trung nghiên cứu về người đại diện theo pháp luật các doanh nghiệp: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư 4 nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, Bộ luật Dân sự năm 2015, các văn bản pháp luật có liên quan khác và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. 5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu Để hoàn thành khóa luận, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Bao gồm: Thứ nhất, phương pháp phân tích: tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và các quy định có liên quan trong pháp luật chuyên ngành để đánh giá tính phù hợp của pháp luật hiện hành về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; phân tích thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Thứ hai, phương pháp so sánh: tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh các quy định giữa Luật Doanh nghiệp năm 2014 với Luật Doanh nghiệp năm 2020. Từ đó, tác giả đánh giá ưu, nhược điểm của pháp luật hiện hành và kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong nước. Thứ ba, phương pháp chứng minh: tác giả sử dụng phương pháp này để chứng minh thực tiễn áp dụng pháp luật bằng các bản án, bài báo,...; chứng minh cho các lập luận của mình bằng cách trích dẫn các nguồn quan điểm khoa học từ các chuyên gia; ... Thứ tư, phương pháp tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này trong việc kết luận, khái quát hóa vấn đề; trong việc kết hợp cả lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 6. Bố cục tổng quát của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được chia thành 02 chương: Chương 1: Khái quát chung về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và một số kiến nghị. 5 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP 1.1 Khái niệm và đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp 1.1.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Để hiểu đúng, đầy đủ và chính xác về người đại diện theo pháp luật (NĐDTPL) của doanh nghiệp, trước hết phải tìm hiểu định nghĩa về đại diện, đại diện theo pháp luật trong Bộ Luật Dân sự (BLDS). Bởi BLDS là luật gốc điều chỉnh các quan hệ về dân sự mà một trong số đó là quan hệ về đại diện. Vấn đề đại diện trong BLDS được xem là vấn đề gốc, hình thành nên đại diện theo ủy quyền và đại diện theo pháp luật, chi phối các quy định trong Luật Doanh nghiệp (LDN) về đại diện. Do đó, tác giả phân tích vấn đề đại diện trong BLDS trước khi tìm hiểu về NĐDTPL của doanh nghiệp theo quy định của LDN hiện hành. Để thỏa mãn các nhu cầu trong đời sống hằng ngày, con người phải tham gia vào rất nhiều giao dịch khác nhau. Khi tham gia vào một mối quan hệ nào đó như dân sự, thương mại, kinh tế,..., ngoại trừ các trường hợp pháp luật bắt buộc người xác lập giao dịch phải tự mình bày tỏ ý chí một cách tự nguyện, thì chủ thể có thể bày tỏ ý chí thông qua vai trò của một người khác trong trường hợp họ không thể tự mình hoặc không muốn tự mình tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Trong những trường hợp đó, để đảm bảo hiệu lực của các giao dịch dân sự thì việc xác lập, thực hiện các giao dịch của các chủ thể phải được thực hiện thông qua người đại diện. Quan hệ đại diện cũng được hình thành từ đó. Đại diện như là một phương thức thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự thông qua vai trò của người khác. Thông qua chế định đại diện, quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện được đảm bảo1. Đại diện là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân sự nên BLDS năm 2015 đã dành một chương riêng để quy định về đại diện. Tại khoản 1 Điều 134 BLDS quy định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Mục đích của việc xác lập quan hệ đại diện là nhằm giúp người được đại diện giao dịch với bên thứ ba thông qua Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Những quy định chung về Luật Dân sự, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 239. 1 6 người đại diện. Theo đó, người đại diện sẽ nhân danh người được đại diện xác lập các quyền và nghĩa vụ với người thứ ba, từ đó làm phát sinh hậu quả pháp lý đối với người được đại diện. Với quy định này, người đại diện sẽ là người trực tiếp xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện, chứ không phải nhân danh và vì lợi ích của chính người đại diện. Khác với người đại diện, người được đại diện không tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ được đáp ứng thông qua hành vi của người đại diện. Do vậy, trong phạm vi và thời hạn đại diện, mọi giao dịch dân sự được xác lập giữa người đại diện với người thứ ba đều làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện. Với điều kiện là giao dịch dân sự đó phải ghi chủ thể là người được đại diện, vì một người dù được chỉ định đại diện và đã giao kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền của mình, nhưng nếu không hành động bằng tên của người được đại diện thì không làm phát sinh hậu quả pháp lý đối với người được đại diện. Khái niệm này đã nhấn mạnh trách nhiệm trung thành của người đại diện khi đề cập đến vấn đề “vì lợi ích của người được đại diện”, từ đó tạo ra một cơ sở pháp lý để giải quyết những trường hợp người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự không vì lợi ích của người được đại diện. Trong quan hệ này, các bên chủ thể có thể là bất kì chủ thể nào mà không hạn chế là cá nhân hay pháp nhân, tổ chức2. Đối với cá nhân, nếu là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ các trường hợp pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch3, thì cá nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện nếu họ không muốn trực tiếp tham gia, xác lập hoặc nếu việc họ trực tiếp tham gia, xác lập các giao dịch dân sự có thể sẽ gặp phải những khó khăn nhất định. Đối với những cá nhân có những hạn chế về thể lực và trí lực, để tránh những hậu quả bất lợi cho các chủ thể này cũng như giúp họ được hưởng mọi quyền và lợi ích hợp pháp, việc tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch sẽ do NĐDTPL thực hiện vì lợi ích của họ. Đối với pháp nhân, việc tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự thông qua người đại diện vì lợi ích của pháp nhân bắt buộc phải được thực hiện thông qua các hành vi của cá nhân. Sở dĩ như vậy là vì pháp nhân là một tổ chức người được cơ cấu theo một hình thức nhất định, được thành lập nhằm thực hiện các hoạt động vì mục 2 3 Phạm Văn Tuyết (2017), Hướng dẫn môn học Luật Dân sự, Nhà xuất bản Tư pháp, tr. 149. Xem Điều 85 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ. 7 đích của pháp nhân4 và bản thân pháp nhân không phải là con người cụ thể mà là thực thể pháp lý nhân tạo, tự bản thân nó không có cơ thể sinh học để có thể tự mình hành động5. Vì vậy, pháp nhân cần người đại diện thường xuyên cho mình trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với người thứ ba nói riêng và nhân danh mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ nói chung. Khi đó, tùy từng trường hợp mà pháp nhân cần cá nhân đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. BLDS đã có sự phân biệt giữa đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Trong đó, đại diện theo pháp luật là một bộ phận quan trọng của chế định đại diện cũng như đóng vai trò không thể thiếu trong nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Đại diện theo pháp luật là đại diện được xác định theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. Ngoại trừ cá nhân, các chủ thể khác chỉ có thể tham gia quan hệ pháp luật thông qua NĐDTPL, hoặc người đại diện theo ủy quyền trong trường hợp NĐDTPL ủy quyền lại cho người đại diện theo ủy quyền. BLDS không đưa ra định nghĩa về NĐDTPL mà chỉ liệt kê các trường hợp đại diện theo pháp luật của cá nhân và đại diện theo pháp luật của pháp nhân, làm căn cứ xem xét các trường hợp cụ thể trên thực tế. Khái niệm NĐDTPL, nhất là khái niệm NĐDTPL của pháp nhân, là cơ sở quan trọng để tìm hiểu về khái niệm NĐDTPL của doanh nghiệp. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại khoản 1 Điều 137 BLDS: NĐDTPL của pháp nhân bao gồm: Một là, người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; Hai là, người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; Ba là, người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. NĐDTPL của pháp nhân là người đại diện pháp nhân trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhân danh pháp nhân với người thứ ba. Pháp luật cũng cho phép một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định. Như vậy, chế định về đại diện giúp các chủ thể có thể linh hoạt trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình cũng như thuận tiện hơn trong các giao kết hợp đồng. Trên thực tế, đại diện được áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không chỉ nhằm mục đích duy nhất là “xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”, mà khi nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan, có thể thấy, người đại diện có thể Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tlđd (1), tr. 250. Phùng Trung Tập, Kiều Thị Thùy Linh (2020), Nhập môn Luật Dân sự, Nhà xuất bản Lao động, tr. 292. 4 5 8 thực hiện rất nhiều hoạt động khác vì lợi ích của người được đại diện, điển hình đó là vai trò và chức năng của NĐDTPL của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty sẽ phát sinh các mối quan hệ với nhiều chủ thể khác nhau. Nhưng “công ty với tư cách là một pháp nhân - một thực thể pháp lý độc lập, (a separate legal entity), tự bản thân nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua con người cụ thể - những người quản lý công ty. Cũng vì thế, công ty luôn cần có người đại diện trong giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”6. Xuất phát từ nhu cầu và sự thừa nhận các dạng quan hệ này trong thực tế, pháp luật đã ghi nhận quan hệ đại diện của doanh nghiệp. Đại diện của doanh nghiệp có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Trong đó, đại diện theo pháp luật là một cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. “Đại diện theo pháp luật còn được gọi là đại diện đương nhiên, tức là được pháp luật công nhận quyền đương nhiên nhân danh doanh nghiệp trong các hoạt động của doanh nghiệp”7. Hình thức đại diện theo pháp luật là một giải pháp an toàn giúp doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng như đạt được các lợi ích hợp pháp thông qua các giao dịch do NĐDTPL xác lập và thực hiện vì lợi ích của doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, NĐDTPL sẽ mang ý tưởng, suy nghĩ của doanh nghiệp đến với người thứ ba nhằm xác lập, thực hiện giao dịch với người thứ ba. NĐDTPL là một trong những chế định quan trọng của pháp luật doanh nghiệp. Với tầm quan trọng này, LDN năm 2020 đã kế thừa sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp của LDN năm 2014 khi vẫn dành riêng một điều khoản để quy định về NĐDTPL, mà không quy định rải rác ở các điều luật về cơ cấu tổ chức, quản lý của các loại hình doanh nghiệp như trong LDN năm 20058, tuy nhiên quy định hiện hành đã có sự thay đổi bổ sung. Cụ thể: Trước đây, trong LDN năm 2005, các nhà lập pháp Việt Nam không đưa ra khái niệm NĐDTPL của doanh nghiệp, mà chỉ quy định chức danh quản lý là NĐDTPL của từng loại hình doanh nghiệp9. Đến LDN năm 2014, khoản 1 Điều 13 đã định nghĩa NĐDTPL của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2007, tr. 21. 7 Vũ Thị Lan Anh (2016), “Quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, số 4/2016, tr. 4. 8 Vũ Thị Lan Anh, tlđd (7), tr. 4. 9 Ngô Gia Hoàng, Nguyễn Thị Thương (2016), “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 dưới gốc độ quyền tự do kinh doanh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2016, tr.48. 6 9 thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. So với LDN năm 2014, khoản 1 Điều 12 LDN năm 2020 quy định “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Như vậy, LDN năm 2020 đã chính thức ghi nhận quyền “đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự” của NĐDTPL. 1.1.2 Đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Thứ nhất, NĐDTPL của doanh nghiệp chỉ có thể là cá nhân và phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015, người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Nhưng theo khoản 1 Điều 12 LDN năm 2020, NĐDTPL của doanh nghiệp chỉ có thể là cá nhân mà thôi. Vì doanh nghiệp như đã đề cập, bản thân nó là một tổ chức kinh tế, một thực thể pháp lý mà không phải là con người cụ thể, và nó vô hình nên không thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Do đó, doanh nghiệp cần có con người cụ thể để nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp. Lý do pháp luật muốn con người cụ thể đó là cá nhân và quy trách nhiệm trực tiếp cho cá nhân mà không phải là một doanh nghiệp nào khác bởi khi đó, việc quy trách nhiệm sẽ trở nên đơn giản và dễ dàng hơn. Đối với pháp nhân, chủ thể này chỉ có thể là đại diện theo ủy quyền, chứ không thể là đại diện theo pháp luật của cá nhân hay pháp nhân khác10. Pháp luật chỉ yêu cầu năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người đại diện trong trường hợp pháp luật quy định11. Điều đó cũng có nghĩa là nếu thuộc trường hợp pháp luật quy định thì vấn đề năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự sẽ được đặt ra (và ngược lại). Đồng thời cũng không phải trong mọi trường hợp đều đòi hỏi người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực Trương Thanh Đức (2016), Luận giải về Luật Doanh nghiệp năm 2014 (36 kế sách pháp lý của doanh nghiệp), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 178. 11 Khoản 3 Điều 134 về “Đại diện”, Bộ luật Dân sự năm 2015. 10 10 hiện việc đại diện. Đối với NĐDTPL của doanh nghiệp, trong cả BLDS năm 2015 và LDN năm 2020 đều không quy định về năng lực hành vi dân sự của NĐDTPL trong một điều khoản cụ thể. Nhưng tại khoản 5 Điều 12 LDN năm 2020 có quy định: nếu NĐDTPL bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, HĐQT cử người khác làm NĐDTPL của công ty. Quy định này cho thấy năng lực hành vi dân sự là điều kiện bắt buộc của NĐDTPL của doanh nghiệp. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với điều kiện về năng lực chủ thể mà BLDS đặt ra trong vấn đề đại diện tại khoản 3 Điều 134 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu của hoạt động kinh doanh, để NĐDTPL có thể thực hiện và chịu trách nhiệm cá nhân trước các hành vi quản lý của mình thì họ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Về nguyên tắc chung, người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ sẽ bằng hành vi của chính mình, tự mình xác lập, thực hiện và chịu trách nhiệm trong các quan hệ pháp luật dân sự mà mình tham gia. Và người này phải là người thành niên, đồng thời không thuộc vào các trường hợp riêng biệt: mất năng lực hành vi dân sự; có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; hạn chế năng lực hành vi dân sự. Do đó, một căn cứ khác trong LDN cho thấy chỉ người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự mới có quyền quản lý doanh nghiệp, và từ đó mới có thể làm NĐDTPL của doanh nghiệp là quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 17 LDN năm 2020: cá nhân là người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Ngoài ra, điều kiện này còn được thể hiện rõ trong trường hợp doanh nghiệp chỉ còn một NĐDTPL và người này bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, HĐQT cử người khác làm NĐDTPL của công ty12. Điều kiện này sẽ hạn chế được nhiều bất lợi cho doanh nghiệp và cho chính bản thân NĐDTPL nếu người này tự mình xác lập các giao dịch dân sự, đồng thời cho thấy LDN đã chính thức ghi nhận “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” - chủ thể đã được ghi nhận kể từ BLDS năm 2015. Khoản 5 Điều 12 về “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”, Luật Doanh nghiệp năm 2020. 12 11 Qua các quy định trên của LDN năm 2020, ta thấy rằng năng lực hành vi dân sự là yêu cầu bắt buộc để một cá nhân trở thành NĐDTPL của doanh nghiệp. Thực tế, NĐDTPL của doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm cá nhân đối với thiệt hại cho doanh nghiệp trong trường hợp họ vi phạm trách nhiệm13 nên quy định về năng lực hành vi dân sự đầy đủ của NĐDTPL là cần thiết. Thứ hai, NĐDTPL của doanh nghiệp phải nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp. NĐDTPL của doanh nghiệp là người nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp (bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật). Bởi về mặt lý thuyết, việc ai là NĐDTPL sẽ do doanh nghiệp quyết định (mà cụ thể là các cổ đông, thành viên công ty). Cổ đông, thành viên công ty là người dùng ý chí của mình chi phối công ty ra quyết định lựa chọn NĐDTPL. Do đó, người đại diện phải phục vụ lợi ích của cổ đông, thành viên công ty bằng trách nhiệm trung thực, cẩn trọng, tốt nhất, ... của mình. Vì nhân danh doanh nghiệp nên NĐDTPL của doanh nghiệp sẽ không chịu trách nhiệm cá nhân đối với các vấn đề phát sinh từ các hoạt động nhân danh doanh nghiệp nếu NĐDTPL thực hiện công việc phù hợp với phạm vi đại diện của mình. Ngược lại, họ sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với thiệt hại cho doanh nghiệp nếu vi phạm trách nhiệm quy định tại khoản 1 Điều 13 LDN năm 2020. Cũng vì là NĐDTPL của doanh nghiệp nên họ chính là người phải chịu trách nhiệm cao nhất cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Thứ ba, về số lượng NĐDTPL của doanh nghiệp. Khoản 2 Điều 137 BLDS năm 2015 quy định một pháp nhân có thể có nhiều NĐDTPL. Cùng với đó, khoản 2 Điều 12 LDN năm 2020 cũng quy định công ty trách nhiệm hữu hạn (CT TNHH) và công ty cổ phần (CTCP) (sau đây gọi chung là công ty) có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL. Quy định này đã góp phần tạo hành lang pháp lý Khoản 2 Điều 13 về “Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”, Luật Doanh nghiệp năm 2020. 13 12 để doanh nghiệp có thể quyết định số lượng NĐDTPL phù hợp với quy mô và nhu cầu của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn, mỗi ngày đều có vô số các giao dịch cần giải quyết, nếu chỉ có duy nhất một NĐDTPL đảm nhận mọi giao dịch thì với số lượng giao dịch quá lớn như vậy sẽ gây ra sự quá tải cho NĐDTPL. Mặc dù pháp luật cũng đã cho phép NĐDTPL ủy quyền cho một cá nhân khác, nhưng NĐDTPL về nguyên tắc vẫn phải chịu trách nhiệm trước doanh nghiệp, trước pháp luật về những nội dung thuộc thẩm quyền của mình. Vì vậy, khi cho phép một doanh nghiệp có thể có nhiều hơn một NĐDTPL sẽ tạo nên cơ chế linh hoạt, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc phân công quản lý, thúc đẩy tối đa sự phát triển trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo cho doanh nghiệp luôn có NĐDTPL trong các tình huống bất khả kháng phát sinh, ... . Ngoài ra, nếu quy định mỗi pháp nhân nói chung và công ty nói riêng chỉ có một NĐDTPL có thể gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc khác cho hoạt động của pháp nhân và công ty. Chẳng hạn, tất cả những người khác muốn thực hiện các giao dịch nhân danh pháp nhân, công ty thì đều phải có ủy quyền của NĐDTPL, điều này làm phát sinh các thủ tục hành chính khi phải thực hiện thủ tục ủy quyền. Hoặc trong trường hợp NĐDTPL duy nhất của doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ, không thực hiện đúng yêu cầu của cổ đông, thành viên công ty trong quá trình quản lý điều hành nội bộ doanh nghiệp cũng như giao dịch với bên ngoài, ... thì doanh nghiệp lại phải đối mặt với nhiều rủi ro. Tuy nhiên, quy định cho phép mỗi doanh nghiệp là CT TNHH, CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL cũng dẫn đến nhiều hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi pháp luật. Trường hợp hai hay nhiều NĐDTPL cùng có thẩm quyền xác lập, thực hiện đối với một giao dịch có thể dẫn đến tình trạng xung đột thẩm quyền14. Trong trường hợp này, các bên sẽ khó xác định được quyết định của người nào mới thực sự có giá trị pháp lý. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, việc có nhiều NĐDTPL có cùng thẩm quyền còn tạo cơ hội cho doanh nghiệp lợi dụng những người này nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba, thông qua việc một NĐDTPL khác sẽ đưa ra một quyết định khác có lợi hơn cho doanh nghiệp để phủ định quyết định ban đầu. Tuy nhiên, khi hai hay nhiều NĐDTPL cùng có thẩm quyền đối với một giao dịch có thể giúp những NĐDTPL linh hoạt hơn trong phân công phụ trách công việc, đồng thời giúp bên thứ Nguyễn Hợp Toàn (2017), “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần có nhiều người đại diện theo pháp luật”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2017, tr. 32. 14 13 ba hạn chế rủi ro giao dịch với người không có thẩm quyền. Điển hình cho trường hợp này là khi CT TNHH và CTCP có nhiều hơn một NĐDTPL nhưng Điều lệ công ty chưa quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng NĐDTPL thì mỗi NĐDTPL của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba15. Vấn đề lựa chọn số lượng NĐDTPL của doanh nghiệp không đặt ra đối với DNTN và công ty hợp danh (CTHD) bởi LDN đã quy định cụ thể đối với hai loại hình doanh nghiệp này. Cụ thể, chủ DNTN chính là NĐDTPL duy nhất của DNTN và tất cả các thành viên hợp danh là NĐDTPL của CTHD. 1.2 Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Pháp luật dân sự thừa nhận rằng pháp nhân không thể tự mình tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phải thông qua người đại diện của pháp nhân. Bản chất pháp nhân vốn là thực thể pháp lý nhân tạo, tự bản thân nó không có cơ thể sinh học để có thể tự mình hành động. Mọi hoạt động của pháp nhân phải được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện từ khi thành lập cho đến khi chấm dứt hoạt động16. Như vậy, công ty với tư cách là một pháp nhân một thực thể pháp lý độc lập, (a separate legal entity), tự bản thân nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua con người cụ thể - những người quản lý công ty. Cũng vì thế, công ty luôn cần có người đại diện trong giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình17. NĐDTPL là người có quyền nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi đại diện, đóng vai trò quan trọng trong cả quan hệ đối nội lẫn đối ngoại của doanh nghiệp18. Cụ thể: Thứ nhất, NĐDTPL của doanh nghiệp là chủ thể không thể thiếu trong việc đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường. NĐDTPL của doanh nghiệp là một cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, một doanh nghiệp muốn hoạt Khoản 2 Điều 12 về “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”, Luật Doanh nghiệp năm 2020. 16 Phùng Trung Tập, Kiều Thị Thùy Linh, tlđd (5), tr. 292. 17 Bùi Xuân Hải, tlđd (6), tr. 21. 18 Nguyễn Tuấn Vũ (2019), “Một số góp ý nhằm hoàn thiện dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp về người đại diện theo pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2019, tr. 56. 15 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan