Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn các biện pháp bảo vệ người làm chứng nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm ...

Tài liệu Luận văn các biện pháp bảo vệ người làm chứng nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho việt nam

.PDF
95
1
94

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG: NGHIÊN CỨU SO SÁNH VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 05 NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG: NGHIÊN CỨU SO SÁNH VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học: Ts. Lê Huỳnh Tấn Duy Học viên: Nguyễn Thị Thanh Tuyền, Cao học Luật, khóa 29-30 Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Lê Huỳnh Tấn Duy. Các kết luận được trình bày trong Luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Tuyền DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS BLTTHS : Bộ luật Hình sự : Bộ luật Tố tụng hình sự CQTHTT CQĐT TTHS : Cơ quan tiến hành tố tụng : Cơ quan điều tra : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SO SÁNH LUẬT VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC ............................................................ 9 1.1. Một số vấn đề lý luận về so sánh luật ............................................................ 9 1.1.1. Lợi ích của việc so sánh luật ...................................................................... 9 1.1.2. Các phương pháp so sánh luật .................................................................. 11 1.1.3. Lý do lựa chọn, đối tượng và phạm vi so sánh với pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức ................................................................................ 12 1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự................................................................................ 13 1.2.1. Khái niệm các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự 13 1.2.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự ........................................................................................................................ 15 1.2.3. Ý nghĩa của các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự ............................................................................................................................ 19 1.3. Cơ sở quy định các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự ................................................................................................................... 21 1.3.1. Cơ sở lý luận............................................................................................. 21 1.3.2. Cơ sở pháp lý ............................................................................................ 24 1.3.3. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 27 Kết luận Chương 1 ............................................................................................... 30 CHƯƠNG 2. SO SÁNH CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC ............................................................................................................. 31 2.1. Điều kiện áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng ...................... 31 2.1.1. Điều kiện áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................................. 33 2.1.2. Điều kiện áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự CHLB Đức ............................................................................... 38 2.1.3. So sánh điều kiện áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và CHLB Đức ........................................... 43 2.2. Các biện pháp bảo vệ áp dụng đối với người làm chứng .......................... 46 2.2.1. Các biện pháp bảo vệ áp dụng đối với người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ....................................................................................... 46 2.2.2. Các biện pháp bảo vệ áp dụng đối với người làm chứng theo pháp luật CHLB Đức.......................................................................................................... 49 2.2.3. So sánh các biện pháp bảo vệ áp dụng đối với người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hòa liên bang Đức ............................... 54 2.3. Các biện pháp khác bảo vệ người làm chứng ............................................ 57 2.3.1. Các biện pháp khác bảo vệ người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................................................................ 57 2.3.2. Các biện pháp khác bảo vệ người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức ................................................................................ 61 2.3.3. So sánh các biện pháp khác bảo vệ người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hòa liên bang Đức ...................... 63 Kết luận Chương 2 ............................................................................................... 67 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRÊN CƠ SỞ HỌC TẬP KINH NGHIỆM CỦA CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC ............................................................................................................. 68 3.1. Đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức về các biện pháp bảo vệ người làm chứng ................................................. 68 3.1.1. Ưu điểm của pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức về các biện pháp bảo vệ người làm chứng .................................................................... 68 3.1.2. Hạn chế của pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức về các biện pháp bảo vệ người làm chứng .................................................................... 70 3.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức về các biện pháp bảo vệ người làm chứng Việt Nam nên học tập ................... 76 3.2.1. Biện pháp lấy lời khai người làm chứng qua đường truyền âm thanh – hình ảnh .............................................................................................................. 77 3.2.2. Biện pháp cách ly bị cáo khi lấy lời khai người làm chứng ..................... 78 3.2.3. Biện pháp loại trừ sự có mặt của công chúng .......................................... 80 Kết luận Chương 3 ............................................................................................... 82 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại mà quá trình toàn cầu hóa được đẩy mạnh như hiện nay, quyền con người trở thành đối tượng dễ bị xâm phạm, vấn đề bảo vệ quyền con người ngày càng được quan tâm, chú trọng hơn bao giờ hết. Đến thời điểm này, số lượng nhiều các Điều ước quốc tế hướng đến bảo vệ quyền con người trên mọi phương diện đã ra đời thông qua quá trình đàm phán, ký kết của các quốc gia. Việt Nam sau khi trở thành thành viên của các Điều ước quốc tế cũng đã từng bước hoàn thiện pháp luật theo xu thế chung. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp đến năm 2020 là hướng đến bảo vệ hữu hiệu quyền con người, quyền công dân đồng thời đặt ra vấn đề đảm bảo xét xử đúng người đúng tội. Trên cơ sở đó, Hiến pháp 2013 ra đời là một bước đột phá về ghi nhận sự tôn trọng, bảo vệ quyền con người nói chung, tiếp tục làm nền tảng cho sự rà soát, hoàn thiện chế định bảo vệ quyền con người trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nói riêng. Lĩnh vực tố tụng hình sự là một lĩnh vực mà quyền con người rất dễ bị xâm phạm khi quá trình giải quyết vụ án hình sự ảnh hưởng trực tiếp đến tự do, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của một cá nhân. Nhắc đến bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, không thể chỉ chú trọng đến bảo vệ quyền con người của bị can, bị cáo mà còn phải quan tâm đến bảo vệ quyền con người của những người tham gia tố tụng, một trong số đó là người làm chứng. Người làm chứng với sự hiện diện của mình cũng như thông tin mà họ cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng góp phần to lớn vào việc tìm ra sự thật vụ án, thúc đẩy tiến trình giải quyết vụ án. Không có lợi ích nào từ kết quả giải quyết vụ án nhưng “nghĩa vụ công dân” của họ khách quan mà nói có thể đe dọa đến quyền và lợi ích của người phạm tội, nên họ có thể trở thành đối tượng mà người phạm tội, người thân người phạm tội xâm hại, xâm phạm quyền an toàn về thân thể, lợi ích tài sản cũng như danh dự, nhân phẩm. Vì vậy, áp dụng những biện pháp cần thiết bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự là một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách, cũng chính là bảo vệ quyền con người. Cơ sở lý luận không phải là động lực duy nhất. Gia nhập các Điều ước quốc tế về phòng, chống tội phạm như tội phạm tham nhũng, mua bán người, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia đều đặt ra nhiệm vụ nội luật hóa quy định liên quan đến bảo vệ 2 người làm chứng. Với xu thế của tội phạm trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, nhu cầu bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự cũng được đẩy mạnh từ khía cạnh thực tiễn ở Việt Nam. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tiếp thu những đóng góp xây dựng, cho ghi nhận thành một Chương riêng, trong đó, lần đầu tiên quy định cụ thể các biện pháp bảo vệ những người tham gia tố tụng trong đó có người làm chứng. So với pháp luật các nước trên thế giới đã sớm có những quy định liên quan đến vấn đề này, thậm chí một số nước còn có luật riêng quy định về biện pháp bảo vệ người làm chứng hoặc chương trình bảo vệ nhân chứng thì các biện pháp bảo vệ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam tuy có những điểm tiến bộ, tương đồng nhưng cũng tồn tại những hạn chế nhất định, điển hình là quy định mang tính khái quát cao, chưa có văn bản hướng dẫn dẫn đến cách hiểu và áp dụng các biện pháp bảo vệ chưa có sự thống nhất. Nên, Việt Nam vẫn cần học hỏi pháp luật các nước trên thế giới để ngày càng hoàn thiện các biện pháp bảo vệ cũng như tiếp thu kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp trong công tác bảo vệ người làm chứng. Vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Các biện pháp bảo vệ người làm chứng: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời và dành một chương riêng quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, bị hại, người tham gia tố tụng khác, đã có một vài công trình nghiên cứu, chủ yếu là các bài viết của các học giả tiếp cận ở các góc độ khác nhau đăng trên các tạp chí đã đóng góp không nhỏ về mặt lý luận và giải pháp pháp lý trong việc hoàn thiện quy định của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003. Có thể kể đến như: Các bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý: Nguyễn Thái Phúc (2008), “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (số 18&20). Tuy không phải là công trình nghiên cứu hoàn chỉnh, bài viết có thể nói là phân tích khá kỹ về nhu cầu bảo vệ người làm chứng xuất phát từ vai trò của họ trong tố tụng hình sự. Bài viết liệt kê các biện pháp bảo vệ người làm chứng thường gặp trong quy định pháp luật các nước tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Bang Nga... là những quy định tiến bộ cho Việt Nam tham khảo. Ngoài ra, tác 3 giả bài viết còn nói về vấn đề miễn trừ làm chứng. Theo đánh giá cá nhân, bài viết của tác giả Nguyễn Thái Phúc mang một lượng lớn thông tin về quy định của pháp luật nước ngoài, điều này có giá trị tham khảo rất cao cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về các biện pháp bảo vệ người làm chứng. Nguyễn Hải Ninh (2011), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm bảo vệ người làm chứng khi tham gia tố tụng”, Tạp chí Luật học, Đại học Luật Hà Nội (số 12). Bài viết của tác giả nhắc đến bảo vệ người làm chứng xuất phát từ góc độ bảo vệ quyền con người và vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự. Tác giả có điểm qua thực trạng pháp luật thời điểm bấy giờ về bảo vệ người làm chứng, chủ yếu là quy định dưới dạng nguyên tắc trong BLTTHS 2003 và một số pháp luật chuyên ngành có thể kể đến như Luật An ninh quốc gia, Luật Phòng, chống tham nhũng, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự... Đồng thời kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người làm chứng, những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ cần phải ghi nhận trước khi Việt Nam có đủ điều kiện xây dựng luật riêng về vấn đề này. Phạm Mạnh Hùng (2012), “Vấn đề bảo vệ nhân chứng, người tố giác, người tham gia tố tụng khác trong các vụ án tham nhũng”, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (số 07). Tác giả bàn luận vấn đề bảo vệ người làm chứng, người tố giác, người tham gia tố tụng khác trong các vụ án tham nhũng, mở đầu từ vai trò của họ đối với quá trình tố tụng và việc Việt Nam trở thành thành viên của Công ước chống tham nhũng của Liên Hiệp Quốc. Bài viết cũng đã sơ lược quy định một số pháp luật chuyên ngành ở Việt Nam có đề cập vấn đề bảo vệ. Cuối cùng là đề xuất hoàn thiện pháp luật tố tụng về bảo vệ người làm chứng, người tố giác, người tham gia tố tụng khác. Võ Thị Kim Oanh, Đinh Văn Đoàn (2015), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (số 08). Bài viết của hai tác giả phân tích quy định của BLTTHS 2003 liên quan đến bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại. Có thể thấy tinh thần bảo vệ những chủ thể này đã được thể hiện ở BLTTHS 2003, tuy nhiên quy định chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung. Thời điểm đó, đã có Dự thảo BLTTHS sửa đổi và đang trình xin ý kiến Quốc hội. Nhận thấy Dự thảo tuy có khắc phục hầu hết những hạn chế của BLTTHS 2003 về vấn đề bảo vệ nhưng không phải là không còn bất cập. Trên cơ sở phân tích quy định liên quan trong Dự thảo, bài viết tiếp tục đề xuất đóng góp hoàn 4 thiện, về vị trí của chế định, về sự thống nhất phạm vi quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được bảo vệ, về chủ thể có quyền yêu cầu, đề nghị áp dụng các biện pháp bảo vệ... Mặc dù bài viết không nói nhiều đến các biện pháp bảo vệ nhưng rất nhiều những phân tích, lý luận có giá trị tham khảo. Từ sau khi BLTTHS 2015 được ban hành, dù quy định về bảo vệ người làm chứng được đánh giá là tiến bộ vượt bậc so với BLTTHS 2003 nhưng có thể nói vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Một số học giả đã tiếp tục nghiên cứu những bất cập và góp ý sửa đổi như: Tạ Nhi Còn (2016), “Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. So với các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, đây có thể xem là một trong số ít công trình nghiên cứu mang đến nhiều giá trị về mặt lý luận về vấn đề bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích quy định của BLTTHS 2003 và 2015 về vấn đề bảo vệ, có sơ lược về thực tiễn áp dụng các quy định bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại, từ đó đưa ra đóng góp hoàn thiện pháp luật. Vì tính chất khóa luận tốt nghiệp và đề tài lựa chọn khá rộng, nội dung mà tác giả nhắc tới liên quan đến bảo vệ khá nhiều (người bảo vệ; cơ quan, người có thẩm quyền bảo vệ; các biện pháp bảo vệ; chủ thể có quyền yêu cầu, đề nghị áp dụng các biện pháp bảo vệ; áp dụng, thay đổi, bổ sung, chấm dứt áp dụng các biện pháp bảo vệ, hồ sơ bảo vệ) nhưng mỗi vấn đề chưa có sự phân tích sâu sắc. Tuy nhiên, với thời điểm BLTTHS 2015 vừa có nhiều bổ sung quan trọng so với BLTTHS 2003, thậm chí là cho đến nay, công trình của tác giả là một số ít những công trình nghiên cứu có quy mô về vấn đề bảo vệ và có nhiều giá trị tham khảo. Bùi Giai Ôn (2018), “Hoàn thiện chế định người làm chứng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp (số 24). Nguyễn Cao Cường (2018), “Bất cập trong quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, bị hại”, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Phùng Văn Hoàng (2020), “Kiến nghị hoàn thiện quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao. Hoàng Đình Dũng, Nguyễn Văn Linh (2021), “Hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ người làm chứng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao. 5 Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự: Thứ nhất, tình hình nghiên cứu chủ yếu là các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Kiểm sát, tạp chí Tòa án, tạp chí Nghề luật, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Khoa học pháp lý... Có rất ít công trình nghiên cứu quy mô hơn, ví dụ như khóa luận tốt nghiệp của tác giả Tạ Nhi Còn. Thứ hai, chế định bảo vệ mà BLTTHS nhắc tới đặt chủ thể được bảo vệ là người làm chứng bên cạnh chủ thể người tố giác tội phạm, bị hại, người tham gia tố tụng khác, nên các bài viết, công trình nghiên cứu cũng thường gộp chung vấn đề bảo vệ các chủ thể này mà ít tách vấn đề bảo vệ người làm chứng nói riêng, mặc dù địa vị pháp lý của các chủ thể khi tham gia tố tụng là khác nhau. Thứ ba, bảo vệ người tham gia tố tụng trong đó có người làm chứng bao gồm nhiều vấn đề như là: chủ thể được bảo vệ; chủ thể có thẩm quyền bảo vệ; chủ thể có quyền yêu cầu, đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ; các biện pháp bảo vệ; áp dụng, thay đổi, bổ sung, chấm dứt áp dụng các biện pháp bảo vệ; quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ; hồ sơ, thủ tục bảo vệ... Các bài viết, công trình nghiên cứu khi phân tích quy định và đóng góp hoàn thiện pháp luật cũng thường nói chung các vấn đề này mà không chuyên sâu vào một vấn đề cụ thể. Thứ tư, một số bài viết khi nói về các biện pháp bảo vệ có tham khảo đến các biện pháp bảo vệ theo quy định pháp luật các nước tiên tiến trên thế giới nhưng chủ yếu là liệt kê, cung cấp thông tin, không đi sâu vào phân tích, so sánh, đánh giá. Với tình hình nghiên cứu như trên, việc tác giả chọn đề tài nghiên cứu là“Các biện pháp bảo vệ người làm chứng: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam”, cụ thể quốc gia lựa chọn so sánh là CHLB Đức, đáp ứng tính mới trong nghiên cứu khoa học pháp lý. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của tác giả khi nghiên cứu đề tài đó chính là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự. Nghiên cứu không chỉ dừng lại ở pháp luật Việt Nam mà còn tìm hiểu thêm quy định về các biện pháp bảo vệ trong pháp luật của CHLB Đức. Qua đó học hỏi những ưu điểm của pháp luật Đức để đóng góp hoàn thiện vào quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp bảo vệ người làm chứng. 6 Trên cơ sở so sánh quy định giữa các nước, tác giả đánh giá mức độ hoàn thiện của BLTTHS 2015 về chế định có liên quan. Đồng thời, trên cơ sở nhận thức những bất cập chung, tác giả học hỏi thêm kinh nghiệm thực tiễn của các các quốc gia, đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật Việt nam về các biện pháp bảo vệ, cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp bảo vệ trong công tác bảo vệ người làm chứng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, khái quát và hệ thống lại các vấn đề lý luận như cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn, khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự nói chung, ở Đức và Việt Nam nói riêng. Thứ hai, nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự CHLB Đức và Việt Nam về các biện pháp bảo vệ áp dụng đối với người làm chứng, các biện pháp bảo vệ khác. So sánh để nhận diện những điểm chung và khác nhau trong quy định pháp luật của hai nước. Thứ ba, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong pháp luật Đức về các biện pháp bảo vệ người làm chứng. Từ đó, rút ra những quy định tiến bộ, phù hợp mà Việt Nam có thể học tập để ngày càng hoàn thiện cơ chế bảo vệ người làm chứng. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về các biện pháp bảo vệ người làm chứng, quy định của BLTTHS Việt Nam và CHLB Đức về các biện pháp bảo vệ người làm chứng, kết hợp với quy định của một số luật liên quan khác khi cần thiết. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, tác giả nghiên cứu, phân tích các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự bao gồm các biện pháp bảo vệ áp dụng đối với chính người làm chứng và các biện pháp bảo vệ khác. Về không gian và thời gian, luận văn nghiên cứu trọng tâm là các quy định về biện pháp bảo vệ người làm chứng trong BLTTHS hiện hành của Việt Nam và CHLB Đức. Tuy nhiên, ở Đức, bảo vệ người làm chứng còn có luật riêng, nên luận văn cũng sẽ mở rộng nghiên cứu quy định trong luật riêng về bảo vệ người làm chứng của Đức. 7 Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận và không nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng, chỉ dẫn chứng về một số trường hợp thực tiễn khi cần thiết. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam để làm nền tảng cho cơ sở lý luận. Ngoài ra, ở mỗi chương tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để lý giải, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự nói chung, ở Việt Nam và CHLB Đức nói riêng. Chương 2, tác giả tiếp tục sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên để làm rõ quy định của pháp luật Việt Nam và CHLB Đức về các biện pháp bảo vệ người làm chứng. Quan trọng hơn, trong chương này, tác giả kết hợp với phương pháp so sánh để nhận diện những điểm giống và khác nhau của pháp luật hai quốc gia về các biện pháp bảo vệ người làm chứng. Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đánh giá mức độ hoàn thiện cũng như nhận diện những hạn chế còn tồn tại trong quy định của quốc gia lựa chọn so sánh. Sau cùng, sử dụng phương pháp tổng hợp một lần nữa những quy định tiến bộ trong pháp luật quốc gia lựa chọn so sánh, đóng góp ý kiến để hoàn thiện BLTTHS Việt Nam về các biện pháp bảo vệ người làm chứng. 6. Đóng góp của luận văn Kể từ sau khi BLTTHS 2015 ra đời, luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên có kết hợp so sánh với pháp luật nước ngoài cụ thể là pháp luật CHLB Đức về các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự. Những đóng góp của luận văn có thể kể đến: Thứ nhất, luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận xung quanh các biện pháp bảo vệ người làm chứng như cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn, khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các biện pháp bảo vệ người làm chứng và lợi ích của việc so sánh quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp bảo vệ người làm chứng với pháp luật nước ngoài. 8 Thứ hai, luận văn không chỉ phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam mà còn cung cấp lượng kiến thức nhất định về các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong pháp luật của CHLB Đức. Qua so sánh quy định pháp luật ở hai quốc gia, luận văn làm rõ những hạn chế cũng như ưu điểm trong quy định của pháp luật Đức. Rút kinh nghiệm từ những hạn chế, tiếp thu những ưu điểm, luận văn đóng góp ý kiến hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp bảo vệ người làm chứng. Từ những ý nghĩa liệt kê, kết quả nghiên cứu luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy pháp luật hình sự và tố tụng hình sự nói chung, về bảo vệ người làm chứng nói riêng. Luận văn cũng có giá trị tham khảo đối với việc nghiên cứu xây dựng pháp luật, hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ người làm chứng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn kết cấu thành ba chương: Chương 1. Lý luận chung về so sánh luật và biện pháp bảo vệ người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và CHLB Đức. Chương 2. So sánh các biện pháp bảo vệ người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và CHLB Đức. Chương 3. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp bảo vệ người làm chứng trên cơ sở học tập kinh nghiệm của CHLB Đức. 9 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ SO SÁNH LUẬT VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC 1.1. Một số vấn đề lý luận về so sánh luật 1.1.1. Lợi ích của việc so sánh luật So sánh luật là một phương pháp nghiên cứu pháp luật đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới, khi các nhà nghiên cứu lập pháp của một quốc gia muốn tìm hiểu pháp luật của các quốc gia khác, trên cơ sở phân tích so sánh, tiếp thu những mặt tích cực, phù hợp, đóng góp vào quá trình xây dựng pháp luật của quốc gia mình. Lợi ích của phương pháp so sánh luật bao gồm: Thứ nhất, hoạt động nghiên cứu, so sánh pháp luật mang lại lượng lớn tri thức hữu dụng thông qua cơ hội tiếp cận với các hệ thống pháp luật, mô hình tố tụng khác nhau trên thế giới. Không chỉ riêng về pháp luật, còn là tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo khi biết rằng đây chính là những đặc điểm, cơ sở tạo nên sự khác nhau cho nền khoa học pháp lý mỗi quốc gia. So sánh pháp luật để thấy được sự tương đồng, khác biệt, từ đó mang đến cho người nghiên cứu một nắm bắt sâu sắc, một cái nhìn toàn cảnh về các hệ thống pháp luật. Mặt khác, đặt hệ thống pháp luật Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với hệ thống pháp luật nước ngoài là một phương án tiếp cận để nghiên cứu pháp luật Việt Nam cho cái nhìn khách quan, cởi mở. Tìm hiểu sâu về pháp luật quốc gia nhưng đứng trên những quan điểm mới, khoảng cách cần thiết, không bị ràng buộc bởi những giải pháp pháp luật quen thuộc mà nếu không so sánh pháp luật ta coi đó là đương nhiên, không thể thay thế1. Thứ hai, nghiên cứu so sánh pháp luật để hướng đến cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia. Thực chất, từ giai đoạn lập pháp đến thực hiện mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn là quá trình sử dụng rộng rãi nhất kết quả của luật so sánh. Khi nhu cầu cần có quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội mới phát sinh, nhà lập pháp đã tìm đến sự so sánh với pháp luật nước ngoài để học hỏi cách thức mà họ quy định các giải pháp pháp lý. Thông qua so sánh, nhận diện được sự tương đồng, khác biệt, nhà làm luật sẽ tiếp thu có chọn lọc và xây dựng những giải Phạm Trí Hùng (2007), “Ý nghĩa của luật so sánh trong hoạt động lập pháp”, Tạp chí Luật học, Số 4, tr.5. 1 10 pháp riêng cho quốc gia phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện về văn hóa, kinh tế, chính trị... Ngoài ra, so sánh pháp luật còn có khả năng dự báo tốt xu hướng phát triển các hiện tượng trong xã hội và khả năng tác động của một đạo luật mới tới xã hội. Quốc gia sau khi rút kinh nghiệm của các nước sẽ không mất thời gian cho công tác thử nghiệm rủi ro có thể mang đến những hậu quả khôn lường2. Con đường hoàn thiện hệ thống pháp luật, đưa ra ý tưởng về ban hành luật mới hay sửa đổi, bổ sung luật có sự hỗ trợ luật so sánh trở nên tiết kiệm thời gian và hiệu quả. Thứ ba, hoạt động nghiên cứu, so sánh pháp luật hướng Việt Nam đến quá trình hội nhập quốc tế. Việt Nam đã trở thành thành viên của các Tổ chức quốc tế, Công ước quốc tế cũng như kết giao mối quan hệ song phương với nhiều quốc gia. Để quá trình đó diễn ra thuận lợi, hoạt động so sánh pháp luật đã hỗ trợ rất nhiều. Nó trang bị cho nhà làm luật những kiến thức và kỹ năng quan trọng để bước vào quá trình đàm phán, hướng đến mục tiêu thu hẹp khoảng cách, giảm thiểu sự khác biệt, hài hòa hóa giữa các hệ thống pháp luật với nhau. Trong tương lai, xu thế toàn cầu hóa tiếp tục đặt Việt Nam trong tâm thế phải chủ động hơn nữa với quá trình hội nhập, vai trò của so sánh pháp luật lại ngày càng được nâng cao. Quay lại đối tượng so sánh của luận văn, cụ thể việc so sánh với pháp luật nước ngoài có ý nghĩa gì đối với nghiên cứu các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự? Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị xác định mục tiêu trọng tâm của cải cách tư pháp đến năm 2020 là hướng đến bảo vệ hữu hiệu quyền con người, quyền công dân đồng thời đảm bảo xét xử đúng người đúng tội. Thực hiện mục tiêu Nghị quyết đề ra đồng thời nhận thấy tính cấp thiết từ nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 lần đầu tiên ghi nhận một chương riêng cho vấn đề bảo vệ những người tham gia tố tụng hình sự trong đó có người làm chứng. Các biện pháp bảo vệ quy định trong BLTTHS 2015 có nhiều tương đồng với các biện pháp áp dụng trên thế giới, có thể các nhà làm luật trong giai đoạn lập pháp đã có sự nghiên cứu học hỏi nhất định từ các quốc gia. Tuy là bước tiến lớn nhưng các biện pháp bảo vệ vẫn chưa được xem là hoàn thiện khi quy định còn chung chung, cơ 2 Trần Ngọc Hà, Nguyễn Thị Hằng, Phan Hoài Nam, Ngô Kim Hoàng Nguyên (2017), Luật so sánh: Tài liệu hướng dẫn học tập, Nxb. Lao Động, tr.37. 11 bản, cần đến sự giải thích, hướng dẫn áp dụng. Hoặc điều kiện áp dụng chưa rõ ràng dễ dẫn đến sự áp dụng tùy nghi của cơ quan tiến hành tố tụng. Tiếp tục nghiên cứu, so sánh với pháp luật nước ngoài đặc biệt là các nước có hệ thống pháp luật phát triển, có kinh nghiệm trong thực tiễn bảo vệ người làm chứng sẽ giúp Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn về mặt quy định và trong tương lai có thể sẽ xây dựng luật riêng về bảo vệ người làm chứng theo nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Mặt khác, các Điều ước quốc tế như Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966, Công ước về Chống Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000, Công ước về Chống tham nhũng của Liên Hiệp Quốc năm 2003, Tuyên ngôn về những Nguyên tắc cơ bản của HĐXX đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng quyền lực của Liên Hiệp Quốc năm 1985... mà Việt Nam tham gia đều kêu gọi các thành viên từng bước đi đến xây dựng chế định về các biện pháp bảo vệ người làm chứng trước xu hướng diễn biến ngày càng phức tạp của tội phạm theo tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, nhất là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như tội phạm khủng bố, tội phạm ma túy, tội phạm mua bán người, đưa người di cư trái phép, tội rửa tiền, tội phạm tham nhũng... So sánh pháp luật sẽ giúp các nhà lập pháp Việt Nam tìm hiểu rõ pháp luật nước ngoài trước khi đẩy mạnh nhu cầu hợp tác song phương nhưng vẫn bảo đảm sự hài hòa trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, như ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự trong đó có các biện pháp bảo vệ người làm chứng là người nước ngoài, đồng thời củng cố hiểu biết về mô hình tố tụng, tiến trình tố tụng các quốc gia trên thế giới. 1.1.2. Các phương pháp so sánh luật Tiến hành so sánh luật, tác giả sử dụng chủ yếu hai phương pháp so sánh, đó là phương pháp so sánh chức năng và phương pháp so sánh quy phạm. Với phương pháp so sánh chức năng, tác giả nghiên cứu so sánh các giải pháp mà Việt Nam và CHLB Đức sử dụng để giải quyết vấn đề tồn tại trong tố tụng hình sự, đó là việc người làm chứng đối diện với những nguy hiểm xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp khác do họ đã cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu liên quan đến tội phạm. Cả hai nước đều đặt ra các biện pháp để bảo vệ người làm chứng. Trong khi Việt Nam quy định các biện pháp bảo vệ người làm chứng tập trung trong Bộ luật Tố tụng hình sự thì CHLB Đức quy định các biện pháp bảo vệ trong Bộ luật Tố tụng hình sự (Code of Criminal Procedure), Luật Hòa hợp bảo vệ 12 người làm chứng (Act to Harmonise Witness Protection) và Luật Tổ chức Tòa án (Courts Constitution Act). Sau khi tìm ra những quy định trong pháp luật hai nước điều chỉnh vấn đề bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự và xác định đó là các biện pháp bảo vệ, tác giả sử dụng tiếp tục phương pháp so sánh quy phạm để so sánh nội hàm của từng biện pháp trong quy phạm pháp luật tương ứng. Cùng tên gọi của biện pháp, cùng mục đích bảo vệ nhưng hai quy phạm tương ứng có thể có sự khác biệt tương đối về nội hàm. Chẳng hạn như cùng là biện pháp bảo vệ thông tin liên quan đến người làm chứng nhưng pháp luật các nước có thể có sự khác biệt về “giới hạn” thông tin được bảo vệ, đó là cấp độ bảo mật hoàn toàn hay bảo mật một phần. Hoặc biện pháp di chuyển, thay đổi nơi cư trú cho người làm chứng, pháp luật các nước có thể có sự khác biệt về thời hạn di chuyển (tạm thời hoặc vĩnh viễn), phạm vi di chuyển có thể chấp nhận (trong nước, ngoài nước). 1.1.3. Lý do lựa chọn, đối tượng và phạm vi so sánh với pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức Cho đến nay, trên thế giới đã có nhiều quốc gia quy định về các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự. Trong đó, Hoa Kỳ, Anh, Đức, Canada, Nga... là những nước có hệ thống pháp luật quy định về vấn đề bảo vệ gần như là hoàn thiện nhất, trở thành hình mẫu học hỏi của các quốc gia khác. Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 đã chính thức ghi nhận một Chương riêng trong đó có các biện pháp bảo vệ người làm chứng nhưng theo đánh giá của tác giả, những quy định này vẫn còn chung chung. Các biện pháp bảo vệ có liên quan đến thủ tục tố tụng và ngoài thủ tục tố tụng nhưng vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, dẫn đến những cách hiểu không thống nhất và khó khăn khi áp dụng. Chính vì vậy, tận dụng cơ hội tiếp tục nghiên cứu, so sánh với pháp luật nước ngoài để đóng góp vào công tác hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp bảo vệ người làm chứng, tác giả chọn đối đối tượng, phạm vi so sánh với pháp luật CHLB Đức vì những lý do sau: Thứ nhất, CHLB Đức là một trong những quốc gia có hệ thống pháp luật quy định gần như hoàn thiện nhất về các biện pháp bảo vệ người làm chứng. Không những phát triển về kỹ thuật lập pháp, Đức cũng là quốc gia có bề dày kinh nghiệm trong vấn đề bảo vệ người làm chứng trên thực tế, từ đó có thể kiểm chứng, đánh giá được mức độ hiệu quả của các biện pháp bảo vệ. 13 Thứ hai, CHLB Đức là quốc gia theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa với mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn. Việt Nam theo hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa, so với hệ thống pháp luật Anh - Mỹ thì gần với hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa hơn. Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa chịu ảnh hưởng nhiều bởi hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa. Mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn của Đức cũng gần với mô hình tố tụng hình sự hỗn hợp thiên về thẩm vấn của Việt Nam. Có thể nói những sự tương đồng đó thuận tiện cho Việt Nam trong việc so sánh pháp luật, nghiên cứu và học tập. 1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự 1.2.1. Khái niệm các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự Phân tích từng thành tố trong cụm “các biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự”, bao gồm “biện pháp”, “bảo vệ” và “người làm chứng trong tố tụng hình sự”. Trước hết, theo Từ điển Tiếng Việt Phổ thông (Viện Ngôn ngữ học) định nghĩa: Biện pháp là “cách làm, cách thức xử lý một vấn đề cụ thể nào đó”3; bảo vệ là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn được nguyên vẹn”4. Từ đó suy ra “biện pháp bảo vệ” là cách thức chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho đối tượng được bảo vệ luôn nguyên vẹn, không bị tổn hại, hư hỏng. Tiếp theo là khái niệm “người làm chứng trong tố tụng hình sự”. Sử dụng quy định tại khoản 1 Điều 66 BLTTHS Việt Nam năm 2015 vì dường như không có sự khác biệt về khái niệm người làm chứng của pháp luật các quốc gia trên thế giới. Theo đó “người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng”. Xét về vai trò của người làm chứng, sự có mặt của người làm chứng với những thông tin về tội phạm, người phạm tội mà họ biết được và cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng, có thể khiến người bị buộc tội đối diện với nguy cơ chịu trách nhiệm hình sự. Đó là lý do người làm chứng dễ trở thành đối tượng bị phía người phạm tội xâm hại, xâm phạm quyền an toàn về thân thể, lợi ích tài sản cũng như danh dự, nhân phẩm. Người làm chứng thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án cũng như làm hạn chế những thiệt hại cho nền tư pháp, nên Nhà nước mà cụ thể là cơ quan có thẩm Viện Ngôn ngữ học (2011), Từ điển Tiếng Việt Phổ thông, Nxb. Phương Đông, tr.58. Viện Ngôn ngữ học (2011), Từ điển Tiếng Việt Phổ thông, Nxb. Phương Đông, tr.34. 3 4
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan