Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng the...

Tài liệu Luận văn bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005

.PDF
163
1
133

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH PHẠM HỒNG NHUNG BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƢỢC HƢỞNG THEO LUẬT THƢƠNG MẠI 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 02 - NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƢỢC HƢỞNG THEO LUẬT THƢƠNG MẠI 2005 Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phan Huy Hồng Học viên: Phạm Hồng Nhung -Lớp Cao học Luật kinh tế - Khóa 32 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Những thông tin, dữ liệu trong luận văn đã được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định ngoại trừ những kết quả nghiên cứu do tôi tìm hiểu, phân tích và tổng hợp được. Tôi xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Hồng Nhung DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Bộ nguyên tắc UNIDROIT Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 (PICC) BLDS 2015 Bộ luật dân sự năm 2015 Công ước (CISG) Viên 1980 Công ước của Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 ( United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods) LTM 1997 Luật thương mại số 58/L-CTN ngày 10 tháng 5 năm 1997 (Luật thương mại năm 1997) LTM 2005 Luật thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005 (Luật thương mại 2005) PLHĐKT 1989 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25 tháng 09 năm 1989 (Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989) PECL Bộ nguyên tắc chung Châu Âu về hợp đồng (The Principles of European Contract Law) MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu đề tài ............................................................................... 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 6 6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của luận văn .............. 6 7. Bố cục của luận văn ........................................................................................... 7 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƢỢC HƢỞNG THEO LUẬT THƢƠNG MẠI 2005 .......................................... 8 1.1 Khái niệm, nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại và bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng .............................................................. 8 1.1.1 Khái niệm về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng .......................................................................... 8 1.1.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ................................................................ 11 1.2 Phân loại thiệt hại đƣợc bồi thƣờng ............................................................. 13 1.2.1 Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp ............................................................... 15 1.2.2 Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ................................................... 15 1.3 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng theo luật thƣơng mại 2005 ........................................ 18 1.3.1 Hành vi vi phạm hợp đồng ........................................................................ 20 1.3.2 Thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ........................ 21 1.3.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ..................................................................................................... 24 1.4 Nghĩa vụ chứng minh và hạn chế tổn thất của bên yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng................................. 26 1.4.1 Nghĩa vụ chứng minh ................................................................................ 26 1.4.2 Nghĩa vụ hạn chế tổn thất.......................................................................... 27 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 33 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƢỢC HƢỞNG THEO LUẬT THƢƠNG MẠI 2005 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .............................................................................................. 34 2.1 Quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng theo luật thƣơng mại 2005 ............................................... 34 2.1.1 Xác định thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ......... 34 2.1.2 Quy định về nghĩa vụ chứng minh ............................................................ 36 2.1.3 Quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn thất ..................................................... 38 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng theo luật thƣơng mại 2005................................ 40 2.2.1 Xác định khoản lợi trực tiếp đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng nếu không có hành vi vi phạm ................................................................................... 40 2.2.2 Chứng minh và cách tính toán thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ......................................................................................................... 54 2.2.3 Hạn chế tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ............ 63 2.3 Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng................................. 69 2.3.1 Khái niệm về khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng và xác định khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ........................................................................ 70 2.3.2 Về chứng minh và cách tính thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ......................................................................................................... 71 2.3.3 Về nghĩa vụ hạn chế tổn thất .................................................................... 72 2.3.4 Xem xét bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng là thiệt hại về uy tín doanh nghiệp .......................................................... 73 2.3.5 Thống nhất quy định giữa BLDS và LTM, tăng cường chức năng hướng dẫn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao ............................................................ 74 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 76 KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 77 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong giai đoạn hiện nay vấn đề tự do giao kết hợp đồng giữa các bên ngày càng phổ biến đòi hỏi pháp luật phải đặt ra những quy định chặt chẽ để các bên không lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà cố tình vi phạm, gây thiệt hại cho bên bị vi phạm. Do đó pháp luật đã đưa ra một biện pháp pháp lý quan trọng có vai trò bù đắp cho bên bị thiệt hại những tổn thất là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng đó là bồi thường thiệt hại. Trong hoạt động thương mại cũng vậy, khi các bên giao kết hợp đồng thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên để các bên có thể đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Việc vi phạm hợp đồng của một bên dù là cố ý hay vô ý đều phải chịu những hậu quả do hành vi vi phạm của mình, và hậu quả của sự trừng phạt đó chính là các chế tài trong thương mại. Trong đó, bồi thường thiệt hại với tư cách là chế tài trong thương mại có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm, làm cho hành vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm. Bồi thường thiệt hại là loại chế tài phổ biến nhất được các bên áp dụng khi giải quyết các tranh chấp hợp đồng nói chung và hợp đồng kinh doanh, thương mại nói riêng. Có thể thấy bồi thường thiệt hại không chỉ được quy định trong luật hợp đồng, trong luật thương mại mà còn được quy định trong Công ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước Viên 1980). Việt Nam đã gia nhập Công ước Viên từ năm 2015 và trở thành thành viên thứ 84 của công ước, việc gia nhập Công ước Viên 1980 đã đánh dấu một mốc mới trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại. Theo nghiên cứu từ thực tiễn cho thấy trong luật hợp đồng nói chung, luật thương mại và Công ước Viên 1980, hầu hết trong các vụ tranh chấp xảy ra giữa các bên thì biện pháp được các bên luôn đề cập đến khi có hành vi vi phạm xảy ra của một bên đó là bồi thường thiệt hại. Rõ ràng trong quan hệ hợp đồng, bên nào cũng mong muốn mình có thể đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng, tuy nhiên hành vi vi phạm của một bên 2 đã gây ra những hậu quả bất lợi cho bên còn lại khiến họ không thể đạt được những lợi ích mà mình mong muốn. Bồi thường thiệt hại là một chế tài được pháp luật đặt ra để giúp bên bị thiệt hại có thể bảo vệ được lợi ích chính đáng của mình. Đây là chế tài được rất nhiều tác giả quan tâm và đã nghiên cứu, tuy nhiên mỗi học giả lại phân tích, nghiên cứu theo một hướng riêng. Từ thực tiễn hoạt động xét xử có thể nhận thấy rằng bồi thường thiệt hại trong các tranh chấp về kinh doanh thương mại rất đa dạng và vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể giải quyết được, trong đó tác giả đặc biệt quan tâm đến “bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo Luật thương mại 2005” là một vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa rõ ràng từ những quy định của pháp luật đến thực tiễn xét xử. Do đó để giúp hoàn thiện các quy định của pháp luật thương mại hiện hành về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo Luật thương mại 2005, đồng thời giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng có sự rõ ràng, thống nhất trong tư duy và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp trong hoạt động thương mại, tác giả đã chọn đề tài “ Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo Luật thương mại 2005” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Theo tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu của tác giả, có khá nhiều công trình đề cập liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại trong các hoạt động thương mại theo pháp luật Việt Nam, một số công trình cụ thể như sau: Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Phú Cường với đề tài “Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại” năm 2009: Trong đề tài này, tác giả đã nêu ra được bản chất và những vấn đề cơ bản của chế tài bồi thường thiệt hại trong kinh doanh, thương mại gồm căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ chứng minh trong bồi thường thiệt hại, mối quan hệ giữa chế tài bồi thường thiệt hại với các loại chế tài khác, các trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tổng thể, tác giả đã tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại trong kinh doanh, thương mại nhưng còn việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn như thế nào và bất cập ra sao vẫn chưa được tác giả nghiên cứu sâu để đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện hơn pháp luật thương mại Việt Nam. 3 Sách chuyên khảo Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án xuất bản năm 2010, tái bản năm 2014 của tác giả PGS.TS Đỗ Văn Đại: đối với sách chuyên khảo này, tác giả đã nghiên cứu rất cụ thể các vấn đề pháp lý về hợp đồng, các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thông qua bình luận các bản án. Tác giả đã nghiên cứu, phân tích các quy định của BLDS và LTM về giá trị bồi thường thiệt hại như thiệt hại vật chất, tổn hại tinh thần, bổ sung quy định nói rõ cho phép bồi thường khoản lợi đáng lẽ được hưởng trong BLDS, kiến nghị sửa đổi cụm từ thiệt hại thực tế bao gồm cả tổn thất về tinh thần trong LTM 2005. Công trình nghiên cứu của tác giả là nguồn tài liệu hữu ích làm nền tảng để tác giả sau tiếp tục nghiên cứu các vấn đề còn bỏ ngỏ trong Luật thương mại 2005. Bài viết Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua Luật thương mại Việt Nam, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit của tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22/2009: tác giả đã tìm hiểu, phân tích các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam và quốc tế để so sánh những tương đồng và sự khác biệt của pháp luật thương mại Việt Nam so với pháp luật quốc tế, trong đó tác giả có nghiên cứu về việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại qua LTM 2005, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit. Bài viết của tác giả đã cung cấp cho độc giả thêm nhiều kiến thức về bồi thường thiệt hại theo pháp luật trong nước và quốc tế, từ đó điều chỉnh LTM theo hướng phù hợp hơn với luật quốc tế. Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Đức Trọng (2016) với đề tài Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam: đối với đề tài này tác giả đã nghiên cứu về giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm cả thiệt hại thực tế và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng, tác giả đã đưa ra một số lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại và sử dụng phương pháp phân tích, bình luận án khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về giá trị bồi thường thiệt hại. Bài viết Về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại của tác giả Nguyễn Thị Hằng Nga năm 2006 trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 5: tác giả đã nghiên cứu hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trên cơ sở tìm hiểu những quy định pháp luật và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử, so sánh 4 chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, thực tiễn áp dụng hai chế tài này trong các tranh chấp kinh doanh thương mại. Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2014 của tác giả Trần Trung Hiếu với đề tài Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo luật thương mại Việt Nam: Tác giả đã phân tích các quy định liên quan đến bồi thường thiệt hại theo luật thương mại Việt Nam như căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, yếu tố lỗi, nghĩa vụ chứng minh, hạn chế tổn thất, mối quan hệ giữa chế tài này với các hình thức chế tài khác. Qua nghiên cứu các quy định pháp luật, tác giả cũng nghiên cứu sâu về thực tiễn áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại so với các chế tài khác. Luận văn của tác giả đã làm nổi bật chế tài bồi thường thiệt hại, giúp người đọc có cái nhìn bao quát về chế tài này, so sánh những điểm chưa đồng nhất giữa BLDS và LTM, từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật hơn. Bên cạnh những công trình nêu trên, còn có rất nhiều công trình khác cũng nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại trong hoạt động thương mại. Những công trình luận văn hay các bài viết của các tác giả kể trên đều nghiên cứu các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại, tuy nhiên mỗi tác giả sẽ có những góc độ nghiên cứu khác nhau, có tác giả phân tích, nghiên cứu tổng thể về chế tài này, có tác giả chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế tài này và những bất cập còn gặp phải dựa trên thực tiễn xét xử. Dù vậy, cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng được coi là một loại thiệt hại được xem xét bồi thường đã được pháp luật quy định nhưng chỉ ở mức khái quát nêu ra và chưa được làm rõ, gây nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử cho các cơ quan tài phán khi giải quyết những tranh chấp có liên quan đến bồi thường thiệt hại đối với loại thiệt hại này. Dựa trên những nghiên cứu của các tác giả đi trước về chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại kết hợp với việc nghiên cứu những bản án của Tòa án, phán quyết của Trọng tài là nguồn tài liệu tham khảo rất bổ ích, giá trị để tác giả có thể học hỏi, tiếp thu, chọn lọc trong quá trình thực hiện đề tài “Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005”. 5 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng, việc cụ thể hóa khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng này là gì, cách tính khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ra sao, nghĩa vụ chứng minh, hạn chế tổn thất của bên bị vi phạm như thế nào, từ đó việc chấp nhận một phần, toàn bộ hay bác bỏ yêu cầu bồi thường đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng này dựa trên quan điểm của Tòa án, Trọng tài, thông qua bản án, phán quyết. Qua việc nghiên cứu giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài là cơ sở để tác giả đối chiếu với những quy định của Luật thương mại Việt Nam đang còn nhiều hạn chế. Vấn đề bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng mặc dù đã được luật nêu ra, tuy nhiên những quy định trong LTM đang dừng ở mức độ khái quát, pháp luật chưa dự liệu các tình huống, cụ thể hóa được khoản lợi đó là gì dẫn đến thực tiễn giải quyết các tranh chấp còn bất cập, chưa thống nhất giữa các bên liên quan. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng dựa trên cơ sở lý luận của chế tài bồi thường thiệt hại và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án, Trọng tài về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005. Qua việc phân tích bản án của Tòa án và phán quyết của Trọng tài, tác giả đúc kết được những quan điểm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp, từ đó đưa ra những kiến nghị trong việc cụ thể hóa khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng, việc chứng minh, xác định thiệt hại trong quy định pháp luật để các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết tranh chấp lấy đó làm cơ sở để việc giải quyết tranh chấp có sự thống nhất, hợp lý giữa các chủ thể. Phạm vi nghiên cứu 6 Về mặt nội dung: Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, khi nghiên cứu về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005, luận văn giới hạn ở việc phân tích các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo pháp luật thương mại Việt Nam, có so sánh đối chiếu với pháp luật quốc tế như Công ước Viên 1980 và tập trung sâu vào phân tích, bình luận án qua các tranh chấp kinh doanh thương mại trên thực tiễn. Về mặt không gian: phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo Luật thương mại năm 2005 và bình luận án qua thực tiễn xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết hợp các phương pháp phân tích, hệ thống hóa các quy định pháp luật, so sánh, tổng hợp, bình luận án, đánh giá. Trong chương 1, tác giả tập trung thống kê, phân tích, tổng hợp, đánh giá các vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng trên nền tảng lý luận của chế tài bồi thường thiệt hại. Cụ thể, tác giả đã nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại theo Luật thương mại 2005, có so sánh, phân tích, đánh giá với một số quy định của Công ước Viên 1980. Đồng thời để làm rõ hơn về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005, tác giả thêm các ví dụ và trích một số bản án có liên quan đến chế tài này. Trong chương 2, tác giả tập trung chủ yếu vào phương pháp phân tích, bình luận án để làm rõ những bất cập, thiếu sót về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng thông qua thực tiễn xét xử và đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật thương mại Việt Nam. 6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của luận văn Về lý luận: luận văn góp phần vào kho tàng khoa học pháp lý một cách hệ thống về cụ thể hóa khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng và bồi thường thiệt hại 7 đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005. Đồng thời, luận văn góp phần làm cho Luật thương mại Việt Nam cụ thể, rõ ràng hơn về bồi thường đối với loại thiệt hại này. Luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các học giả khi tìm hiểu về chế định bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng. Về thực tiễn: luận văn phân tích, bình luận các bản án của Tòa án và phán quyết của Trọng tài để nêu lên những bất cập khi luật thương mại không quy định rõ về bồi thường đối với khoản lợi này, do đó thực tiễn có những bất cập khi giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng trong các hoạt động kinh doanh thương mại. Luận văn giúp các thương nhân có thể hiểu rõ hơn về bồi thường đối với khoản lợi này để khi các bên giao kết hợp đồng sẽ minh bạch, rõ ràng và khi có tranh chấp xảy ra giữa các bên thì cơ quan tài phán có căn cứ, quy định cụ thể để việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng, dễ dàng. Về đóng góp mới của luận văn: luận văn đã góp phần hoàn thiện thêm quy định của pháp luật thương mại về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng, là nguồn tài liệu để các nhà làm luật xem xét, bổ sung thêm các vấn đề còn bỏ ngỏ đã được quy định trong Luật thương mại 2005. Để từ đó các cơ quan tài phán có cơ sở giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại liên quan đến bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng được rõ ràng, thống nhất. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 02 chương: Chương 1: Lý luận chung về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005 Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005 và một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật 8 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƢỢC HƢỞNG THEO LUẬT THƢƠNG MẠI 2005 1.1 Khái niệm, nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại và bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng 1.1.1 Khái niệm về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng Pháp luật đang ngày càng tiến bộ và hoàn thiện hơn để phù hợp với sự thay đổi của xã hội, trong đó có những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh buộc những chủ thể trong những quan hệ này phải tôn trọng và tuân thủ những quy tắc nhất định, không thể vì lợi ích cá nhân của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Khi một quan hệ được xác lập và được điều chỉnh bởi những quy phạm pháp luật, nếu một chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chủ thể đó phải chịu những hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Việc gánh chịu hậu quả bất lợi đó bằng việc bù đắp những tổn thất, mất mát cho bên bị vi phạm do hành vi vi phạm của mình được xem là bồi thường thiệt hại. Với nhu cầu phát triển của xã hội, để đảm bảo quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức thì Nhà nước bắt buộc mọi người đều phải tôn trọng các quyền đó của các chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào xâm phạm đến các quyền của họ, nếu vi phạm mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Xuất phát từ mục đích đó, cho nên dù được quy định dưới các góc độ và phạm vi khác nhau nhưng bồi thường thiệt hại đều có thể hiểu là một loại quan hệ dân sự phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần1. 1 Hội đồng phối hợp, phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính Phủ (2010), Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Đặc san tuyên truyền pháp luật, Hà Nội, tr.2 9 Trong quan hệ hợp đồng, nếu hành vi vi phạm của một bên gây ra những thiệt hại, tổn thất cho bên còn lại thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm đó gây ra. Bởi trong quan hệ hợp đồng mỗi bên đều được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như nhau, sự vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại của một bên trong quan hệ hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia. Do đó bồi thường thiệt hại được đặt ra làm cho hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia trong quan hệ thương mại trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm hợp đồng. Bên bị vi phạm được khôi phục lại tình trạng trước khi vi phạm gây thiệt hại và thỏa mãn những quyền lợi chính đáng mà đáng lẽ mình phải được hưởng. Bồi thường thiệt hại trong khoa học pháp lý có thể được khái quát như một chế tài tiền tệ dùng để bù đắp những thiệt hại thực tế cho bên bị thiệt hại2. Trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế, bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm được tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới áp dụng3. Trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình thức trách nhiệm khác thì họ vẫn không đương nhiên mất quyền đòi bồi thường thiệt hại. Vì thế, có thể coi bồi thường thiệt hại là một giải pháp vạn năng cho mọi trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng4. Trong pháp luật của nhiều nước cũng có quy định về chế tài bồi thường thiệt hại như một biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm. Cụ thể, trong Bộ luật dân sự Nhật Bản, tại điều 415 quy định “người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu người có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ phù hợp với tinh thần và mục đích của nó”. Trong Bộ luật dân sự Pháp cũng có quy định về bồi thường thiệt hại như sau: “người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do không thực hiện hoặc thực hiện chậm nghĩa vụ”. Luật thương mại Việt Nam cũng quy định chi tiết về chế tài bồi thường thiệt hại, cụ thể tại khoản 1 Điều 302 Luật thương mại 2005: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. 2 Nguyễn Thị Dung (2001), Áp dụng trách nhiệm hợp đồng trong kinh doanh, NXB chính trị quốc gia Hà Nội, tr.93 3 Trường Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Luật hợp đồng và thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.87 4 Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, tr.433 10 Bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho chủ thể khác. Tại Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt, trách nhiệm có thể được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất là “phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả’; Thứ hai là “ sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”. Theo hai cách định nghĩa như trên, trách nhiệm có nhiều điểm tương đồng với nghĩa vụ nhưng nó cũng hàm chứa một điểm khác biệt quan trọng là yếu tố hậu quả xảy ra. Với trách nhiệm pháp lý, tức trách nhiệm đã được các quy phạm pháp luật điều chỉnh và bảo vệ, các “hậu quả” này sẽ là “hậu quả bất lợi” được áp đặt lên những chủ thể đã có hành vi vi phạm pháp luật5. Trong quan hệ thương mại, khi hợp đồng được giao kết thì quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại, việc vi phạm do cố tình hay vô ý của một bên gây thiệt hại thì bên bị vi phạm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm, mặc dù điều khoản bồi thường thiệt hại không được các bên thỏa thuận trong hợp đồng đã giao kết trước đó. Quy định như vậy đã phần nào bảo vệ trọn vẹn quyền lợi hợp pháp cho chủ thể bị thiệt hại. Bởi hành vi vi phạm của một bên đã làm cho mục đích giao kết hợp đồng của các bên không những bị “phá vỡ” mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của họ. Do đó, pháp luật đã đặt ra chế tài bồi thường thiệt hại như một biện pháp để bên vi phạm có thể khắc phục lỗi của mình bằng cách bù đắp những tổn thất đó. Có thể hiểu bồi thường thiệt hại là một hình thức chế tài vật chất được áp dụng cho bên vi phạm, trừ những trường hợp được miễn trách nhiệm, nhằm bồi thường những tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu và khoản lợi mà đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng. Theo đó, chế tài bồi thường thiệt hại thể hiện mục đích là bù đắp, bồi hoàn toàn bộ thiệt hại thực tế cho bên bị vi phạm hơn là trừng trị bên có hành vi vi phạm hợp đồng6. 5 Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo luật thương mại Việt Nam, Nxb. Tư Pháp, tr.153-154 6 Nguyễn Phú Cường (2009), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM, tr.8 11 Như vậy, chế tài bồi thường thiệt hại là một chế tài mang tính tài sản, việc bồi thường thiệt hại chính là bồi thường những tổn thất thực tế bị mất mát do hành vi vi phạm của một bên trong quan hệ hợp đồng. Về lý thuyết, bồi thường thiệt hại là làm cho hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia trong quan hệ thương mại trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm hợp đồng7. Từ đó cũng có thể hiểu, bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng là việc bên vi phạm phải bồi thường cho bên bị vi phạm những lợi ích về vật chất hoặc phi vật chất mà bên bị vi phạm đáng lẽ sẽ nhận được nếu như hai bên thực hiện đúng như thỏa thuận trong hợp đồng. Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng cũng được xem là một biện pháp pháp lý mà khi một chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây thiệt hại cho khoản lợi mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng thì phải bồi thường. Mục đích chính của biện pháp này là nhằm bù đắp, khôi phục lại lợi ích vật chất, khoản lợi mà bên bị vi phạm đáng lẽ sẽ có được nếu hợp đồng được thực hiện. Đây là một giải pháp để bảo đảm quyền lợi cho các bên khi hợp đồng bị vi phạm, cân bằng lợi ích cho các bên có liên quan trong quan hệ hợp đồng. Thiệt hại là khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng là một loại thiệt hại khá đặc biệt nên khi quy định về bồi thường đối với thiệt hại này pháp luật cũng cần phải cân nhắc. 1.1.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại Thứ nhất, bồi thường thiệt hại được áp dụng theo nguyên tắc “toàn bộ” và “kịp thời”. Bồi thường thiệt hại toàn bộ có nghĩa là thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ. Bên bị thiệt hại phải được đền bù đầy đủ để có thể khôi phục lại lợi ích bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra8. Bồi thường thiệt hại kịp thời có nghĩa là khi thiệt hại xảy ra, bên vi phạm chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải nhanh chóng khắc phục tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Trong BLDS 2015 tại Điều 13 cũng có quy định “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Nghĩa là khi một chủ thể bị xâm phạm đến quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ thì chủ thể có hành vi vi phạm phải có trách nhiệm bồi 7 Lê Văn Tranh (2018), Tlđd 5, tr.147 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hợp đồng và thương mại quốc tế , Nxb Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.88 8 12 thường toàn bộ thiệt hại, nếu hai bên không có thỏa thuận trước về mức bồi thường. Việc bồi thường kịp thời có vai trò quan trọng, nó bù đắp lại những tổn thất về vật chất cho bên bị vi phạm, để bên bị vi phạm sớm ổn định, không bị xáo trộn về thời gian, công việc và các dự định cho công việc ở hiện tại hoặc tương lai9. Thiệt hại là khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng cũng phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng là những giá trị tăng thêm trong tương lai, những lợi ích mà bên bị vi phạm chắc chắn có thể nhận được nếu hợp đồng được thực hiện. Vì vậy, việc bồi thường toàn bộ đối với thiệt hại là khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng nghĩa là bên vi phạm phải bồi thường cho bên bị vi phạm toàn bộ những lợi ích mà đáng lẽ ra bên bị vi phạm sẽ nhận được nếu không có sự vi phạm của bên vi phạm. Thứ hai, bồi thường thiệt hại không làm sinh lợi cho bên bị thiệt hại. Bởi bản chất cuả chế tài bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp những tổn thất, mất mát mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu do hành vi vi phạm của bên vi phạm. Do đó, bên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại không thể lợi dụng sự vi phạm của bên kia để làm “giàu” cho mình, như vậy sẽ trái với bản chất của chế tài bồi thường thiệt hại. Tại Điều 229 LTM 1997 có quy định như sau: “Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng”. Công ước Viên 1980 tại Điều 74 cũng có quy định về nguyên tắc này: “Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”. Mặc dù tại LTM 2005 đã không còn điều khoản nào quy định riêng cho nguyên tắc này, tuy nhiên nguyên tắc này vẫn được mặc nhiên áp dụng và LTM 2005 đã thay thế bằng những quy định có ý nghĩa bao hàm cả nguyên tắc này. Nguyên tắc này được đặt ra là vô cùng cần thiết, hợp lý, phù với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cả đôi bên. Bên nào có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia thì phải có nghĩa vụ bồi thường, ngược lại bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không được lợi dụng việc bồi thường của bên vi phạm để hưởng những lợi ích vượt quá so với thiệt hại thực tế. Trong thực tiễn xét xử, khi xem xét mức bồi thường thiệt hại thì Tòa án luôn xem xét tới nguyên lý bồi thường này để giải quyết yêu cầu bồi thường. Vì bản chất mục đích của bồi thường thiệt hại là đưa lợi ích vật chất của bên bị thiệt hại vào vị 9 Lê Văn Tranh (2018), Tlđd 5, tr.55 13 trí mà lẽ ra họ phải có nếu phía bên kia thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình10. Như vậy, thiệt hại là khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng càng cần phải lưu ý đến nguyên tắc này, vì bản chất đây là thiệt hại trong tương lai, trên thực tiễn rất khó xác định nên khi xác định trách nhiệm bồi thường các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét kỹ để bên bị vi phạm được bồi thường đúng với thiệt hại mà mình phải gánh chịu, không làm giàu cho bên bị vi phạm. Thứ ba, thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại thực tế và trực tiếp. Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng khi bên bị vi phạm yêu cầu bồi thường thiệt hại thì phải chứng minh được thiệt hại của mình là có thật trên thực tế, đặc biệt là thiệt hại đối với khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Bên bị vi phạm phải chứng minh việc có tồn tại khoản lợi này và hành vi vi phạm của bên vi phạm đã ảnh hưởng trực tiếp làm cho bên bị vi phạm mất đi khoản lợi mà mình đáng lẽ được hưởng. Như vậy, thiệt hại ở đây phải là những thiệt hại có thật, thực tế đã xảy ra chứ không phải “sẽ” xảy ra và mức độ thiệt hại để yêu cầu bên vi phạm bồi thường phải là những chứng cứ có liên quan trực tiếp đến thiệt hại. Thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng cũng vậy, muốn được bồi thường thì phải có những số liệu, tài liệu chứng minh, chứ không phải do bên bị vi phạm tự “tưởng tượng” để yêu cầu bồi thường thì sẽ không được cơ quan tài phán chấp nhận. 1.2 Phân loại thiệt hại đƣợc bồi thƣờng Bồi thường luôn phải gắn liền với thiệt hại, nghĩa là có thiệt hại mới có quyền yêu cầu bồi thường. Thiệt hại trong kinh doanh thương mại có thể hiểu là những tổn thất về tài sản hoặc những mất mát lợi ích vật chất, tinh thần. Tuy nhiên, theo Luật thương mại 2005, cụ thể tại Khoản 2 Điều 302 đã phân loại thiệt hại được bồi thường như sau: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Như vậy, LTM 2005 đã nêu rõ giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm : giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. 10 Dương Anh Sơn (2010), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, Tài liệu hội thảo khoa học: “Không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam”
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan