Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động trong tình hình dịch covid 19 t...

Tài liệu Luận văn bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động trong tình hình dịch covid 19 theo quy định của pháp luật lao động việt nam

.PDF
73
1
104

Mô tả:

Pơ; BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH VÕ THỊ NGỌC HUYỀN BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP HỒ CHÍ MINH- 07- 2021 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH VÕ THỊ NGỌC HUYỀN BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM TH.S LƯỜNG MINH SƠN TP HỒ CHÍ MINH- 07- 2021 2 Danh mục chữ viết tắt BLDS Bộ luật Dân sự BHXH Bảo hiểm xã hội BLLĐ Bộ luật Lao động ILO Tổ chức lao động quốc tế NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động WHO Tổ chức y tế thế giới 1 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1: Các ngành chịu sự tác động của dịch Covid-19 năm 2020 ở Việt Nam Bảng 2: Điểm khác biệt cơ bản giữa cách chức trong kỷ luật lao động với quyền nhân sự của người sử dụng lao động Bảng 3: Phân biệt chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp thông thường và khi bị xử lý kỷ luật DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1: Biện pháp ứng phó dịch Covid-19 của một số doanh nghiệp tại Việt Nam 2 Lời cam đoan Lời đầu tiên tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các bạn học cùng lớp, Thầy dạy môn luật Nhật Bản đã bên cạnh giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện khóa luận, và đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn Th.s Lường Minh Sơn, Thầy đã hướng dẫn, chỉ dạy nhiệt tình, giúp tác giả hoàn thành tốt bài khóa luận của mình. Tác giả xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp “Bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động trong tình hình dịch Covid-19 theo quy định pháp luật Lao động Việt Nam” là công trình nghiên cứu độc lập, không sao chép từ ai. Trong bài khóa luận có sử dụng một số nguồn tài liệu tham khảo đã được trích dẫn nguồn và chú thích rõ ràng. Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Bộ môn, Khoa và nhà trường về sự cam đoan này. Sinh viên thực hiện Võ Thị Ngọc Huyền 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU......................................................................................................................5 1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................... 5 2. Tình hình nghiên cứu................................................................................................7 3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................. 8 4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................8 5. Tính ứng dụng của đề tài..........................................................................................9 6. Bố cục bài viết.......................................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19...........................10 1.1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động..................10 1.1.1. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động................................10 1.1.2. Vị trí người sử dụng lao động trong mối quan hệ lao động...................... 12 1.1.3. Vai trò của người sử dụng lao động đối với sự phát triển kinh tế xã hội..14 1.1.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động..................... 18 1.2. Những vấn đề liên quan đến dịch Covid-19....................................................... 19 1.2.1. Tình hình dịch Covid-19............................................................................ 19 1.2.2. Sự ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với người sử dụng lao động.......... 22 CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ............................................................................................. 29 2.1. Quyền lợi của người sử dụng lao động khi dịch Covid-19 xảy ra..................... 29 2.1.1. Chuyển người lao động làm công việc khác với hợp đồng lao động........30 2.1.2. Tạm hoãn thực hiện hợp đồng................................................................... 31 2.1.3. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động................................................32 2.1.4. Thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế.....................................34 2.1.5. Tiền lương và thời gian làm việc............................................................... 36 2.1.6. Thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất................................................................ 39 2.1.7. Quỹ hưu trí, quỹ tử tuất..............................................................................42 2.1.8. Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp................................... 45 2.1.9. Vay vốn ngân hàng.....................................................................................45 2.2. Kinh nghiệm bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động theo quy định pháp luật Nhật Bản..................................................................................................................... 46 2.2.1. Chấm dứt hợp đồng lao động.....................................................................46 2.2.2. Tiền lương.................................................................................................. 51 2.2.3. Thời gian làm việc......................................................................................53 2.2.4. Kỷ luật lao động......................................................................................... 54 2.3. Những bất cập trong quy định pháp luật và một số đề xuất hoàn thiện............. 57 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...........................................................................................62 KẾT LUẬN................................................................................................................63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................64 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng ta đang sống trong thế kỷ 21, bước vào thời đại công nghệ 4.0. Hầu như đi đến đâu cũng dễ dàng bắt gặp sự “hiện đại”của cuộc sống như xe điện, xe hơi, máy bay, cao hơn là trí thông minh nhân tạo, người máy,… hiện có nhiều nhà máy sản xuất nhân công lao động con người đã được thay thế bởi phần mềm, thiết bị máy móc hiện đại, robot,… Song bên cạnh đó, cùng với sự phát triển không ngừng, và ngày càng đổi mới của xã hội thì cũng kéo theo vô số các vấn đề. Sự phát triển của máy móc công nghệ đã ảnh hưởng đến môi trường sống, ô nhiễm không khí từ các khí thải trong quá trình sản xuất, chế tạo, hay vì săn bắn trái phép dẫn đến nhiều loài động vật có nguy có tuyệt chủng. Khai thác rừng bừa bãi, quá mức để xây các khu nghỉ dưỡng, làm đồ gỗ trang trí dẫn đến lũ lụt, sạt lở đèo núi. Lượng lớn rác thải đưa ra ngoài thiên nhiên đã ảnh hưởng đến hệ sinh thái, gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu, biến đổi khí hậu, tạo nên những đợt mưa lớn dẫn đến lũ lụt nghiêm trọng, nắng khắc nghiệt dẫn đến hạn hán. Những hệ quả trên trở thành một trong những nguyên nhân tạo điều kiện mầm bệnh phát triển, gần đây nhất là dịch bệnh do chủng Coronavirus gây ra vào năm 2019, hay còn gọi là Covid-19, đã trở thành nỗi ám ảnh cho người dân trên toàn thế giới, WHO gọi đây là “đại dịch toàn cầu” 1. Dịch bệnh diễn ra ngày càng phức tạp và nguy hiểm, đã cướp đi không biết bao sinh mạng. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối mặt với tình hình dịch bệnh nguy hiểm như vậy, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành chỉ đạo về việc thực hiện mục tiêu kép: “vừa sẵn sàng phòng, chống dịch, vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội”2. Ý nghĩa, người dân Việt Nam trong khi đồng lòng quyết tâm chống dịch, bên cạnh đó không được quên nhiệm vụ gia tăng sản xuất để giữ vững, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, việc duy trì hoạt động sản xuất trong tình hình đại dịch Covid-19 có thể xem là một thử thách vô cùng khó khăn. Khánh An, “COVID-19 trở thành ‘đại dịch toàn cầu’, nên hiểu như thế nào?”, nguồn: https://thanhnien.vn/the-gioi/dai-dich-covid-19-dai-dich-toan-cau-la-gi-co-y-nghia-ra-sao-1194727.html, truy cập ngày 08/04/2021. 1 “Vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, vừa phòng, chống dịch COVID-19”, nguồn: https://moh.gov.vn/tin-lien-quan/-/asset_publisher/vjYyM7O9aWnX/content/vua-ay-manh-phat-trien-kinhte-xa-hoi-vua-phong-chong-dich-covid-19, truy cập ngày 08/04/2021. 2 5 Mặc dù Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi nhận nguyên tắc, “Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ, NSDLĐ và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.”3. Bộ luật Lao động cũng ghi nhận chính sách của Nhà nước về lao động, “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ, quản lý lao động đúng pháp luật, dân chủ, công bằng, văn minh và nâng cao trách nhiệm xã hội”4. Tuy nhiên, trên thực tế đa số mọi người với suy nghĩ NLĐ có vị thế “yếu” hơn trong mối quan hệ lao động với NSDLĐ nên có xu hướng bảo vệ phía NLĐ. Do vậy, vô tình tạo nên sự không công bằng và phân biệt đối xử đối với NSDLĐ trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong mối quan hệ lao động. Quan hệ lao động là mối quan hệ hai chiều tác động qua lại lẫn nhau, lợi ích của các bên vừa mâu thuẫn vừa thống nhất, vừa phụ thuộc vào nhau nên mọi sự bảo vệ một chiều hay thái quá cho một bên đều bất lợi và phản tác dụng5. Vì vậy nếu muốn bảo vệ NLĐ thì trước tiên chúng ta nên bảo vệ quyền lợi của NSDLĐ trước. Vì nếu được pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc sản xuất, kinh doanh, thì họ cũng sẽ đối xử nhẹ nhàng và tạo nhiều cơ hội cho NLĐ. Từ những tài liệu tham khảo liên hệ với nước ngoài, cũng như các quy định trong pháp luật Lao động Việt Nam, tác giả nghiên cứu làm rõ những vấn đề về quyền lợi của NSDLĐ, họ có những quyền lợi gì, được quy định như thế nào, ở đâu, phân tích việc áp dụng có những khó khăn, vướng mắc như thế nào trong tình hình dịch Covid-19, sau đó đóng góp ý kiến hoàn thiện hơn trong việc bảo vệ quyền lợi NSDLĐ. Nhằm giúp chủ thể này có thêm động lực cũng như niềm tin vào pháp luật, yên tâm hơn trong việc giúp nền kinh tế nước nhà hồi phục, phát triển trong bối cảnh “đại dịch toàn cầu” như hiện nay. Với những phân tích, quan điểm như trên, việc nghiên cứu nhằm làm rõ và hoàn thiện quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi NSDLĐ trong tình hình dịch Covid-19 hiện nay là hết sức cần thiết. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM” làm đề tài viết khóa luận tốt nghiệp của mình. Khoản 2 Điều 57 Hiến pháp 2013. Khoản 2 Điều 4 BLLĐ 2019. 5 Lê Hồng Thanh (2002), “Những nền tảng pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Những chế định pháp luật cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb. Hà Nội , tr. 223. 3 4 6 2. Tình hình nghiên cứu Quan hệ lao động là mối quan hệ dân sự xuất hiện nhiều trong đời sống xã hội, vì vậy có nhiều tác giả cũng đã lựa chọn những đề tài nghiên cứu liên quan đến các quyền lợi của những chủ thể trong mối quan hệ này như NSDLĐ. Liên quan đến quyền lợi của NSDLĐ có một số công trình nghiên cứu như sau: - Trần Thị Vân Anh (2018), Pháp luật về quyền của người sử dụng lao động và một số kiến nghị hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Luật Hà Nội; - Lường Minh Sơn (2017), Quyền quản lý của người sử dụng lao động kinh nghiệm một số nước đối với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; - Nguyễn Thị Lành (2010), Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong các cuộc đình công bất hợp pháp, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; - Lê Hoàng Thanh Vân (2016), Quyền quản lý của người sử dụng lao động theo pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; - Lê Thu Thủy Trinh (2012), Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam thực trạng áp dụng và hướng hoàn thiện, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; - Nguyễn Thị Diễm (2011), Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong chế định hợp đồng lao động, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; - Lý Thị Đức Hạnh (2010), Pháp luật lao động với vấn đề bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà Nội; - Trần Thị Hương (2000), Nguyên tắc bảo vệ người sử dụng lao động trong luật lao động, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà Nội. Trên là một số công trình nghiên cứu về quyền lợi NSDLĐ tại hai trường đại học chuyên về luật trọng điểm của Việt Nam. Các đề tài nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề liên quan đến quyền lợi của NSDLĐ, tuy nhiên các tác giả nghiên cứu đặt vấn đề trong điều kiện bình thường, không có dịch bệnh xảy ra trên thực tế. Do vậy không thể biết được quyền lợi của NSDLĐ khi chưa và có dịch sẽ khác như thế nào và trong tình hình dịch bệnh việc sử dụng quyền lợi có những khó khăn, vướng 7 mắc ra sao. Để khắc phục hạn chế này, tác giả lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động trong tình hình dịch Covid-19 theo quy định của pháp luật Lao động Việt Nam”, được nghiên cứu trong giai đoạn dịch bệnh vẫn đang hiện hữu. Có thể thấy đề tài nghiên cứu vẫn còn mới mẻ. 3. Phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Mối quan hệ lao động cá nhân giữa cá nhân NLĐ với NSDLĐ, giữa công nhân, nhân viên với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. Mối quan hệ lao động giữa tập thể đại diện NLĐ và NSDLĐ, giữa đại diện NLĐ với đại diện NSDLĐ và Nhà nước không thuộc đối tượng nghiên cứu của đề tài; Khách thể: Quyền lợi của NSDLĐ trong mối quan hệ lao động với NLĐ; Hoàn cảnh: Được đặt trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đang diễn ra. Văn bản pháp luật: Các quy định tại Bộ luật Lao động, Nghị định. Và một số quy định theo pháp luật Lao động Nhật Bản. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu tác giả chủ yếu sử dụng một số phương pháp như sau: − Phương pháp lịch sử: Mục đích làm rõ dịch bệnh Covid-19 bắt đầu từ khi nào, và ở đâu, thời gian dịch bệnh lan rộng trên thế giới, cũng như nêu những sự kiện đáng chú ý liên quan đến dịch bệnh; − Phương pháp thống kê: Để chứng minh rõ sự nguy hiểm của dịch bệnh, tác giả đã tổng hợp các số liệu về số người nhiễm và số bệnh nhân tử vong tại một số quốc và toàn thế giới. Ngoài ra, những số liệu thể hiện sự tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh đến một số ngành nghề tại Việt Nam. Từ đó, chứng minh mức độ nguy hiểm của dịch bệnh đối với xã hội, kinh tế; − Phương pháp so sánh: Mục đích mở rộng phạm vi nghiên cứu để thấy được sự khác nhau trong việc quy định những vấn đề liên quan đến quyền lợi NSDLĐ giữa Việt Nam với nước ngoài. Theo đó, tác giả sẽ đánh giá phương pháp quy định, xu hướng bảo vệ NSDLĐ giữa các quốc gia. Ngoài ra để nhận thấy sự thay đổi trong cách quy định giữa BLLĐ 2012 với BLLĐ 2019, nêu lên những điểm mới đã được bổ sung, thay thế. Phương pháp này còn sử dụng trong việc so sánh số liệu phát triển của nền kinh tế trước và sau khi dịch bệnh Covid-19 diễn ra, nhằm nổi bật lên hệ quả của dịch bệnh Covid-19 đối với nền kinh tế; 8 − Phương pháp phân tích và tổng hợp: Để hiểu rõ hơn những quy định pháp luật liên quan đến đề tài tác giả đã luận giả, chứng minh làm rõ các vấn đề liên quan, từ những giải thích rút ra kết luận, đưa ra ý kiến đánh giá của tác giả về vấn đề. 5. Tính ứng dụng của đề tài Với độ “nóng” của dịch bệnh Covid-19 cũng như sự “mới mẻ” của đề tài, tác giả mong muốn đem đến một cái nhìn mới trong việc bảo vệ quyền lợi của NSDLĐ được đặt trong bối cảnh thực tế đang hiện hữu, nhằm góp phần vào việc giúp quan hệ lao động trở nên hài hòa, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường cũng như quá trình hội nhập của nước ta. Đối với vấn đề học thuật, tác giả hy vọng bài nghiên cứu của mình sẽ là một trong những nguồn tài liệu tham khảo tin cậy, có ích đối với Thầy, Cô, các bạn sinh viên. Cao hơn, tác giả mong bài nghiên cứu sẽ cung cấp thêm những thông tin, góc nhìn mới về những quyền lợi của NSDLĐ cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, cá nhân. 6. Bố cục bài viết Ngoài phần mở đầu, bài viết gồm có hai chương: CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 9 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 1.1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động 1.1.1. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động Trong đời sống xã hội, hàng hóa không tự nhiên có để phục vụ nhu cầu con người, nền kinh tế cũng không thể tự mình dịch chuyển và phát triển. Phía sau những thành quả ấy là công sức lao động của con người, lực lượng sản xuất6 của xã hội, NSDLĐ và NLĐ. Hai chủ thể này được xem như hai cánh tay đắc lực của Nhà nước trong việc đưa nền kinh tế quốc gia phát triển và duy trì sự phồn vinh của đất nước. Theo pháp luật Lao động tại một số quốc gia, NSDLĐ được định nghĩa như sau, Luật Tiêu chuẩn lao động Nhật Bản, “NSDLĐ là tất cả những người thực hiện hành vi vì chủ doanh nghiệp, về những sự việc liên quan đến NLĐ của công việc này, mặt khác là người đảm nhiệm công việc kinh doanh hoặc chủ doanh nghiệp”7. Hay nói đơn giản NSDLĐ là có thể là người được chủ doanh nghiệp thuê về để thực hiện các công việc liên quan đến NLĐ, hoặc cũng có thể chính là người chủ của doanh nghiệp đó. Luật Lao động Trung Quốc, “NSDLĐ phải thiết lập, duy trì các nguyên tắc và chế độ theo pháp luật, bảo đảm NLĐ được hưởng quyền lợi khi làm việc và thực hiện nghĩa vụ lao động với họ”8. Từ hai cách định nghĩa trên ta thấy được cách định nghĩa của pháp luật Nhật Bản mang tính khái quát cao, việc xác định chủ thể NSDLĐ phụ thuộc nhiều vào ý chí của người áp dụng pháp luật. Dễ gây nên sự hoang mang, vì định nghĩa chưa cụ thể, rõ ràng, phạm vi quá rộng dẫn đến việc khó xác định chủ thể nào là NSDLĐ trong mối quan hệ xã hội đa dạng. Cách định nghĩa của pháp luật Trung Quốc mang tính áp đặt nghĩa vụ, không trình bày dấu hiệu nhận biết NSDLĐ trong môi trường làm việc, mức độ khái quát và tính chung trong quy định rất cao và rộng. 6 Lực lượng sản xuất là một khái niệm dùng để chỉ sự kết hợp giữa NLĐ với tư liệu sản xuất nhằm tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định, tham khảo, Lê Thị Chiên, “Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay”, nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/821033/view_content, truy cập ngày 20/04/2021. 7 Điều 10 Luật Tiêu chuẩn lao động Nhật Bản 1947. 8 Điều 4 Luật Lao động Trung Quốc 1994. 10 Theo quy định của pháp luật Lao động Việt Nam, “NSDLĐ là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng NLĐ làm việc cho mình theo thỏa thuận; trường hợp NSDLĐ là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”9. Lần sửa đổi năm 2019, các nhà làm luật đã thay cụm từ “theo hợp đồng lao động” thành “theo thỏa thuận” thể hiện sự tiến bộ, có quan sát rút kinh nghiệm từ thực tiễn. Vì trên thực tế vẫn tồn tại nhiều mối quan hệ lao động, nhưng các bên không có ký kết bất kỳ hợp đồng lao động, chỉ thỏa thuận bằng miệng, hay còn gọi hợp đồng quân tử10. Lần sửa đổi này giúp mở rộng thêm phạm vi xác định NSDLĐ trong mối quan hệ xã hội, đã không còn bó buộc chỉ trong phạm vi theo hợp đồng lao động như Bộ luật năm 2012. Từ đó, có thể thấy quy định này sẽ bảo vệ tốt hơn quyền lợi của NSDLĐ trong những trường hợp họ không ký hợp đồng lao động, không bỏ sót đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Lao động. Ngoài ra, pháp luật Lao động Việt Nam định nghĩa theo phương pháp liệt kê, việc này dễ dàng hơn trong việc xác định, phân loại. Tuy nhiên, thì hạn chế của phương pháp này là dễ liệt kê thiếu, dẫn đến hệ quả có những chủ thể là NSDLĐ nhưng lại không được công nhận vì không nằm trong phần liệt kê. Dù vậy Quốc hội vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp này, có lẽ điều này mang lại hiệu quả, và không có bất cập hay sự thiếu sót khi áp dụng pháp luật trên thực tế. Dù sử dụng phương pháp định nghĩa nào thì cũng sẽ tồn tại hai mặt ưu và nhược điểm, điều quan trọng là phương pháp đó phù hợp với tình hình, điều kiện phát triển của mỗi quốc gia. Miễn sao việc quy định tạo sự dễ hiểu, thuận lợi để người dân áp dụng trên thực tế không vướng nhiều nhiều bất cập. Từ đó ta có thể hiểu một cách đơn giản NSDLĐ là người thuê, mướn, sử dụng sức lao động của người khác để phục vụ công việc của mình dựa trên thỏa thuận giữa hai bên. Quyền lợi được hiểu là những lợi ích chính trị, xã hội, vật chất hoặc tinh thần do kết quả lao động của bản thân tạo nên hoặc do phúc lợi chung do Nhà nước, xã hội hoặc tập thể cơ quan, tổ chức nơi mình sinh sống, làm việc mang lại11. Nói cách khác, quyền lợi của NSDLĐ là những lợi ích về chính trị, xã hội,… mà họ nhận được do kết quả lao động họ đã đóng góp, mang về cho đất nước về mặt kinh tế và xã hội, điều này làm chúng ta liên tưởng đến nguyên tắc sống “cho đi - nhận lại”. Khoản 2 Điều 3 BLLĐ 2019. Lê Hồng Thanh (2002), tlđd (5) , Tr. 223. 11 Bộ tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa - Tư pháp, tr.651. 9 10 11 Vì vậy việc bảo vệ quyền lợi của NSDLĐ là việc chúng ta bảo vệ những mặt lợi ích mà NSDLĐ được hưởng theo quy định của pháp luật. Đây cũng là một trong những nguyên tắc được Hiến pháp 2013 ghi nhận. Dựa trên nguyên tắc này, pháp luật Lao động đã ghi nhận các quyền của NSDLĐ: quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thuê mướn, tuyển chọn lao động; quyền quản lý, điều hành lao động; quyền xử lý kỷ luật đối người vi phạm, khen thưởng đối với người NLĐ có thành tích; quyền được bảo vệ khi có tranh chấp lao động xảy ra; quyền được bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của NLĐ gây ra12. Lần sửa đổi gần đây nhất, năm 2019 các nhà làm luật đã quan tâm hơn trong việc bảo vệ quyền lợi NSDLĐ, để nhằm tiến tới xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ, phục vụ quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam13. 1.1.2. Vị trí người sử dụng lao động trong mối quan hệ lao động Để có được cuộc sống hiện đại, con người văn minh như ngày hôm nay, loài người chúng ta đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, với nhiều lần chuyển mình “thay đổi màu áo mới”. Từ thời sơ khai, loài người cùng chung huyết thống, sống bầy đàn, hay còn gọi là thị tộc, kinh tế lúc bấy giờ là sở hữu chung về tư liệu sản xuất và tài sản. Sau một thời gian, số lượng người trong thị tộc ngày càng tăng lên, họ tách riêng ra thành các bộ lạc, từ quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân, trong chính thời kỳ này công cụ kim loại đã xuất hiện. Một sự thay đổi lớn giúp đời sống của tổ tiên ta trở nên dư dả, bắt đầu có sự phân công lao động xã hội giữa trồng trọt, chăn nuôi, nông nghiệp với thủ công nghiệp, con người cũng trở nên sở hữu riêng thành quả lao động của mình, hay còn gọi là sở hữu tư nhân. Nhờ vậy bộ tộc ra đời, một tập hợp người đông hơn thay thế bộ lạc và liên minh các bộ lạc. Sự ra đời của bộ tộc đánh dấu sự tan rã của xã hội công xã nguyên thủy và chế độ tư hữu xuất hiện. Trong xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp, giữa người sở hữu nhiều tài sản, tư liệu sản xuất và người không có gì hoặc sở hữu ít. Từ đó, dẫn đến mâu thuẫn giai cấp, Nhà nước ra đời để điều hòa và giải quyết mâu thuẫn này. Sự xuất hiện của Nhà nước góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, trong việc đề ra các chính sách, chiến lược, đường lối,… với quyền lực của mình Nhà nước tổ chức các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Qua đó, ta thấy được hoạt động lao Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật lao động, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr. 40. 13 Nguyễn Văn Bình (2020), “Bộ luật Lao động (sửa đổi) - khung khổ pháp lý mới xây dựng quan hệ lao động và phát triển lực lượng lao động”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 05 - 02/2020, tr. 3. 12 12 động của con người được thực hiện liên tục từ thời xa xưa cho đến ngày nay, từ việc tạo ra thức ăn để duy trì sự sống, đến việc tạo ra sản phẩm trao đổi lấy các sản phẩm khác, và cao hơn con người biết tích trữ của cải để mở rộng quy mô sản xuất và làm giàu cho chính mình, tạo sự phân chia địa vị xã hội. Hoạt động tạo ra sản phẩm với sự tham gia giữa người sở hữu tư liệu sản xuất và người góp sức như vậy được coi là quan hệ lao động. Cụ thể, theo quy định của pháp luật, “quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa NLĐ, NSDLĐ, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ lao động bao gồm quan hệ lao động cá nhân và quan hệ lao động tập thể.”14. Từ định nghĩa trên ta biết được quan hệ lao động được thiết lập giữa NSDLĐ, người có tư liệu sản xuất trong xã hội, và NLĐ, người làm công, góp sức, là mối quan hệ thuê mướn và có trả tiền lương. Như vậy, NSDLĐ trong mối quan hệ này ở vị trí cao hơn và nắm nhiều quyền lực trong tay, cụ thể NSDLĐ bằng quyền năng được pháp luật cho phép, họ thực hiện quyền tuyển dụng, bố trí, điều hành lao động, theo nhu cầu sản xuất, công tác, khen thưởng và xử lý vi phạm đối với NLĐ15. Điều này cũng dễ hiểu, xuất phát từ việc họ là người có nhiều của cải và tư liệu sản xuất, vì cần người tạo ra sản phẩm nên mới thuê mướn người khác về làm công cho mình, nên có quyền lựa chọn, tuyển dụng, sắp xếp phân công lao động miễn sao đem lại lợi nhuận cho mình, và không vi phạm pháp luật. Nếu NLĐ giúp cho “người chủ” của mình tạo ra nhiều sản phẩm, của cải ngày càng tích lũy nhiều, họ càng trở nên giàu có, bắt đầu mở rộng quy mô, nâng cao địa vị, sức ảnh hưởng của mình trong xã hội. Mối liên hệ, gắn kết giữa NSDLĐ và NLĐ giống như dàn nhạc giao hưởng, NSDLĐ là nhạc trưởng, người chỉ huy dàn nhạc, giữ nhịp độ, điều tiết các bè nhạc cụ, NLĐ là các nhạc công, thực hiện, biểu diễn các nốt nhạc dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng. Do vậy, để có buổi hòa nhạc thành công, đòi hỏi sự kết hợp ăn ý, nhịp nhàng giữa nhạc trưởng và nhạc công. Giống với mối quan hệ lao động, cả hai bên cần hợp tác, hỗ trợ qua lại để cùng có lợi, mang lại lợi nhuận, của cải cho NSDLĐ, tạo công ăn việc làm cho NLĐ. Hay nói cách khác, nếu như không có NSDLĐ thì không có nguồn tư liệu để sản xuất, không có kế hoạch thực hiện, không thể tạo ra sản phẩm cho xã hội, không thể đáp ứng nhu cầu của con người, NLĐ cũng không có việc làm. Ngược lại, nếu Khoản 5 Điều 3 BLLĐ 2019. Đỗ Thị Dung (2013), “Về khái niệm quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động”, Tạp chí Luật học, số 6/2013, tr 11. 14 15 13 không có sự góp sức của NLĐ thì những tư liệu sản xuất đó không thể trở thành sản phẩm đáp ứng đủ nhu cầu của con người. Mặc dù NSDLĐ ở vị trí cao hơn, có ưu thế nhiều hơn so với NLĐ, thì vẫn bị hạn chế, đặc biệt là về mặt xã hội. Số lượng NLĐ chiếm số đông áp đảo, mỗi việc họ làm trong quá trình làm việc đều ảnh hưởng đến NSDLĐ. Có một thực tế chúng ta dễ dàng nhận thấy là lực lượng NLĐ tại nơi làm việc luôn chiếm số đông áp đảo, do vậy khi tập thể người này nổi dậy, liên kết đấu tranh đòi quyền lợi, thì ngay lập tức NSDLĐ sẽ trở thành phe “yếu thế”. Ngoài ra, trong mối quan hệ lao động còn có sự tham gia của một chủ thể đặc biệt là Nhà nước. Vì trong lĩnh vực lao động, chủ thể có thẩm quyền quản lý lao động bao gồm Nhà nước và NSDLĐ16. Quản lý của Nhà nước là hoạt động mang quyền lực, bằng cách sử dụng pháp luật tác động lên các chủ thể của quan hệ lao động nhằm điều chỉnh và hướng hành vi các chủ thể này phù hợp với lợi ích chung của xã hội, trong đó có lợi ích của Nhà nước17. Nhà nước ngoài nhiệm vụ chính là đề ra các chính sách, kế hoạch, định hướng phát triển kinh tế, trong mối quan hệ lao động còn xây dựng các hành lang pháp lý để một mặt hạn chế sự lạm dụng quyền lực của NSDLĐ, mặt khác bảo vệ NLĐ cũng như NSDLĐ. Nhà nước đóng vai trò như “cán cân” giúp mối quan hệ trở nên công bằng và hài hòa hơn, vì vai trò của quan hệ lao động hài hòa trong doanh nghiệp là cần thiết18, sẽ tăng năng suất lao động, thúc đẩy sự đoàn kết cùng nhau góp sức xây dựng doanh nghiệp phát triển. Vì vậy, vai trò quản lý của Nhà nước trong mối quan hệ lao động rất quan trọng. 1.1.3. Vai trò của người sử dụng lao động đối với sự phát triển kinh tế xã hội a/ Kinh tế Nền kinh tế của chúng ta đã trải qua hai lần thay đổi, đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên, là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội tự cấp tự túc, sản phẩm được tạo ra thỏa mãn nhu cầu chính người sản xuất, quy mô sản xuất nhỏ, hàng hóa không đa dạng, kém phát triển19. Sau đó, chuyển sang hình thái kinh tế sản xuất hàng hóa hay Đỗ Thị Dung (2013), tlđd (15), tr. 11. Đỗ Thị Dung (2013), tlđd (15), tr. 11, Vũ Minh Tiến (2010), “Quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 31 18 Quan Gia Bình (2009), “Pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ NLĐ, người sử dụng lao động và những giải pháp xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 8. 19 Ngô Đạt (chủ biên) - Nguyễn Quốc Vinh - Nguyễn Hoài Đông - Nguyễn Thanh Hải (2013), “Học thuyết kinh tế Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”, Nxb. Lao động, tr. 6. 16 17 14 còn gọi là nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa ra đời như một bước tiến mới lớn trong lịch sử nhân loại, đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế, cho tới ngày nay nó đã phát triển và đạt tới trình độ rất cao đó là nền kinh tế thị trường hiện đại20. Lần thay đổi này đã đặt nền móng cho đời sống con người trở nên tiện lợi, hàng hóa không ngừng thay đổi cải tiến, mẫu mã đa dạng, quy mô sản xuất lớn, sức cạnh tranh mạnh, cuộc sống công nghiệp hóa hiện đại hóa hơn. Ngoài ra, chúng ta còn trải qua bốn lần cách mạng công nghiệp, lần thứ nhất vào năm 1784, đặc trưng là việc sử dụng năng lượng hơi nước và cơ giới hóa sản xuất. Lần thứ hai từ khoảng năm 1870 đến khi Thế Chiến I diễn ra, đặc trưng là việc sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên quy mô lớn. Lần thứ ba vào khoảng năm 1969, với sự xuất hiện và lan rộng của công nghệ thông tin, sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Và đến lần thứ tư hay còn được gọi là cách mạng Công nghiệp 4.0, bắt đầu vào thế kỷ 21, đang nảy nở từ cuộc mạng lần thứ ba, kết hợp các công nghệ lại với nhau làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học21. Những lần thay đổi mang tính lịch sử như vậy, đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế toàn cầu, lúc này đây vai trò của các doanh nghiệp, công ty, tập đoàn,… được nêu cao, chính họ là người đặt nền móng cho sự phát triển, họ thuộc vào các thành phần kinh tế22, là bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc gia, họ cố gắng tiếp thu cái mới, thay đổi tầm nhìn, hướng đi, để kinh tế phát triển và bắt kịp xu thế chung. Nước Việt Nam chúng ta đang trong giai đoạn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vị trí, vai trò của con người chính là động lực cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển23. Với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030: đổi mới sáng tạo để hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước thịnh vượng, hùng cường, hướng tới một số giải pháp trong đó nâng cao hơn nữa thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết quan hệ Nguyễn Trọng Chuẩn (2020), “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vấn đề con người tiếp cận từ mục tiêu và động lực của sự phát triển”, Tạp chí Cộng sản, số 953 (11-2020), tr. 68. 21 Vũ Việt Hoàng, “Những cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử nhân loại”, nguồn: http://concetti.vn/news/legal_news/150/nhung-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-trong-lich-su-nhan-loai, truy cập ngày 19/04/2021. 22 Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba thành phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, tham khảo, Vũ Văn Phúc, “Kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, nguồn: https://dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-te-nhieu-thanh-phan-trong-nenkinh-te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567515.html, truy cập ngày 19/04/2021. 23 Nguyễn Trọng Chuẩn (2020), tlđd (20), tr. 68. 20 15 giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, nhấn mạnh việc phát huy tốt hơn vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội,… trong việc tham gia xây dựng, phản biện, và giám sát thực hiện chính sách và pháp luật24. Từ định nghĩa NSDLĐ trên, ta thấy được NSDLĐ cũng chính là nhân tố giúp kinh tế đất nước phát triển. NSDLĐ cũng góp nhiều công sức trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, họ phải chủ động trong việc tìm cách mở rộng quy mô sản xuất, tìm kiếm các nhà đầu tư mới từ thị trường nước ngoài, từ đó thu hút dòng vốn ngoại tệ vào thị trường Việt Nam. Một mặt tăng vốn doanh nghiệp, mặt khác qua việc thương lượng đầu tư, góp phần giới thiệu Việt Nam cho phía đối tác, gây hứng thú với các nhà đầu tư, giúp họ thấy được tiềm năng của thị trường Việt Nam mong muốn mở rộng, đầu tư thêm ở các lĩnh vực khác. Như hiện tại nhiều chủ doanh nghiệp Nhật Bản xây dựng công ty, thương hiệu, trung tâm mua sắm vào thị trường Việt Nam như cửa hàng Uniqlo, chuỗi trung tâm thương mại Aeon,… Tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, góp phần tăng thu nhập cho NLĐ. Ngoài ra, NSDLĐ còn góp phần vào việc phát triển khoa học - kỹ thuật, công nghệ của đất nước. Vì nền kinh tế thị trường đã tạo nên sức cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp, đặt ra yêu cầu NSDLĐ phải tìm cách đi theo hướng mới, mở rộng quy mô sản xuất để tăng tỷ lệ thị phần thị trường, nếu không sẽ bị đào thải ngay nếu cứ giữ mãi những cái cũ đã lạc hậu. Từ đó thêm động lực để NSDLĐ tạo điều kiện cho NLĐ đi học tập kinh nghiệm cũng như kiến thức mới ở nước ngoài sau đó truyền đạt lại cho công ty và áp dụng sản xuất, trên nền tảng đó họ nâng cao đổi mới phương pháp, máy móc sản xuất hiện đại tiên tiến hơn. Ví dụ tập đoàn Vingroup, cũng nhờ vào việc họ chịu khó học hỏi nước ngoài, mà giờ đây họ đã có thể chế tạo được xe hơi, chuẩn bị xuất khẩu sang thị trường khó tính như Mỹ, chiếc xe hơi đầu tiên với nhãn “made in Vietnam” sẽ được lăn bánh tại nước ngoài, đây là một niềm vinh hạnh đáng tự hào của đất nước chúng ta, về mặt khoa học - kỹ thuật so với nước bạn25. b/ Xã hội Cùng với những đóng góp về mặt kinh tế, NSDLĐ cũng góp phần vào việc Bùi Tất Thắng (2020), “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030: đổi mới sáng tạo để hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước thịnh vượng, hùng cường”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, 01/2020 số 01+02, tr. 30. 25 Thiên Trường, “Sếp VinFast: Năm 2021 ô tô VinFast sẽ lăn bánh tại Mỹ”, nguồn: https://nhadautu.vn/sepvinfast-nam-2021-o-to-vinfast-se-lan-banh-tai-my-d32830.html, truy cập ngày 23/04/2021. 24 16 phát triển xã hội. Khi họ là chủ thể nòng cốt trong công cuộc tạo việc làm cho hàng triệu NLĐ trên khắp cả nước, giảm tỷ lệ thất nghiệp, người nghèo, góp phần nâng cao đời sống NLĐ, tạo thu nhập để duy trì cuộc sống hằng ngày và góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội đối với những nguồn lao động trẻ không được may mắn đến trường như bạn bè đồng trang lứa. Thế giới ngày càng hội nhập, hiện đại, văn minh, dẫn đến yêu cầu tuyển dụng ngày càng nâng cao, không chỉ kiến thức chuyên môn, mà còn các kỹ năng mềm như ngoại ngữ, tin học,... trong khi Việt Nam đang dần trở thành sự ưu tiên của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Từ đó, dẫn đến việc người dân có ý thức trong học tập, nếu họ muốn có việc làm lương cao. Kiến thức, trình độ hiểu biết của NLĐ được mở rộng, tăng nguồn nhân lực lao động có tri thức, góp phần làm cho xã hội trở nên văn minh. Không những vậy, NSDLĐ còn góp phần vào việc thay đổi chương trình đại học, gồm có hai hình thức26, thứ nhất gián tiếp thông qua các kênh thông tin tuyển dụng, phản hồi chất lượng sinh viên tốt nghiệp, cung cấp các yêu cầu đối với sinh viên tốt nghiệp thông qua buổi kiến tập, giới thiệu việc làm,… Sinh viên nhận thức được những điều còn thiếu sót, chủ động đầu tư thêm kiến thức, kỹ năng cần thiết. Thứ hai hình thức trực tiếp, đóng góp ý kiến về chuẩn đầu ra, và chương trình đào tạo, từ đó chương trình học tập của sinh viên được thay đổi, chuyển sang thực hành nhiều hơn là lý thuyết, trường học cũng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ học tập mới, hiện đại để phục vụ tốt nhất cho người học. Ngoài ra, NSDLĐ còn đóng góp hỗ trợ, tổ chức các quỹ học bổng dành cho các em học sinh nghèo hiếu học, hay tài trợ xây dựng đường, cầu, nhà, trường học,… cho người dân ở khu vực vùng khó khăn thông qua các chương trình như: Vượt lên chính mình, sáng mãi ước mơ, ngôi nhà mơ ước, lục lạc vàng,… . Gần đây nhất trong tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp khi số ca bệnh ngày càng nhiều, tăng áp lực lên ngành y tế, tập đoàn Vingroup đã quyên góp cho Bộ y tế 3.000 máy thở VFS-410 và 200 máy thở VFS-51027. Tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, người đứng đầu hãng hàng không tư nhân lớn nhất Việt Nam, Vietjet, đã hỗ trợ các chuyến bay miễn phí để đưa người dân ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,… về lại quê hương giữa lúc mùa dịch. Ông Hồ Hùng Anh, Chủ tịch hội đồng Lê Chi Lan (2016), “Vai trò của người sử dụng lao động trong việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo đạo học”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Nghiên cứu giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016), tr. 55. 27 “Bộ Y tế tiếp nhận 3.200 máy thở của Tập đoàn Vingroup phục vụ chống dịch COVID-19”, nguồn: https://moh.gov.vn/tin-noi-bat/-/asset_publisher/3Yst7YhbkA5j/content/bo-y-te-tiep-nhan-3-200-may-thocua-tap-oan-vingroup-phuc-vu-chong-dich-covid-19 , truy cập ngày 23/04/2021. 26 17 quản trị Techcombank cũng đã trao 10 tỷ đồng để chung tay chống dịch, hạn mặn28. Họ đều là những NSDLĐ lớn ở đất nước Việt Nam, mặc dù chịu không ít tổn thất trong mùa dịch, nhưng với tấm lòng cao cả, tinh thần “đoàn kết” của dân tộc Việt Nam, họ đã trích ra một phần quỹ để hỗ trợ người dân, giúp đỡ Nhà nước trong công cuộc phòng chống dịch bệnh nguy hiểm. Chúng ta thử nghĩ nếu xã hội không có sự giúp sức của những NSDLĐ như vậy, thì liệu chúng ta có thể vượt qua được khó khăn? Từ phương diện kinh tế hay xã hội, NSDLĐ đều thể hiện vai trò quan trọng không thể thiếu của mình, một mặt đưa nền kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống, mặt khác là các “mạnh thường quân” cùng với Nhà nước, chung tay giúp người dân cả nước vượt qua khó khăn. 1.1.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động Trong mối quan hệ lao động không phải lúc nào thiệt thòi cũng thuộc về phía NLĐ. Vì thuộc phe yếu thế nên NLĐ nhận được rất nhiều sự bảo vệ từ pháp luật. Biết được điều này họ đã lợi dụng để chèn ép, gây áp lực với phía NSDLĐ, như tổ chức các cuộc đình công bất hợp pháp, tự ý bỏ việc, đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật,… gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho NSDLĐ. Mặc dù ở vị thế cao hơn so với NLĐ, nhưng quyền lợi của NSDLĐ không được bảo đảm một cách tuyệt đối, vì đặc thù hoạt động kinh doanh mang tính rủi ro cao phục thuộc vào nhiều yếu tố, chính sách của Chính phủ, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh,… do vậy cần thiết việc đặt ra yêu cầu cần bảo vệ quyền lợi của NSDLĐ, người có vị trí quan trọng và đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”29, NSDLĐ cũng là một chủ thể trong quan hệ pháp luật Lao động, vì thế họ cũng cần được “quan tâm”, bảo vệ giống như NLĐ, thực hiện tốt nguyên tắc cơ bản này đồng thời cũng thể hiện tính tối thượng của Hiến pháp và bản chất Nhà nước pháp quyền của Việt Nam30. Khi bảo vệ quyền lợi NSDLĐ ta sẽ thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam, giúp tăng dòng vốn ngoại tệ, tăng cơ hội làm việc, tăng sự đa dạng hàng hóa, đa dạng nền kinh tế. Vì tạo cho nhà đầu tư nước ngoài cảm giác “Tỷ phú Việt “nối vòng tay lớn” giữa mùa dịch Covid 19”, nguồn: https://www.hdbank.com.vn/vi/about/tintuc/tin-tuc/ty-phu-viet-noi-vong-tay-lon-giua-mua-dich-covid-19 , truy cập ngày 23/04/2021. 29 Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp 2013. 30 Tính tối thượng của Hiến pháp là thể hiện hiệu lực tối cao trong hệ thống pháp luật, luật cơ bản nước Việt Nam. Nhà nước pháp quyền là nhà nước sẽ quản lý xã hội dựa trên pháp luật, không ai có thể đứng trên pháp luật, mọi người đều phải tuân theo pháp luật. 28 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan