Header Page 1 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*********
NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
LỄ HỘI ĐỀN HÙNG TRONG
ĐỜI SỐNG TÂM LINH NGƯỜI VIỆT
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học
HÀ NỘI - 2010
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 1 of 95.
1
Header Page 2 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*********
NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
LỄ HỘI ĐỀN HÙNG TRONG
ĐỜI SỐNG TÂM LINH NGƯỜI VIỆT
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học
Người hướng dẫn khoa học
Th.S. GVC: VŨ NGỌC DOANH
HÀ NỘI - 2010
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 2 of 95.
2
Header Page 3 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai thực hiện đề tài: “Lễ hội đền Hùng trong
đời sống tâm linh người Việt”, tác giả khóa luận đã thường xuyên nhận được
sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn và đặc biệt
là của Th.S - GVC Vũ Ngọc Doanh - người hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả khóa luận xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn chân thành
nhất tới các thầy, cô giáo đã giúp tác giả hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 2010.
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Quỳnh Nga
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 3 of 95.
3
Header Page 4 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận này
là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của Th.S- GVC Vũ
Ngọc Doanh.
Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên của các
tác giả khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình
trong khóa luận này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 2010.
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Quỳnh Nga
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 4 of 95.
4
Header Page 5 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Lịch sử vấn đề
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
5. Phương pháp nghiên cứu
4
6. Đóng góp của khoá luận
4
7. Bố cục của đề tài
4
NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Khái niệm văn hoá
6
1.2. Khái niệm văn hoá tâm linh
7
1.3 Văn hoá tâm linh trong đời sống người Việt
9
1.4. Văn hoá tâm linh trong đời sống hiện nay
10
Chương 2: Lễ hội Đền Hùng trong đời sống văn hoá tâm linh người Việt
2.1. Khái niệm Lễ hội
14
2.2. Lễ hội Đền Hùng
16
2.2.1. Truyền thuyết Hùng Vương.
16
2.2.2. Phần lễ
18
2.2.2.1. Thời Hùng Vương
18
2.2.2.2. Thời kỳ Bắc thuộc.
19
2.2.2.3. Các triều đại phong kiến
20
2.2.2.3. Thời kỳ Cách mạng tháng Tám cho đến nay
24
2.2.3. Phần hội
28
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 5 of 95.
5
Header Page 6 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
2.2.3.1. Hội xưa
28
2.2.3.2. Hội nay
31
2.3. Vua Hùng trong đời sống tâm linh người Việt
40
2.4. Ý nghĩa của Lễ hội đền Hùng
44
Chương 3: Thực trạng và giải pháp phát triển Du lịch Văn hoá Nhân văn
của Lễ hội Đền Hùng.
3.1. Thực trạng phát triển du lịch
47
3.2. Giải pháp phát triển du lịch
48
Kết luận
51
Tài liệu tham khảo
52
Phụ Lục
54
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 6 of 95.
6
Header Page 7 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hành trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là
quá trình lắng đọng, bồi đắp những lớp phù sa văn hoá để làm nên độ dày của
hệ thống thang bậc giá trị vật chất và tinh thần. Mỗi vùng quê nằm trải dài
trên dải đất cong hình chữ S đều là không gian văn hoá để chúng ta không
ngừng tìm hiểu, khám phá. Phú Thọ - Đất Tổ Hùng Vương chính là vùng đất
khởi đầu của những giá trị đó.
Triều đại Hùng Vương tồn tại trong tâm thức của người Việt Nam là
triều đại dựng nước, là tổ tông, cội nguồn của người Việt. Sự kết hôn giữa
Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sinh ra tộc người Việt sinh ra con Rồng, cháu
Tiên. Và cũng từ đây, Vua Hùng đã trở thành một biểu tượng văn hoá tâm
linh của dân tộc. Trong rất nhiều triều đại lịch sử, khi đất nước bị giặc ngoại
xâm các vị vua, các tướng lĩnh, các nhà lãnh đạo đã tìm đến với Đền Hùng
như nơi nương tựa tâm linh, nơi làm tăng thêm sức mạnh để chiến đấu chống
ngoại xâm. Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã căn dặn các chiến sĩ bộ
đội:"Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu phải cùng nhau giữ lấy
nước" nhân chuyến Bác về thăm Đền Hùng. Ngày nay, khi chiến tranh đã lùi
xa, cả dân tộc việt Nam lại bước vào cuộc chiến mới, cuộc chiến trên mặt trận
Văn hoá - Kinh tế. Xu hướng hội nhập và phát triển đã kéo theo các luồng văn
hoá ngoại lai vào nước ta với những tác động tới đời sống con người cả về vật
chất và tinh thần. Song trong sâu thẳm tâm thức của người Việt Nam - Lễ hội
Đền Hùng (hay còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương) từ bao đời nay đã trở thành
một biểu tượng văn hoá tâm linh, điểm hội tụ tinh thần đại đoàn kết cộng
đồng các dân tộc Việt."Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 7 of 95.
7
Header Page 8 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
nguồn "gốc cội có lớn lao thì cành lá mới sum xuê tươi tốt, nguồn nước có xa
xăm thì dòng chảy mới lâu dài.
Có những chuyện dường như ai cũng biết cũng tâm niệm. Ấy vậy mà
khi bàn đến vẫn thấy mới lạ, hấp dẫn. Những chuyện về thân phận con người,
hạnh phúc tình yêu, tình cảm sâu xa về nguồn cội dân tộc. Đề tài vẫn vậy chỉ
có cách tiếp cận, cách hiểu, cách diễn giải ở mỗi thời là khác nhau. Cùng với
quá trình của phát triển, của tư tưởng văn hoá Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử khác nhau Lễ hội Đền Hùng lúc đầu xuất hiện ở Phú Thọ - miền đất quan
trọng đứng đầu đất nước thời đại Hùng Vương, được phát triển và nhân rộng
trong toàn quốc qua các thời đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, dần dần mang tính
quốc gia dân tộc. Cuối cùng là thời kỳ đương đại, chính nhờ sự quan tâm
ngày càng lớn của các phong trào dân tộc cũng như toàn thể dân tộc, đặc biệt
là sự quan tâm của Cách mạng, Đảng Cộng sản, Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, một sự phát triển toàn diện và vượt bậc đã tạo được cơ sở và tiền
đề thuận lợi để ngày càng tiến theo hướng làm cho Lễ hội Đền Hùng trở thành
một tâm điểm và tiêu điểm hàng đầu của nền văn hoá tâm linh dân tộc.
Đồng thời xuất phát từ thực tế về việc phát triển du lịch xung quanh Lễ
hội và việc hiện nay tỉnh Phú Thọ đang có chủ trương xây dựng " Thành phố
Lễ hội" với Việt Trì và Khu di tích Đền Hùng là tâm điểm.
2. Mục đích của đề tài
Như một tập quán không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của
người dân Việt Nam hàng năm cứ đến ngày mồng mười tháng ba âm lịch,
đồng bào trong và ngoài nước lại nhớ về cội nguồn, náo nức trẩy hội đền
Hùng.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
( Ca dao)
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 8 of 95.
8
Header Page 9 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
Năm 1995 theo quyết định của Ban Bí thư Trung Ương Đảng, giỗ Tổ
Hùng Vương là một trong những ngày lễ lớn được tổ chức trong thể theo nghi
thức cổ truyền.
Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành tình cảm sâu đậm, ăn sâu vào máu thịt
và đã trở thành truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt. Trong
mỗi thôn xóm, mỗi làng quê, người Việt Nam có đình chùa, lăng, miếu để con
cháu thờ tổ tiên, thờ những người anh hùng có công với làng xã và với đất
nước. Cả dân tộc có chung một ngày giỗ Tổ, có chung một cội nguồn. Mỗi
người Việt Nam chúng ta tự hào có chung tổ Hùng Vương với 18 đời Vua,
dựng xây nước Văn Lang xa xưa, nhà nước đầu tiên của Việt Nam với hàng
nghìn năm trị vì mà không phải bất cứ một dân tộc nào trên thế giới có được.
Có chung một cội nguồn chung một tổ tiên để người Việt từ ngàn đời và
cả hôm nay cũng như mãi mãi mai sau có chung tình cảm và đạo lý để mà yêu
thương nhau và cùng nhau xây dựng non sông đất nước. Chính vì vậy, Giỗ Tổ
Hùng Vương là biểu tượng cho ý chí và tinh thần dân tộc. Từ các triều đại
trước, lễ hội Đền Hùng luôn được quan tâm, gìn giữ và tôn vinh và cho đến
tận ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị? Để hiểu được điều đó cần có sự tìm
hiểu kỹ lưỡng và toàn diện về lễ hội để thấy được Lễ hội đền Hùng có ảnh
hưởng như thế nào với đời sống tâm linh người Việt và đề xuất giải pháp phát
triển du lịch văn hoá để lễ hội Đền Hùng xứng tầm với ý nghĩa là Quốc lễ.
3. Lịch sử vấn đề
Từ trước tới nay lễ hội Đền Hùng đã trở thành phương tiện để Nhân
dân ta thể hiện giáo dục và củng cố tinh thân cộng đồng, đạo lý dân tộc, tình
cảm, nguyện vọng, tư tưởng cũng như ý chí dân tộc. Bởi vậy, lễ hội Đền
Hùng có sức sống mãnh liệt trong tâm thức của người Việt qua các thời kỳ
lịch sử của đất nước. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu và viết về lễ hội Đền
Hùng như:
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 9 of 95.
9
Header Page 10 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
Lê Lựu (chủ biên), Đền Hùng nơi hội tụ văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá Thông tin.
Lê Tượng - Phạm Hoàng Oanh, Đền Hùng Di tích lịch sử văn hoá đặc biệt
Quốc gia, Nxb Văn hoá - Thông tin.
Ngô văn Phú, Hùng Vương và Lễ hội Đền Hùng, Nxb Hội Nhà Văn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghi Lễ trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Các trò chơi diễn ra trong ngày hội
* Phạm vi nghiên cứu
Lễ hội Đền Hùng trong đời sống tâm linh của người Việt
5. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
*Phương pháp điền dã, sưu tầm, khảo sát.
*Phương pháp tổng hợp nghiên cứu, phân tích tài liệu.
*Phương pháp so sánh .
6. Đóng góp của khoá luận
- Việc nghiên cứu Lễ hội Đền Hùng luôn song hành và có mặt của các nghi
thức cũng như các hoạt động văn hoá liên quan không thể tách rời. Trong khi
nghiên cứu và tìm hiểu Lễ hội Đền Hùng khoá luận sẽ chú trọng một số vấn
đề lý thuyết về lịch sử văn hoá Việt Nam thông qua việc xem xét và trình bày
về mối tương quan và ảnh hưởng giữa một bên là lịch sử văn hoá dân tộc với
một bên là đời sống tâm linh của người Việt. Văn hoá tâm linh của con người
được nghiên cứu như một tác nhân, không chỉ sinh tạo mà còn quyết định tới
những giá trị của Lễ hội. Ngược trở lại, sản phẩm văn hoá đặc sắc này cũng
có những tác động không nhỏ tới tinh thần cũng như lịch sử văn hoá dân tộc.
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 10 of 95.
10
Header Page 11 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
- Khoá luận làm rõ giá trị văn hoá và vai trò của Lễ hội Đền Hùng tới đời
sống tâm linh người Việt cũng như việc phát triển du lịch văn hoá nhân văn
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục và
Mục lục, đề tài gồm ba chương với cấu trúc như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Lễ hội Đền Hùng trong đời sống văn hoá tâm linh người
Việt
Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch văn hoá nhân văn của Lễ hội
Đền Hùng.
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 11 of 95.
11
Header Page 12 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm văn hoá
Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm
nên sức sống mãnh liệt giúp cộng đồng Dân tộc Việt Nam vượt qua bao sóng
gió ghềnh thác tưởng chừng như không thể vượt qua nổi để không ngừng lớn
mạnh và phát triển. Văn hoá là một sức sống bên trong, văn hóa được tạo ra
từ lao động sinh hoạt và phát triển trong cái nôi địa hình sinh thái và môi
trường của bản thân mình. Văn hóa thể hiện một cách rõ rệt bản chất sâu xa
của con người.
Những năm gần đây, nhận thức về vai trò của văn hoá ở nước ta được
nâng lên đúng với giá trị đích thực của nó. Nghị quyết lần thứ 4 của Ban chấp
hành Trung ương khoá VII đã khẳng định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự
kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã
hội và với thiên nhiên. Nó vừa là động lực thúc đẩy vừa là một mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của chúng ta.
Nói tới văn hoá là nói tới toàn bộ những giá trị về vật chất và tinh
thần, thể hiện trình độ sống, dân trí, những quan niệm về đạo lý nhân sinh,
thẩm mỹ của một dân tộc và dấu ấn của mỗi con người. Văn hoá tạo nên sự
khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác. Giá trị của một nền văn hoá
thường được bồi đắp qua nhiều thế kỷ có tính tiếp nối truyền thống như
những lớp phù sa ít có tính đột biến trong phát triển. Vì văn hoá liên quan đến
mọi mặt của đời sống của con người nên nó mang một ngoại diên rất rộng,
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 12 of 95.
12
Header Page 13 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
nghĩa là bất cứ một cái gì (một cá thể nào) do con người làm ra, đều có chứa
thuộc tính văn hoá, đều được nhân hoá . Vậy "văn hoá" là gì?
Từ "văn hoá" có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng việt "văn hoá " được
dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức trình độ văn hoá, lối sống (nếp
sống văn hoá), theo nghĩa chuyên biệt để trình độ phát triển của một giai đoạn
(văn hoá Đông Sơn) .Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hoá bao gồm tất cả, từ
những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao
động.
Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng
trăm định nghĩa khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết cần xác
định được những đặc trưng cơ bản của văn hóa (tính hệ thống, tính giá trị,
tính nhân sinh, tính lịch sử) từ đó có thể đưa ra một định nghĩa văn hoá như
sau: "Văn hoá là một tổng thể các giá trị vât chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoat động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội và với chính bản thân
mình"(Trần Ngọc Thêm, Giáo trình Cơ sở Văn hoá Việt Nam).
1.2. Khái niệm văn hoá tâm linh
Như đã nói ở trên, văn hoá là những gì do con người tạo ra nên trong
quan hệ với tự nhiên xã hội con người tự nhiên được phân chia thành hai vế:
tự nhiên ngoài ta (môi trường) và tự nhiên trong ta (bản năng). Cũng vậy, xã
hội được chia thành hai: xã hội ngoài ta (cộng đồng) và xã hội trong ta (cá
nhân). Trong tâm thức của người Việt Nam với phương pháp tư duy âm
dương, con người đã phân chia thế giới thành hai: thực và ảo, vật chất và tinh
thần, trong đó cái mà họ quan tâm nhất chính là đời sống tâm linh. Loài người
từ rất xa xưa đã cảm nhận rằng, con người có hai phần: phần xác và phần hồn
được kết hợp theo nguyên lý âm dương. Mọi sự diễn ra trong cuộc sống đều
biểu hiện sự linh cảm của chúng ta. Tinh thần hướng tới đâu đều mang màu
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 13 of 95.
13
Header Page 14 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
sắc của trí tuệ, của tâm lý. Văn hoá tâm linh thường được biểu hiện sinh động
ở những nơi cuộc sống tinh thần rộn ràng trong tâm can, trong môi trường.
Bất cứ cá nhân sinh thể nào cũng có tư tưởng "uống nước nhớ nguồn" bởi sau
những thời kỳ sôi nổi của thể chất, sau những thành công mỹ mãn trên thế
gian và sau quá trình tăng trưởng tột bậc... thì con người ta lại phảng phất
những tâm tư thưở còn thơ, những hoài vọng cổ xưa thanh thản nhẹ nhàng
hay le lói những khát ngưỡng huyền chân. Người ta làm những cuộc hành
hương về cố hương để chứng tỏ lòng thành của mình để biểu lộ tấm lòng của
mình với tiền nhân: "Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra".
Sau những thăng trầm của cuộc đời, con người ta không lường trước
được những gì phù trợ hay cản trở, có lúc quật ngã hay nâng đỡ bản thân mặc
dù những tính toán được nhen nhóm để cầu "may hơn khôn". Cái gì phù trợ
hay quật ngã nếu không phải là chính những hành vi nhân quả của mình trong
hiện tại lẫn những nghiệp lực trong quá khứ, tiền kiếp trỗi dậy nhằm "trung
hoà" hay "hoá giải" nhưng sự tương phản đối xung mà lai khứ ngăn sông, cấm
chợ. Trong cuộc sống có những sự vượt quá khả năng cảm nhận của tư duy
thông thường những điều khác thường mà không dễ gì giải thích nổi với nhận
thức của trí não. Trong giấc ngủ, thậm chí ngay cả trong cảm thức hàng ngày,
có nhiều hiện tượng mờ ảo không tiên liệu được nhưng sự "ứng nghiệm" lại
rất rõ. Thậm chí có những điều cấm đoán, kiêng kỵ, có những môi trường
thâm nghiêm u hiển và có những vùng không thể chạm tới. Tâm linh huyền
ảo được thêu dệt lên từ những sự việc, hiện tượng đó. Những biểu hiện trên
được con người nhận thức, tỏ thái độ (e dè, sợ hãi hay huyền diệu) và bắt
buộc hành động mà tạo nên môi trường văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh
đan quyện quán xuyến văn hoá tinh thần. Văn hoá tinh thần là biểu hiện cụ
thể của văn hoá tâm linh trong cuộc sống. Vì vậy văn hoá tâm linh không gì
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 14 of 95.
14
Header Page 15 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
khác hơn là "Những hoạt động tinh thần, nhận thức tâm lý của con người để
thể hiện bản năng siêu việt nhất của mình trong cuộc sống". (Hồ Văn Khánh,
Tâm hồn khởi nguồn cuộc sống văn hoá tâm linh).
1.3.Văn hoá tâm linh trong đời sống người Việt
Văn hoá tâm linh là một thuật ngữ được dùng để chỉ một loại hình văn hoá
tinh thần đặc thù của người Việt Nam lấy đối tượng là sự bày tỏ tình cảm linh
thiêng, niềm tin linh thiêng, sự tri ân của những người đang sống đối với
những người thân đã mất, đối với những vị anh hùng dân tộc, những liệt sĩ
được tôn làm Thánh, làm Thần, làm Thành hoàng… diễn ra trong một không
gian thiêng và thời gian thiêng nhất định. Từ xa xưa, trong các hoạt động văn
hoá truyền thống dân tộc, người Việt Nam đều có tổ chức các hoạt động văn
hoá tâm linh, hoặc do nhà nước Trung Ương tổ chức, hoặc do làng, xã tổ chức
theo những lễ nghi trang trọng, uy linh, với sự tham gia một cách thành kính,
tự nguyện của nhân dân. Đó là Lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương, Lễ tế Trời, Đất, tế
Thần, Thánh, tế Tổ tiên nhằm mục đích cầu cho quốc thái, dân an, cho con
cháu hạnh phúc. Trong phạm vi một dòng tộc, một gia đình cũng có các sinh
hoạt văn hoá tâm linh. Đó là việc thờ cúng tổ tiên, sửa sang đền miếu, xây đắp
mồ mả vào các dịp tết Nguyên Đán, các ngày giỗ tổ, giỗ ông, bà, cha, mẹ.
Thông qua những hoạt động văn hoá tâm linh đó, con người ta tự tu tâm, tích
đức để trở nên tốt đẹp hơn, đoàn kết hơn, hướng thiện hơn, bớt đi cái ác, cái
xấu trong lòng. Ý nghĩa tích cực của các hoạt động văn hoá tâm linh được
người Việt khai thác rất có hiệu quả vào việc giáo dục các thế hệ con cháu, cố
kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc, truyền thống. Hoạt động văn hoá tâm linh đã
trở thành một nhu cầu văn hoá lành mạnh, đầy tính nhân văn của người Việt
Nam. Hãy lấy tục thờ cúng tổ tiên của người Việt làm ví dụ. Thờ cúng tổ tiên
là một nét đẹp trong văn hoá tâm linh của người Việt Nam. Hầu như gia đình
Việt Nam nào cũng có bàn thờ tổ tiên. Trong tâm thức của người Việt Nam,
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 15 of 95.
15
Header Page 16 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
ông bà, cha mẹ, những người ruột thịt thân yêu của họ dù có “khuất bóng”
nhưng không “mất”. Họ vẫn “sống” trong tình cảm tôn kính, yêu thương, nhớ
nhung, gần gũi của người hiện tại. Trong cái không gian thiêng và thời gian
thiêng đó, từ sâu thẳm trong tâm hồn của con người, quá khứ và hiện tại bỗng
giao hoà, giao cảm vào nhau, rất gần gũi, rất hiện hữu, không có cái cảm giác
cách biệt. Chính sự rung cảm thiêng liêng đó đã góp phần tu chỉnh ý thức và
hành vi của người đang sống sao cho tốt hơn, hoàn thiện hơn, tâm, đức trong
sáng hơn, có tính nhân bản, nhân đạo, nhân văn hơn. Đó cũng là một động lực
tinh thần đặc biệt để họ sống, phấn đấu, vươn lên những giá trị cao đẹp của
cái Chân - Thiện - Mỹ mà tổ tiên họ, cha ông họ mong muốn.
1.4. Văn hoá tâm linh trong đời sống hiện nay
Do ảnh hưởng của các tôn giáo, người Việt tổ chức xây đền chùa, miếu mạo,
nhà thờ, giáo đường...và thực hành các nghi lễ cầu cúng. Nhiều công trình,
hiện vật liên quan đến văn hóa tâm linh đã trở thành những di sản văn hóa,
lịch sử quý giá, nhiều công trình văn hóa tâm linh được xây dựng ở những địa
điểm có phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, kì thú trở thành những điểm du lịch
hấp dẫn... Nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền, dân tộc. Thế
giới văn hóa tâm linh của người Việt được xây dựng theo mô hình “dương
sao, âm vậy - trần sao, âm vậy”. Vì vậy, nên coi đây là quan niệm xuất phát
để tìm hiểu về mô hình thế giới tâm linh của người Việt.
Hình thành từ xã hội nguyên thủy, người Việt có tín ngưỡng bách thần “thần
cây đa, ma cây gạo”, gán cho các thế lực siêu nhiên, các sự kiện chưa giải
thích được là các vị thần. Thế giới thần linh bao gồm thần Sông, thần Núi,
thần Biển, thần Lửa, thần Sấm Sét...và còn có cả thần Bếp, thần Tài, thần
Nhân duyên... Nhân gian có người xấu người tốt nên các vị thần cũng có thần
Thiện và thần Ác, có thánh thần luôn giúp người và cũng có ma quỷ chuyên
hại người. Do ảnh hưởng của xã hội phong kiến, thế giới tâm linh cũng được
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 16 of 95.
16
Header Page 17 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
hình dung theo một mô hình tổ chức tương tự: trên có Ngọc Hoàng Thượng
Đế, có các vị Thần bề tôi với các cơ quan chuyên trách, giữa có thế giới người
trần mắt thịt và dưới đất có Diêm Vương phụ trách việc xét xử những linh
hồn của con người trần gian. Số mệnh có thể được hiểu như là kết quả “lập
trình” của một vị thần chuyên trách, và nhiều khi bất cẩn, thiên vị nên vị thần
này cũng gây ra bao điều ngang trái, oái ăm. Người Việt cho rằng người xấu
sau khi chết sẽ được xét xử, ai tốt sẽ được lên Thiên đường hay cõi tiên, được
đầu thai, có kiếp sau sung sướng, ai xấu sẽ bị trừng phạt, kiếp sau phải chịu
khổ. Và linh hồn của tiền nhân, của tổ tiên luôn bên cạnh con cháu, chứng
giám, độ trì cho con cháu. Vì quan niệm “trần sao âm vậy” nên mới có những
tục lệ như chia của cho người chết, chôn theo người chết tiền bạc, các đồ
dùng, rồi nghi lễ đốt vàng mã cũng là một cách để “tiếp tế” cho người chết.
Văn hóa tâm linh có những mặt tích cực không thể phủ nhận trong đời sống
cộng đồng. Đó là sợi dây cố kết cộng đồng, lưu giữ truyền thống, giáo dục
lòng nhân ái, vị tha, ý thức hướng thượng, hướng thiện. Các tôn giáo khác
nhau về giáo lý song đều gặp nhau ở tinh thần nhân ái, khoan dung, triết lý
nhân bản.
Văn hóa tâm linh là chỗ dựa về mặt tinh thần, xoa dịu những đau
thương mất mát, đem lại niềm tin vào những điều tốt đẹp, cao cả, thiêng liêng,
giúp con người chiến thắng nỗi sợ hãi trước cái chết, đem lại sự thanh thản,
cân bằng cho tâm hồn. Có thể hình dung yếu tố tâm linh tạo nên chiều sâu,
sức sống cho nền văn hóa cộng đồng, dân tộc.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm chăm lo đến việc
giữ gìn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, trong đó có các
giá trị văn hoá tâm linh. Nhà nước và các địa phương đã đầu tư nhiều công
sức, tiền của để xây dựng các công trình văn hoá tâm linh như tu tạo lại các
đền đình, chùa, các nghĩa trang liệt sĩ, các tượng đài kỷ niệm, các di tích lịch
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 17 of 95.
17
Header Page 18 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
sử, các di tích văn hoá; tổ chức các nghi lễ tri ân các anh hùng dân tộc, các liệt
sỹ; tổ chức nhiều đoàn quy tập mồ mả và hài cốt liệt sỹ đã hy sinh trong hai
cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược. Nhân dân các địa phương cũng
chung sức đóng góp tiền của để tu sửa, xây cất các nghĩa trang, các di tích lịch
sử văn hoá của địa phương. Có những địa phương biết kết hợp giữa xây dựng
các quần thể văn hoá tâm linh với xây dựng các cảnh quan du lịch, thu hút
khách thập phương, kết hợp tổ chức nhiều lễ hội văn hoá- du lịch khá ấn
tượng. Đó là những việc làm có ý nghĩa tích cực, cao đẹp, có tính giáo dục
truyền thống rất cao, được lòng dân, đáp ứng một phần nhu cầu sinh hoạt tâm
linh của nhân dân. Tuy nhiên, văn hoá tâm linh và các hoạt động văn hoá tâm
linh sẽ không đạt được mục đích cao đẹp và ý nghĩa thiêng liêng của nó nếu
bị lợi dụng vào các mục đích thương mại, hoặc bị tuyệt đối hoá đến mức mê
tín, dị đoan của một bộ phận tổ chức hoặc cá nhân nào đó. Trong thực tế, hiện
tượng lợi dụng các hoạt động văn hoá tâm linh để kiếm lợi, để “buôn thần”,
“bán thánh” ở một số nơi, một số người không phải không xảy ra, và báo chí
cũng đã phản ánh nhiều về hiện tượng này.
Ở đây, có một vấn đề đặt ra là văn hoá tâm linh và hoạt động văn hoá
tâm linh ở Việt Nam hiện nay cần phải được nhận thức và đối xử như thế nào
cho đúng. Về mặt nhận thức, văn hoá tâm linh là một bộ phận của văn hoá
truyền thống của dân tộc Việt Nam, đã tồn tại hàng mấy nghìn năm, gắn với
quá trình hình thành, phát triển của văn hoá dân tộc, góp phần tạo ra bản sắc
độc đáo của văn hoá dân tộc Việt Nam, có nhiều mặt tích cực không thể phủ
nhận trên các bình diện: quốc gia (nhà nước), địa phương (làng, xã), gia đình,
dòng họ. Do vậy, cần thừa nhận có đời sống tâm lý tâm linh, có văn hoá tâm
linh, có các hoạt động văn hoá tâm linh của cộng đồng và cá nhân.
Điều cần lưu ý ở đây là, bản chất văn hoá tâm linh, hoạt động văn hoá tâm
linh là tích cực, hướng thiện và nhân văn; nó không thừa nhận mọi suy nghĩ,
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 18 of 95.
18
Header Page 19 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
hành vi, hành động trục lợi vị kỷ xấu xa, phản nhân văn. Chúng ta khuyến
khích các hoạt động văn hoá tâm linh mang ý nghĩa tích cực, có ích cho việc
xây dựng và phát triển các giá trị văn hoá tinh thần, đạo đức tốt đẹp của con
người Việt Nam, đồng thời kiên quyết phản đối các hành vi xuyên tạc ý nghĩa
vì con người của văn hoá tâm linh. Mặt khác, chúng ta cũng không nên tuyệt
đối hoá tâm lý tâm linh, đời sống văn hoá tâm linh đến mức địa phương nào
cũng cố tạo ra những hoạt động văn hoá gắn với hoạt động tâm linh để thu hút
người tham gia với mục đích kinh tế. Có người còn tin tưởng mù quáng, thiếu
cơ sở khoa học vào các hiện tượng tâm linh, say mê các sinh hoạt tâm linh
không lành mạnh đến nỗi bỏ bê cả sự nghiệp, làm tổn hại thanh danh; có dòng
họ, có gia đình vì muốn tạo ra sự nổi tiếng, hơn người đã đổ không biết bao
tiền của để xây lăng, mộ, làm nhà thờ, làm giỗ, gây lãng phí rất lớn trong lúc
đời sống của bà con còn khó khăn nhiều bề. Đó là các hành vi có thể coi là
“phản văn hoá tâm linh”, cần phê phán. Là hiện tượng khách quan trong xã
hội ta, văn hoá tâm linh, hoạt động văn hoá tâm linh, hoạt động ngoại cảm
tâm linh phản ánh một nhu cầu tinh thần chính đáng của nhân dân và việc
thoả mãn phần nào nhu cầu đó của nhân dân, trong khi Nhà nước chưa có
điều kiện thoả mãn đầy đủ. Đề nghị Nhà nước có định hướng và quản lý chặt
chẽ hơn nữa các hoạt động này sao cho phát huy được mặt tích cực, mặt tốt
của văn hoá tâm linh, của các hoạt động văn hoá tâm linh và các hoạt động
tâm linh ngoại cảm; lập lại trật tự, kỷ cương trong các hoạt động văn hoá tâm
linh; đồng thời kiên quyết đấu tranh loại trừ mặt tiêu cực, mặt xấu, các hành
vi lợi dụng các hoạt động văn hoá tâm linh, hoạt động ngoại cảm tâm linh để
mưu đồ vì lợi ích cá nhân hoặc các mục đích phản văn hoá khác, trái với ý
nghĩa cao đẹp của văn hoá tâm linh người Việt, kể cả các thế lực xấu lợi dụng
để chống phá Nhà nước ta.
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 19 of 95.
19
Header Page 20 of 95.
NguyÔn ThÞ Quúnh Nga
K32G - ViÖt Nam häc
CHƯƠNG 2
LỄ HỘI ĐỀN HÙNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ TÂM LINH
NGƯỜI VIỆT
2.1. Khái niệm Lễ hội
Truyền thống là những cái đã trở thành nề nếp được truyền lại và kế
thừa từ đời này sang đời khác. Truyền thống tồn tại thông qua lao động sản
xuất, lối sống, sự tìm tòi. Truyền thống tinh hoa đã chắt lọc qua thử thách ở
thời gian và được nâng cao theo yêu cầu ở trình độ dân trí mà không xa rời
nguồn cội sản sinh ra truyền thống. Nền văn hoá truyền thống Việt Nam đã
trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm của lịch sử và bị ảnh hưởng không ít của văn
hoá phương Đông với nghìn năm Bắc thuộc và một số chế độ thực dân
phương Tây. Song nền văn hoá Việt Nam vẫn mang đậm phong thái của nền
văn hoá lúa nước. Trong thời kỳ đổi mới thời kỳ của công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước văn hoá Việt Nam đã được bảo tồn và phát huy (Nghị quyết của
Ban chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng một nền văn hoá tiến tiến đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc). Nói đến văn hoá - văn hoá dân gian là chúng ta
lại nói đến các phong tục, các lễ hội cổ truyền của dân tộc.
Đối với phần lớn các tộc người trên thế giới, đặc biệt là nhóm cư dân
nông nghiệp, Lễ hội giữ một vai trò quan trọng. Lễ hội chứa đựng nhiều mặt
của đời sống văn hoá chính trị, xã hội, tâm lý, tôn giáo và tín ngưỡng của cư
dân lúa nước. Lễ hội là loại hình văn hoá tập thể, phản ánh tín ngưỡng, các
sinh hoạt của người dân lao động. Ở Việt Nam, lễ hội gắn bó với làng xã như
một phần tất yếu trong đời sống. Chỉ lễ hội mới có thể thoả mãn được hết yêu
cầu tâm linh của người nông dân.
Xét về cội nguồn, Lễ hội là sinh hoạt tín ngưỡng làng xã. Bởi mỗi lễ
hội đều bắt nguồn từ làng xã. Mỗi hội làng có phong tục, nghi lễ, tổ chức,
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Footer Page 20 of 95.
20
- Xem thêm -