KỸ NĂNG GIAO TIẾP, ỨNG XỬ CỦA THẨM PHÁN
KỸ NĂNG GIAO TIẾP, ỨNG XỬ CỦA THẨM PHÁN
Giao tiếp, ứng xử là mô ôt phương thức tồn tại xã hô ôi của loài người, là điều
kiê ôn thiết yếu và là con đường để mỗi người hoàn thiê ôn nhân cách, hoạt đô nô g của
mình. Con người không thể sống và thể hiê nô giá trị vâ ôt chất, tinh thần nếu không
được giao tiếp. Giao tiếp, ứng xử là mô ôt trong những kỹ năng căn bản và quan
trọng hàng đầu cho người lao đô nô g nói chung và Thẩm phán nói riêng trong thời
đại ngày nay1. Hằng ngày, Thẩm phán thường tiếp xúc với nhiều diện người khác
nhau trong nhiều mối quan hệ khác nhau; đòi hỏi việc giao tiếp ứng xử của Thẩm
phán phải đạt chuẩn mực đạo đức xã hội và đúng pháp luật.
Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền, xã hô ôi chủ nghĩa - Nhà nước
quản lý kinh tế, xã hô ôi bằng pháp luâ ôt và hoạt đô nô g tuân theo pháp luâ ôt. Nghị
Quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2001 của Bô ô chính trị “Về mô ôt số nhiêm
ô vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đă tô ra trọng trách của các cơ quan tư
pháp là xây dựng đô iô ngũ cán bô ô tư pháp trong sạch, vững mạnh, trong đó đă cô
biê ôt chú trọng đô ôi ngũ thẩm phán - Nhân vâ ôt trung tâm của hoạt đô nô g tư pháp. Để
đáp ứng yêu cầu đó thì vấn đề đổi mới tư duy, hành đô nô g của Thẩm phán là nô ôi
dung quan trọng vì Thẩm phán là mô ôt trong những người hoạt đô nô g nhân danh
pháp luâ ôt, nhân danh công lý và lấy quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiê ôp làm
chuẩn mực cho hành vi ứng xử.
Trong bô ô máy Nhà nước Tòa án nhân dân có vị trí quan trọng, là cơ quan duy
nhất có quyền xét xử và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính.
Thẩm phán khi giải quyết các vụ viê ôc trên đều hướng tới mục đích bảo vê ô pháp
1http://toquoc.vn (Mười kỹ năng gồm: Learning to learn (học cách tự nghiên cứu); self leadership & personal
branding (tự lãnh đạo và xây dựng thương hiệu cá nhân); initiative and enterprise skills (kỹ năng liên quan đến sáng
kiến và doanh nghiệp); planning and organizing skills (kỹ năng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch); listening
skills (kỹ năng nghe); presentarion skills (kỹ năng thuyết trình); interpersonal skills (kỹ năng giao tiếp); problem
solving skills (kỹ năng giải quyết vấn đề); teamwork (làm việc nhóm); negotiation skills (kỹ năng đàm phán).
chế xã hô ôi chủ nghĩa; bảo vê ô tài sản của Nhà nước, của tâ ôp thể; bảo vê ô tính mạng,
sức khỏe, tài sản, tự do và danh dự nhân phẩm của công dân; giáo dục công dân
trung thành với Tổ quốc, nâng cao ý thức pháp luâ ôt, tôn trọng quy tắc của cuô ôc
sống xã hô ôi, tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tô ôi phạm cũng như các hành
vi vi phạm pháp luâ ôt khác. Viê ôc nhâ nô thức được bản chất các mối quan hê ô và các
quy tắc giao tiếp, ứng xử sẽ giúp cho thẩm phán có được sự chuẩn mực và vững
tâm khi hành nghề. Vì vâ ôy nâng cao kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho thẩm phán là
mô ôt nô ôi dụng quan trọng và cấp thiết.
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ GIAO TIẾP, ỨNG XỬ
1. Khái niệm về giao tiếp
Giao tiếp là mô ôt trong những hiê nô tượng tâm lý phức tạp. Xung quanh khái
niê m
ô giao tiếp có nhiều quan điểm khác nhau, bởi mỗi tác giả khi đưa ra khái
niê m
ô giao tiếp đã nhìn nhâ nô , nghiên cứu nó ở những góc đô ô khác nhau2. Chuyên đề
này đi sâu nghiên cứu khái niê ôm giao tiếp theo khuynh hướng xem xét khái niê ôm
giao tiếp thông qua viê ôc xác định những khía cạnh tâm lý khác nhau chứa đựng
trong nô ôi hàm khái niê ôm giao tiếp.
Cách nhìn nhâ nô khái niê m
ô giao tiếp theo phương pháp này cũng có nhiều quan
điểm khác nhau: Có tác giả chỉ nhấn mạnh mô tô khía cạnh trong nô iô hàm khái niê m
ô
giao tiếp như L.O.Retnhicov cho rằng: “Giao tiếp là sự tri giác hiểu biết lẫn nhau”
hay tác giả G.Thines lại cho rằng: “Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin, trong đo
trạng thái của hê ô thống phát thông tin ảnh hưởng tới trạngthái của hê ô nhâ ôn tin”; có
tác giả mở rô nô g khái niê m
ô giao tiếp thì cho rằng: “Giao tiếp là sự tác đô ông giữa
2Qua nghiên cứu các công trình ở trong và nước ngoài về giao tiếp cho thấy các nhà tâm lý đã và đang tiếp câ ôn khái
niê ôm này ở năm khuynh hướng sau: Thứ nhất, Xem xét thông qua viê ôc xác định những khía cạnh tâm lí khác chau
chứa đựng trong nô ôi hàm khái niê m
ô giao tiếp; thứ hai, Xác định giao tiếp qua lăng kính các chuyên ngành khác
nhau của tâm lý học; thứ ba, Xem xét giao tiếp từ góc đô ô các ngành ứng dụng của tâm lý học; thứ tư, xác định vị trí
của giao tiếp trong hê ô thống các khái niê m
ô , phạm trù của tâm lý học; thứ năm, hiểu bản chất giao tiếp qua sự phân
biê ôt giữa khái niê m
ô giao tiếp với các khái niê ôm liê ôn quan khác nhau như mối quan hê ô xã hô ôi, mối quan hê ô thông
tin, sự ứng xử.
những con người với nhau và giữa những đô ông vâ ôt co tâm lý với nhau”; có tác giả đề
câ pô tới nhiều khía cạnh khác nhau của giao tiếp như tác giả A.G.Spirkin cho
rằng:“Giao tiếp là quá trình trao đổi những ý nghĩa, tình cảm kiến thức, ý chí với mục
đích người này điều khiển người kia”. Ở Viê tô Nam các nhà tâm lý học cũng có mô tô số
quan niê m
ô khác nhau về khái niê m
ô giao tiếp như: Tác giả Nguyễn Ngọc Bích cho
rằng “giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều người thông qua phương tiênô ngôn
ngữ nhằm trao đổi thông tin, tình cảm, hiểu biết, tác đô ông qua lại và điều chỉnh lẫn
nhau”; tác giả Trần Tuấn Lé cho rằng: “giao tiếp là mô ôt nhu cầu là mô ôt hoạt đô ông của
mỗi người nhằm tiếp xúc, đối tác và giao lưu với người khác, để trao đổi sức lực,
thông tin, kinh nghiêm,
ô trí tuê,ô tình cảm và thể xác với người khác”.
Các định nghĩa trên cho thấy cách tiếp câ nô của các nhà tâm lý có sự khác
nhau có tác giả chỉ mới dừng lại ở viê ôc mô tả bề ngoài, chưa nêu rõ bản chất bên
trong của quá trình giao tiếp, có tác giả đồng nhất giao tiếp của người và đô nô g vâ ôt,
đánh mất bản chất xã hô ôi của giao tiếp con người, không thấy được sự khác nhau
về chất giữa giao tiếp của người với sự thông báo, truyền tín hiê ôu ở đô nô g vâ ôt, có
tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu bản chất giao tiếp và đã chỉ ra được các khía cạnh
khác nhau của giao tiếp.
Từ các định nghĩa trên có thể thấy giao tiếp có những dấu hiê ôu cơ bản sau:
Giao tiếp là mô ôt hiê nô tượng đă ôc thù của con người, nghĩa là chỉ riêng con người
mới có giao tiếp thực sự khi sử dụng phương tiê ôn ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, đồng
thời được thực hiê ôn chỉ trong xã hô ôi loài người; giao tiếp được thể hiê nô ở sự trao
đổi thông tin, sự hiểu biết lẫn nhau, sự rung cảm và ảnh hưởng lẫn nhau; giao tiếp
dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau giữa con người với con người.
Theo quan điểm của chúng tôi khái niê m
ô : “Giao tiếp là hình thức đă ôc trưng cho
mối quan hê ô giữa con người với con người mà qua đo nảy sinh sự giao tiếp tâm lý và
được biểu hiênô ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác đô ông
qua lại lẫn nhau”3, là đầy đủ nhất, chứa đựng nô iô hàm của khái niê m
ô giao tiếp.
2. Khái niệm về ứng xử
Ứng xử là mô ôt từ ghép của hai từ ứng và xử, mà ứng và xử lại bao gồm nhiều
nghĩa khác nhau như: Ứng phó, ứng đối, ứng biến và xử sự, xử lý, xử thế…, liên
quan đến khái niê m
ô ứng xử cũng có nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo tác giả Hoàng Phê thì ứng xử là sự thể hiê nô thái đô ,ô hành đô nô g thích
hợp trước những viê ôc có quan hê ô giữa mình với người khác4.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Vân đưa ra khái niê ôm: Ứng xử là sự phản ứng của
con người đối với sự tác đô nô g của người khác đến mình trong mô ôt tình huống cụ
thể nhất định. Thể hiê ôn ở chỗ con người không chủ đô nô g trong giao tiếp mà chủ
đô nô g trong ứng xử có sự lựa chọn, có cân nhắc thể hiê ôn qua thái đô ,ô hành vi, cử
chỉ, cách nói năng - Tùy thuô ôc vào tri thức, kinh nghiê ôm và nhân cách của mỗi
con người nhằm đạt kết quả cao nhất trong giao tiếp5.
3. Ứng xử trong giao tiếp
Ứng xử trong giao tiếp được hiểu là sự phản ứng của con người đối với sự tác
đô nô g của mô ôt tổ chức, nhóm người, cá nhân,… đến mình trong mô tô tình huống cụ
thể, nhất định. Con người không chủ đô nô g trong giao tiếp mà chủ đô nô g trong phản
ứng có sự lựa chọn, có tính toán thể hiê nô qua thái đô ,ô hành vi, cử chỉ, cách nói
năng, tùy thuô ôc vào tri thức, kinh nghiê ôm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt
kết quả giao tiếp cao nhất.
3Ngô Công Hoàn và Hoàng Anh “Giao tiếp sư phạm”, Nxb Giáo dục 1998.
4Từ điển tiếng viê ôt, Hoàng Phê (2008): Trung tâm từ điển học, Nxb. Đà Nẵng.
5Nguyễn Thị Thu Vân 2005, Giáo trình kỹ năng giao tiếp hiê ôu quả hành chính, Học viê ôn hành chính quốc gia NAPA, Hà Nô ôi, tr.18.
Ứng xử trong giao tiếp là làm thay đổi nhâ ôn thức, thái đô ô và hành vi của con
người. Do đó, xử lý trong giao tiếp là mô ôt quá trình điều khiển. Trước hết là điều
khiển chính bản thân chủ thể giao tiếp. Khi giao tiếp, ứng xử với người khác chúng
ta phải lựa chọn, điều chỉnh hành vi, cử chỉ, điê ôu bô ô, lời nói của mình cho phù hợp
với điều kiê ôn, hoàn cảnh giao tiếp, môi trường giao tiếp. Đối với đối tượng giao
tiếp, chủ thể giao tiếp phải làm sao cho đối tượng hòa đồng nhâ nô thức, cảm xúc
của mình, hiểu được mình trên cơ sở đó thay đổi nhâ nô thức, thái đô ô hành vi theo
mục đích của mình.
Ứng xử trong giao tiếp được thể hiê nô trong mô tô tình huống cụ thể, nhất định
do đó nó có vai trò quan trọng, cần thiết để con người phản ứng sự tác đô nô g của
mô ôt tình huống giao tiếp cụ thể, lựa chọn thái đô ,ô hành vi, cử chỉ, cách nói năng
thích hợp nhất nhằm đạt kết quả trong giao tiếp giữa người với người.
Căn cứ vào yêu cầu đạo đức, xã hô ôi; giá trị xã hô ôi nhân văn; kiểu hình thần
kinh của khí chất; thái đô ô điê ôu bô ô… có các kiểu ứng xử khác nhau như: Kiểu ứng
xử tốt, ứng xử xấu; ứng xử cởi mở, có trách nhiê ôm; ứng xử đô cô đoán, tự do, dân
chủ; ứng xử linh hoạt, bình thản…
4. Khái niệm về kỹ năng giao tiếp, ứng xử
Kỹ năng giao tiếp, ứng xử là hê ô thống những thao tác, cử chỉ, điê ôu bô ô hành
vi phối hợp hài hòa hợp lý của con người, nhằm đảm bảo cho sự tiếp xúc với đối
tượng giao tiếp đạt kết quả cao nhất, với sự tiêu hao năng lượng ít nhất. Kỹ năng
giao tiếp, ứng xử gồm: Kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển
quá trình giao tiếp, kỹ năng sử dụng các phương tiê ôn giao tiếp, kỹ năng lắng nghe.
5. Vai trò của giao tiếp, ứng xử
Việc giao tiếp đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống
của mỗi chúng ta.
Giao tiếp tốt giúp chúng ta có được những mối quan hệ hữu ích cũng như có
thể tăng thêm sức thu hút của chính bản thân. Tuy nhiên, đôi khi việc giao tiếp
không hiệu quả lại khiến chúng ta tạo nên những mâu thuẫn trong các mối quan hệ,
cũng như học tập và làm việc kém hiệu quả hơn.
Đối với người Thẩm phán, giao tiếp, ứng xử chuẩn mực là yếu tố giúp cho
Thẩm phán giải quyết các vụ án đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao.
II. KỸ NĂNG GIAO TIẾP, ỨNG XỬ CỦA THẨM PHÁN
1. Một số yêu cầu chung về kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán
Đối với Thẩm phán, ngoài đòi hỏi phải có kiến thức chung về kỹ năng tiếp,
ứng xử trong đời sống xã hội, còn phải có kỹ năng giao tiếp ứng xử của người
thực hiện các hoạt động tố tụng khi xét xử.
Giao tiếp của Thẩm phán trong hoạt đô nô g tố tụng phải tuân theo quy định của
pháp luâ ôt thông qua giao tiếp ngôn ngữ và các phương tiê ôn biểu cảm khác như nét
mă ôt, cử chỉ, ánh mắt... nhằm làm sáng tỏ sự thâ ôt khách quan của vụ án. Để hoạt
đô nô g này đạt được hiê ôu quả thì Thẩm phán ngoài viê ôc nắm vững chuyên môn
nghiê ôp vụ, có đạo đức nghề nghiê pô , có kiến thức sâu rô nô g về các lĩnh vực xã
hô ôi... thì còn cần phải có những kỹ năng giao tiếp, ứng xử và sử dụng các kỹ năng
đó mô ôt cách thuần thục. Nói cách khác, kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán
là khả năng vâ ôn dụng kiến thức xã hô ôi và kiến thức pháp luâ ôt để áp dụng vào thực
tiễn nghề nghiê ôp của mình nhằm nâng cao hiê ôu quả hoạt đô nô g tố tụng.
Như vâ ôy, có thể hiểu kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán là khả năng
nhâ ôn thức nhanh chóng những biểu hiê ôn bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên
trong của đương sự, của những người tham gia tố tụng khác và bản thân đồng thời
biết sử dụng hợp lý các phương tiê nô ngôn ngữ, biết cách điều khiển, điều chỉnh
quá trình giao tiếp nhằm đạt được mục đích của hoạt đô nô g xét xử.
2. Những kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán
Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán bao gồm:
Thứ nhất, kỹ năng định hướng: Định hướng trong giao tiếp, ứng xử là một
hoạt động có tính xác định trước đối tượng, nội dung giao tiếp và mục đích của
giao tiếp mà có cách thức ứng xử cho phù hợp. Quá trình này giúp cho người Thẩm
phán có sự chủ động chuẩn bị cho hoạt động giao tiếp, ứng xử khi giải quyết các
vụ án được giao.
Nội dung của kỹ năng này đặt ra đối với người Thẩm phán trong hoạt
động tố tụng là phải nắm vững diễn biến sự việc, nội dung vụ án; đối tượng và
thái độ của từng đương sự trước khi tiếp xúc.
Kỹ năng định hướng giúp Thẩm phán định hướng được những vấn đề cần làm
sáng tỏ trong quá trình giải quyết vụ án. Thẩm phán có thể định dự kiến được các
tình tiết có thể xảy ra tại phiên tòa, từ đó đưa ra những câu hỏi để đối tượng trả
lời..., dự kiến chiến thuâ tô lấy lời khai của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ lien quan đến vụ án, người làm chứng,
người giám định.
Kỹ năng định hướng trước khi tiếp xúc với các đương sự còn thể hiê ôn khi
Thẩm phán nghiên cứu các đă cô điểm tâm lý, giới tính, trình đô ô học vấn, nghề
nghiê ôp, sự hiểu biết, tính cách, khí chất, trạng thái tâm lý của đương sự, trên cơ sở
đó Thẩm phán cần dự đoán xem những đối tượng trên sẽ có những phản ứng như
thế nào với nô ôi dung sẽ được đưa ra khi tiếp xúc với họ. Điều này giúp cho Thẩm
phán chù đô nô g, linh hoạt, sáng tạo, lựa chọn và áp dụng các phương pháp lấy lời
khai của những đối tượng đó sao cho phù hợp, tránh những tình huống bất ngờ, bị
đô nô g, lúng túng trước những phản ứng tiêu cự của họ. Khi đã dự kiến được các
tình huống có thể xảy ra, Thẩm phán cần dự kiến cách mở đầu, diễn biến và kết
thúc giao tiếp với họ.
Kỹ năng định hướng trong quá trình giao tiếp với đối tượng giao tiếp thể hiê nô
ở viê ôc khi tiếp xúc với họ, Thẩm phán phải quan sát nét mă ôt, cử chỉ, hành vi, lời
nói của đối tượng giao tiếp để nhanh chóng nắm bắt và phán đoán được trạng thái
tâm lý, suy nghĩ, tình cảm của họ.
Ví dụ: Nếu quan sát thấy họ lắng tai chăm chú nghe Thẩm phán nói, có nghĩa
là họ đang ở trạng thái tâm lý tích cực, họ đồng ý với Thẩm phán hoă ôc ít nhất là họ
đang quan tâm đến những điều Thẩm phán nói.
Ngược lại, nếu họ cố tình lấn át, to tiếng tức là họ đang bức xúc, không quan
tâm đến những điều người khác trình bày. Trên cơ sở đó Thẩm phán cần định
hướng được các hành vi của mình qua quá trình giao tiếp cho phù hợp.
Ví dụ: Khi đối tượng chưa muốn thổ lô ,ô bày tỏ ý kiến thì thông qua nét mă tô ,
cử chỉ, lời nói, hành vi của mình Thẩm phán cần khuyến kích họ đă ôt niềm tin vào
mình, từ đó họ mạnh dạn trình bày những suy nghĩ của mình mô tô cách trung thực,
cung cấp các tài liê ôu quan trọng cho viê ôc giải quyết vụ án.
Thứ hai, kỹ năng nhâ ôn biết những dấu hiê ôu bên ngoài và những đă ôc điểm tâm
lý bên trong của những người tham gia tố tụng: Kỹ năng này đòi hỏi Thẩm phán
phải nhâ ôn biết những dấu hiê ôu bên ngoài và những đă cô điểm bên trong của những
người tham gia tố tụng. Thẩm phán phải luôn giữ được sự bình tĩnh, tự chủ, sử
dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để tác đô nô g đến các đối tượng giao tiếp.
Thông qua sự giao tiếp trực tiếp, Thẩm phán có thể nhâ ôn thức về những đă cô
điểm bên ngoài như hình dáng, đầu tóc, trang phục, giới tính, lứa tuổi... và những
đă cô điểm tâm lý bên trong như tính cách, xúc cảm, năng lực, thái độ... Từ đó Thẩm
phán có sự ứng xử phù hợp khi giao tiếp với từng đối tượng.
Ví dụ: Thông qua việc tiếp xúc với đương sự, người Thẩm phán có thể hiểu
được yêu cầu, thái độ tâm lý để chọn lựa cách thưc, phương pháp hòa giải phù hợp
và đảm bảo có sự thành công. Hoặc việc giao tiếp tại phiên tòa thông qua các giai
đoạn hỏi, xét hỏi và tranh luâ ôn các đă ôc điểm tâm lý của đương sự được thể hiê nô
mô ôt cách rõ nét giúp Thẩm phán điều hành phiên tòa một cách tốt nhất. Đồng thời
cũng là cơ sở để Thẩm phán có những quyết định xử sự đúng pháp luật.
Thứ ba, kỹ năng định vị khi giao tiếp: Đây là khả năng của Thẩm phán biết
xác định vị trí của mình trong giao tiếp. Thông qua viê ôc tiếp xúc trực tiếp với
bị can, bị cáo, đương sự và người tham gia tố tụng thẩm phán có thể xây dựng
được mô hình về tính cách của các đối tượng từ đó thẩm phán có thể xác định
được vị trí trong giao tiếp, biết đă ôt mình vào vị trí của đối tượng, biết xác định
đúng không gian, thời gian và có cách ứng xử cho phù hợp với đă ôc điểm của
từng đối tượng. Kỹ năng này đòi hỏi Thẩm phán phải biết đặt vị trí của mình
vào vị trí của người khác và những người tham gia tố tụng để tạo mối quan hê ô
bình đẳng và sự đồng cảm, giúp họ có điều kiê ôn tích cực, chủ đô ông khi giao
tiếp với mình.
Ví dụ: Khi hỏi bị cáo là người dân tô ôc thiểu số hoă ôc người chưa thành niên
Thẩm phán phải tìm hiểu đă ôc điểm tâm lý của họ, phải có thái đô ô tôn trọng, ân cần
giải thích đúng đắn, tỷ mỉ những quy định của pháp luâ ôt về hành vi sai trái mà họ
đã mắc phải.
Bên cạnh đó, Thẩm phán cũng cần phải xóa bỏ các chướng ngại về tâm lý
ảnh hưởng tới quá trình xây dựng mối quan hê ô giữa mình và đối tượng giao tiếp.
Để có kỹ năng định vị tốt thẩm phán phải có kỹ năng và kinh nghiê ôm sống tốt.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý là cho dù có đặt mình vào vị trí của người khác ở
một hoàn cảnh, thời gian, không gian nào đó thì cũng không được quên vị trí pháp
lý của người Thẩm phán đang giải quyết vụ án.
Thứ tư, kỹ năng sử dụng phương tiênô giao tiếp ngôn ngữ noi, viết hay
phương tiênô phi ngôn ngữ như ánh mắt, nét mă ôt, tư thế, tác phong: Khi được phân
công giải quyết vụ viê cô dân sự, thẩm phán phải trực tiếp xây dựng hồ sơ giải quyết
vụ viê ôc dân sự vì vâ ôy họ phải tiếp xúc, trao đổi với cá nhân, tổ chức, mô tô số cơ
quan có liên quan… nhằm thu thâ ôp các chứng cứ của vụ án để có căn cứ giải quyết
vụ viê ôc dân sự.
Cùng với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết của Thẩm phán thể hiê nô trong bản án
cũng có ý nghĩa trong hoạt đô nô g xét xử. Khi viết bản án đòi hỏi Thẩm phán phải
sử dụng ngôn ngữ chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu, không dài dòng, suy diễn. Văn
trong bản án phải là văn nghị luâ nô , khi Thẩm phán đưa ra các luâ ôn cứ, luâ ôn
chứng, luâ ôn điểm phải rõ ràng..
Thứ năm, kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong quá trình giao tiếp: Khi tiếp
xúc với một số đương sự hoặc là tất cả các đương sự trong vụ án ở bất kỳ giai đoạn
nào, người Thẩm phán cũng phải chủ động điều khiển quá trình giao tiếp đó; đồng
thời phải biết điều chỉnh trong quá trình giao tiếp. Thẩm phán phải thể hiện được
vai trò điều hành các mối quan hệ khi giao tiếp giữa các đương sự với nhau và giữa
đương sự với Thẩm phán và phải biết cách điều chỉnh hành vi ứng xử không đúng
của các đương sự cũng như tự điều chỉnh thái độ, hành vi ứng xử không phù hợp
của mình khi giao tiếp.
Ví dụ: Khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự
thỏa thuâ nô với nhau về viê ôc giải quyết vụ án6 (Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 quy
định thủ tục hòa giải là thủ tục bắt buô ôc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử). Trong
quá trình hòa giải thẩm phán giữa vai trò điều khiển, điều chỉnh các bên đương sự
tự nguyê nô thỏa thuâ nô với nhau (về bản chất là quá trình giao tiếp). Viê ôc hòa giải
được tiến hành theo nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyê nô thỏa thuâ ôn của các bên
đương sự, không dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực bắt buô ôc cán bên đương sự
6Khoản 1 Điều 180 BLTTDS năm 2004
phải thỏa thuâ ôn không phù hợp với ý chí của mình, nô ôi dung thỏa thuâ nô của các
đương sự không được trái pháp luâ ôt hoă ôc trái đạo đức xã hô7ôi.
3. Đặc điểm về kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán
Từ những phân tích trên cho thấy giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán có mô ôt số
điểm đă cô thù so với các giao tiếp khác như sau:
- Về mă ôt pháp lý, nô ôi dung giao tiếp, ứng xử phải tuân thủ các quy định của
pháp luật tố tụng. Phương pháp giao tiếp, ứng xử phải kết hợp tác đô nô g xã hô ôi với
tác đô nô g bằng pháp luâ ôt;
- Về chủ thể, trong giao tiếp Thẩm phán phải có khả năng thuyết phục, chủ
đô nô g, sáng tạo, có thái đô ô khách quan, quyết đoán, đô ôc lâ pô ;
- Về mục đích, giao tiếp để xác minh, kiểm tra tính đúng đắn, khách quan của
các chứng cứ trong vụ án;
- Về mă ôt khoa học, nô ôi dung giao tiếp được xây dựng trên cơ sở của nhiều
ngành khoa học, đă cô biê ôt là khoa học giao tiếp, khoa học pháp lý, khoa học
nghiê ôp vụ xét xử và ngôn ngữ học.
- Hoạt đô nô g nghề nghiê ôp của Thẩm phán thông qua quá trình giao tiếp là hoạt
đô nô g trí não, khó khăn, phức tạp dưới sự giám sát nghiêm ngă ôt của công luâ nô , xã
hô ôi;
- Khi giải quyết vụ án Thẩm phán có nhiê m
ô vụ phải xem xét các tình tiết cụ
thể và áp dụng các điều khoản của pháp luâ ôt để giải quyết. Tuy nhiên, sự áp dụng
pháp luâ ôt ở đây không phải là cứng nhắc mà là mô ôt quá trình tư duy căng thẳng và
phải huy đô nô g tổng thể những hiểu biết không chỉ về pháp luâ ôt mà còn về các lĩnh
vực xã hô ôi khác. Trên cơ sở quy định của pháp luâ ôt, Thẩm phán có nhiê ôm vụ áp
dụng pháp luâ ôt trong hoạt đô nô g tố tụng từ giai đoạn bắt đầu thụ lý vụ viê ôc cho đến
khi thi hành án;
7Khoản 2 Điều 180 BLTTDS năm 2004
- Hoạt đô nô g của Thẩm phán phải chịu những áp lực, không chỉ từ phía những
người phạm tô ôi, từ nguyên đơn, bị đơn mà còn từ phía xã hô ôi, công luâ ôn. Nguyên
tắc xét xử của Tòa án là đô cô lâ pô , công khai và chỉ tuân theo pháp luâ ôt, điều này
cho phép nhân dân có quyền tham dự phiên tòa, giám sát hoạt đô nô g của những
người tiến hành tố tụng nói chung và hoạt đô nô g tố tụng của Thẩm phán là trọng
tâm. Vì vâ ôy, khi giải quyết vụ viê ôc nếu viê ôc phán quyết của Thẩm phán là đúng
thì sẽ được xã hô ôi, công luâ ôn ủng hô ô và ngược lại;
- Hoạt đô ô ng của Thẩm phán thông qua việc giải quyết các vụ án, các việc
đân sự là quá trình giao tiếp mang tính quyền lực Nhà nước.
- Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiê m
ô vụ bảo vê ô pháp chế xã
hô iô chủ nghĩa; bảo vê ô chế đô ô xã hô iô chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo
vê ô tài sản của Nhà nước, của tâ pô thể; bảo vê ô tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt đô nô g của mình, Tòa án góp phần giáo dục công
dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luâ tô , tôn trọng những
quy tắc của cuô cô sống xã hô iô , ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tô iô phạm, các
vi phạm pháp luâ tô khác.
- Khi thực hiê nô viê ôc xét xử là Thẩm phán đang thực hiê nô quyền lực Nhà
nước, nhân danh Nhà nước thể hiê nô ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao
đô nô g.
III. KỸ NĂNG GIAO TIẾP, ỨNG XỬ CỦA THẨM PHÁN TRONG
CÁC MỐI QUAN HỆ CỤ THỂ
Trong công viê ôc cũng như đời sống hàng ngày, Thẩm phán phải tiếp xúc với
nhiều đối tượng khác nhau như với đồng nghiê ôp ở nơi làm viê ôc, với nhiều người
khác ở những cuô ôc gă ôp gỡ mà mỗi người đều có những điểm khác nhau về nền
tảng văn hóa, về nhu cầu giao tiếp… Điều đó có nghĩa là sẽ có những mâu thuẫn
diễn ra trong cách suy nghĩ, hiểu biết và hành đô nô g của mỗi người. Quy luâ tô đấu
tranh của các mă tô đối lâ ôp đã chỉ ra rằng “giải quyết mâu thuẫn chính là đô nô g lực
của sự phát triển” vì vâ ôy để hài hòa các mối quan hê ô này Thẩm phán cần có kỹ
năng sống trong cô ông đồng. Trong đó bao gồm: Kỹ năng giao tiếp xã hô ôi; kỹ năng
điều đình; kỹ năng lãnh đạo; kỹ năng làm viê ôc cùng tâ pô thể; kỹ năng sống trong
môi trường đa dạng về văn hóa và Kỹ năng giao tiếp, ứng xử khi thực thi công
vụ…
1. Trong sinh hoạt gia đình, xã hội
1.1. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán trong gia đình
Phải tuyên truyền, giáo dục, vâ nô đô nô g người thân trong gia đình chấp hành
nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luâ ôt của Nhà nước;
không được để bố mẹ, vợ chồng, con, anh chị em ruô ôt lợi dụng danh nghĩa của bản
thân để vụ lợi; không tổ chức cưới hỏi, ma chay, mừng thọ, sinh nhâ ôt, tân gia và
các viê cô khác xa hoa, lãng phí hoă cô để vụ lợi; xây dựng gia đình có văn hóa; thực
hiê ôn kế hoạch hóa ga đình; thực hiê ôn tốt quyền và nghĩa vụ công dân; có nếp sống
văn hóa theo phong tục, tâ pô quán và truyền thống Viê ôt Nam8. Không né tránh hoă ôc
tỏ thái đô ô khinh khi, chê cười đối với nười lao đô nô g bình thường, thể hiê nô sự thành
thực trong cách xử xự, quan tâm tới đời sống vâ ôt chất, tinh thần của những người
xung quanh, xây dựng mô ôt nếp sống tinh thần đúng đắn.
1.2. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử tại nơi cư tru
Tại nơi cư trú, thẩm phán phải thể hiê nô được sự cởi mở, lịch sự, hòa đồng,
tuy nhiên cũng cần cẩn trọng, thành thâ ôt và tôn trọng hàng xóm, sẵn sàng giúp đỡ
lẫn nhau khi hàng xóm gă pô chuyê ôn không may xảy ra, không nên có tư tưởng
ganh tị, làm phiền lụy tới họ hoă ôc thường xuyên vay mượn tiền, đồ vâ ôt quý giá,
làm những điều mà họ cảm thấy khó chịu.
8Điều 9 Quyết định 1253/QĐ-TANDTC, ngày 18/9/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về quy tắc ứng xử
của cán bô ,ô công chức ngành Tòa án nhân dân.
Khi sinh hoạt tại nơi cư trú Thẩm phán phải thực hiê ôn đúng quy định tại Điều
6 Quyết định 1253/QĐ-TANDTC, ngày 18/9/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao về quy tắc ứng xử của cán bô ô, công chức ngành Tòa án nhân dân, cụ thể:
Phải tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luâ ôt và các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng đến mọi người; thực hiê nô quy chế dân chủ ở cơ sở, tham
gia sinh hoạt và thực hiê ôn đầu đủ nghĩa vụ ở nơi cư trú, chịu sự giám sát của tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân; không can thiê ôp trái pháp luâ ôt vào
hoạt đô nô g của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi cư trú; không tham gia xúi giục,
kích đô nô g, bao che các hành vi trái pháp luâ ôt.
1.3. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của thẩm phán tại nơi công công
ô
Khi giao tiếp tại nơi công cô nô g Thẩm phán phải: Chấp hành các quy định của
pháp luâ ôt và quy tắc ứng sinh hoạt nơi công cô nô g; không được lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để vụ lợi khi tham gia các hoạt đô nô g xã hô ôi; không tiếp tay hoă ôc bao
che cho hành vi vi phạm pháp luâ ôt; kịp thời thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền biết các thông tin về những hành vi vi phạm pháp luâ ôt9.
2. Trong quan hệ công tác với các tổ chức, cá nhân
Kỹ năng này đòi hỏi khi nói chuyê ôn với công dân, đương sự, đồng nghiê pô
hay cấp trên Thẩm phán phải vâ ôn dụng thông suốt các nô ôi dung sau: Thể hiê ôn sự
thân thiê nô , hiểu biết và tôn trọng cảm xúc của người khác; tự khẳng định khi cần
thiết, tức là biết bảo vê ô chính mình và những ý tưởng của chính mình mô ôt cách
tích cực và chắc chắn; quan tâm đến những gì người khác nói và làm, tự suy nghĩ
tại sao họ lại làm như thế; biết gợi mở để người khác biểu hiê nô cảm xúc, suy nghĩ
của họ; khi nói phải rõ ràng, dễ hiểu. Nô ôi dung lời nói phải phù hợp với trình đô ,ô
đô ô tuổi người nghe. Cùng mô ôt nô ôi dung nhưng nói với các đối tượng khác nhau
thì phải có cách diễn đạt khác nhau.
9Điều 10 Quyết định 1253/QĐ-TANDTC, ngày 18/9/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về quy tắc ứng xử
của cán bô ,ô công chức ngành Tòa án nhân dân.
2.1. Kỹ năng giao tiếp ứng xử của Thẩm phán trong cơ quan, đơn vi
Khi quan hê ô với những người cùng cơ quan, đơn vị, thẩm phán phải thể
hiê ôn sự tôn trọng, học hỏi, lắng nghe ý khiến và có tinh thần giúp đỡ mọi
người.Thẩm phán phải thực hiê ôn các nhiê ôm vụ sau: Chấp hành quyết định của
người lãnh đạo, quản lý; thường xuyên chủ đô nô g, sáng tạo và chịu trách nhiê ôm
trước pháp luâ ôt khi thực hiê nô nhiê ôm vụ được giao, khi thực hiê nô nhiê ôm vụ của
cấp trên, nếu có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luâ ôt hoă ôc không phù
hợp với thực tế thì phải báo ngay với người ra quyết định, trường hợp vẫn phải
chấp hành quyết định thì báo cáo với cấp trên trực tiếp của người ra quyết định,
trường hợp vẫn phải chấp hành quyết định thì báo cáo với cấp trên trực tiếp của
người ra quyết định và không phải chịu trách nhiê ôm về hâ ôu quả của viê ôc thực
hiê ôn quyết định đó gây ra; chấp hành nghiêm chỉnh quy chế làm viê ôc của cơ quan,
đơn vị; ứng xử có văn hóa, tôn trọng, bảo vê ô danh dự, uy tín của lãnh đạo và đồng
nghiê ôp; tôn trọng, hợp tác với đồng nghiê pô để hoàn thành nhiê ôm vụ được giao.
Trong cơ quan, đơn vị Thẩm phán không được thực hiê ôn những viê ôc sau: Lợi
dụng viê ôc góp ý, phê bình làm tổn hại đến danh dự, uy tín của lãnh đạo, quản lý và
đồng nghiê ôp; vi phạm quy chế làm viê ôc của cơ quan, đơn vị10.
2.2. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán với các cơ quan, tổ chức co
liên quan và cơ quan thông tin báo chi
Trong qúa trình tiến hành tố tụng, thẩm phán cần có kỹ năng giao tiếp, ứng xử
hợp lý với các bên đương sự và giao tiếp, ứng xử đúng đắn, linh hoạt với điều tra
viên, luâ ôt sự, kiểm sát viên... Bên cạnh đó, thẩm phán cũng cần phải có nhâ ôn thức
và ứng xử phù hợp với các cơ quan truyền thông bảo đảm cho viê ôc xử lý các quan
hê ô này mô ôt cách lành mạnh, chuẩn mực, không có hành đô nô g lôi kéo, làm trung
gian, móc nối các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng vào viê ôc
10Điêm b Khoan 2 Điêêu 5 Quyêêt đinh 1253/QĐ-TANDTC, ngay 18/9/2008 cua Chanh an Toa an nhân dân tôêi cao
vêê quy tăêc ưng xư cua can bôô, công chưc nganh Toa an nhân dân.
làm trái pháp luâ ôt, hoă ôc lợi dụng các cơ quan truyền thông làm ảnh hưởng đến các
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Với tư cách là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa, phạm vi quan hê ô
giữa thẩm phán và các cơ quan khác thường nghiêm ngă ôt. Vì vâ ôy, thẩm phán
không được coi nhẹ viê ôc chuẩn bị tư thế, thái đô ,ô hành vi và ứng xử với Cơ quan
Nhà nước hoă ôc người có trách nhiê ôm giải quyết công viê ôc. Các Cơ quan Nhà
nước là đối tượng tiếp xúc của thẩm phán bao gồm UBND, Thanh Tra, Tài nguyên
và môi trường, Cơ quan định giá….bao gồm nhiều dạng và ở nhiều cấp đô ô khác
nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hô ôi. Để có thái đô ô ứng xử chuẩn mực, đạt
được yêu cầu, đúng thẩm quyền, chức năng, nhiê ôm vụ của các Cơ quan… thẩm
phán cần có trách nhiê ôm giải quyết thông suốt về quy trình, thời hạn theo đúng
quy định của pháp luâ ôt, tránh tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, không đúng
trình tự quy định. Viê ôc tuân thủ và vâ nô dụng đúng đắn các quy tắc đạo đức và ứng
xử sẽ gây dựng niềm tin cho các cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng khác.
Khi giao tiếp với các cơ quan, tổ chức có liên quan và cơ quan thông tin báo
chí Thẩm phán phải có kỹ năng linh hoạt, viê ôc phát ngôn, cung cấp thông tin, tài
liê ôu về xét xử, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng…, phải đúng
theo quy định của pháp luâ ôt và phải được cấp lãnh đạo có thẩm quyền giao11.
Không được phát ngôn, cung cấp thông tin tùy tiê nô gây ảnh hưởng xấu đến chính
trị, an ninh.
2.3. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán với các cơ quan, tổ chức, cá
nhân nước ngoài
11Điều 7 Quyết định 1253/QĐ-TANDTC, ngày 18/9/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về quy tắc ứng xử
của cán bô ,ô công chức ngành Tòa án nhân dân.
Khi giao tiếp với cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài Thẩm phán phải
thực hiê ôn đúng quy định của pháp luâ ôt và quy chế của cơ quan, đơn vị khi quan
hê ô với cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài12.
3. Trong hoạt động tố tụng
Về kỹ năng giao tiếp, ứng xử chung khi thực hiện nhiê ôm vụ giải quyết, xét xử
các loại vụ án Thẩm phán phải làm những viê cô sau: Thực hiê nô viê ôc giải quyết các
vụ án được phân công theo đúng quy định của pháp luâ ôt tố tụng và các văn bản
pháp luâ ôt khác có liên quan; vui vẻ, cởi mở, hòa nhã, nhiê ôt tình, trung thực, thâ nô
trọng, công tâm, khách quan, toàn diê nô , đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh trong giải quyết, xét xử các loại án; lắng nghe, tôn trọng ý kiến của những
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; giải thích, hướng dẫn tạo điều
kiê ôn thuâ ôn lợi cho người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng để họ thực
hiê ôn quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luâ ôt; tiếp xúc với những
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khi thi hành công vụ tại nơi quy
định, đảm bảo tính khách quan, minh bạch, rõ ràng; từ chối tiến hành tố tụng và
tham gia tố tụng theo quy định của pháp luâ ôt13.
Thẩm phán không được làm những viê ôc sau: Tư vấn cho bị can, bị cáo,
đương sự hoă ôc người tham gia tố tụng khác làm cho viê ôc giải quyết, xét xử vụ án
hoă ôc những viê ôc khác không đúng quy định của pháp luâ ôt; cản trở, can thiê pô trái
pháp luâ ôt vào viê ôc giải quyết, xét xử vụ án hoă ôc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác
đô nô g trái pháp luâ ôt đến người có trách nhiê ôm giải quyết vụ án; đem hồ sơ vụ án,
tài liê ôu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan hoă ôc sao chụp hồ sơ tài liê ôu nếu không
12Điều 8 Quyết định 1253/QĐ-TANDTC, ngày 18/9/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về quy tắc ứng xử
của cán bô ô, công chức ngành Tòa án nhân dân.
13Khoản 1 Điều 2 Quyết định 1253/QĐ-TANDTC, ngày 18/9/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về quy
tắc ứng xử của cán bô ô, công chức ngành Tòa án nhân dân.
vì nhiê ôm vụ được giao hoă ôc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền; thực
hiê ôn không đúng quy định về viê ôc tiếp bị can, bị cáo, đương sự, người tham gia tố
tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết; tiếp xúc, gă ôp gỡ bị can,
bị cáo, đương sự hoă ôc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình không có
nhiê ôm vụ giải quyết, xét xử làm ảnh hưởng tới lòng tin và sự tôn trọng của nhân
dân đối với cơ quan xét xử hoă ôc ảnh hưởng tới uy tín của cơ quan và cá nhân cán
bô ,ô công chức; sách nhiễu, trì hoãn, châ ôm trễ, gây khó khăn, phiền hà cho người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; làm sai lê nô h hồ sơ, kết quả giải quyết
vụ án; ra quyết định, bản án trái pháp luâ ôt; truy ép, gợi ý cho người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng trình bày sự viê ôc theo ý muốn chủ quan của mình
hoă ôc của người khác; tiết lô ô bí mâ ôt Nhà nước, bí mâ ôt công tác của mình và của
cán bô ô, công chức khác thuô ôc ngành Tòa án và các ngành khác; tiết lô ô bí mâ tô
nghề nghiê ôp, bí mâ ôt kinh doanh, bí mâ ôt đời tư của bị can, bị cáo, đương sự và
những người tham gia tố tụng khác, trừ trường hợp pháp luâ ôt quy định khác14.
Đặc biệt trong từng giai đoạn tố tụng, Thẩm phán cần nắm được những kỹ
năng giao tiếp, ứng xử riêng để việc giải quyết vụ án đạt kết quả cao nhất.
3.1. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bi xét
xử
Khi thực hành viê ôc giải quyết vụ án Thẩm phán thực hiê nô viê ôc đại diê nô cơ
quan Nhà nước, nhân danh Nhà nước vì vâ ôy viê ôc giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán
cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luâ ôt. Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm
phán phải giao tiếp với nhiều đối tượng khác nhau, với từng nhóm đối tượng khác
nhau Thẩm phán cũng xác định cho mình mô ôt vị thế khác nhau.
14Khoan 2 Điêêu 2 Quyêêt đinh 1253/QĐ-TANDTC, ngay 18/9/2008 cua Chanh an Toa an nhân dân tôêi cao vêê quy
tăêc ưng xư cua can bôô, công chưc nganh Toa an nhân dân.
Trong giai đoạn này, Thẩm phán phải thể hiê ôn được tác phong, lề lối làm viê ôc
và ứng xử của người cán bô ô công chức, phải dùng những ngôn từ thể hiê nô trình đô ô
hiểu biết và có thái đô ô đúng mực, phù hợp với điều kiê nô , hoàn cảnh khi tiếp xúc
đương sự. Khi người dân đến liên hê ô công viê ôc, Thẩm phán phải xác định
mình không phải là người ban phát, quyền lực mà là người phục vụ quyền lực ra
quyết định của Nhà nước, trong đó cá nhân mỗi Thẩm phán chỉ là người đại diê ôn.
Khi thực hiê ôn nhiê ôm vụ của mình, Thẩm phán phải có kỹ năng giao tiếp xã hô ôi
tốt, phải biết cách khai thác thông tin, gợi mở để đương sự biểu hiê ôn những suy
nghĩ, cảm xúc của họ, khuyến kích họ đưa ra những luâ ôn điểm bảo vê ô mình đồng
thời cũng buô ôc họ phải có thái đô ô thành khẩn khai báo, giúp tìm ra chân lý, lẽ
phải. Bên cạnh đó, khi xét xử thẩm phán cũng phải thể hiê ôn được sự công bằng
đối với tất cả mọi người.
Đối với nhóm đối tượng là người tham gia tố tụng bao gồm: Bị cáo, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
người làm chứng, người phiên dịch, người giám định, người bào chữa, người bảo
vê ô quyền và lợi ích của đương sự. Thẩm phán giữa vai trò chủ đô nô g, phối hợp,
điều chỉnh các tác đô nô g, có quyền tổ chức và điều chỉnh cuô ôc tiếp xúc để nhằm
làm sáng tỏ sự thâ ôt của vụ án.
3.2. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử
3.2.1. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán tại phiên tòa
Vai trò điều khiển, điều chỉnh của thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa thể hiê nô rõ
nét nhất khi vụ án được đưa ra xét xử công khai. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giữ
vai trò điều khiển toàn bô ô quá trình xét xử ngay từ khi khai mạc phiên tòa: Đọc
quyết định đưa vụ án ra xét xử; kiểm tra sự có mă tô của những người tham gia
phiên tòa, kiểm tra căn cước của các đương sự và những người tham gia tố tụng
khác15; giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo, người bị hại (đối với vụ án hình
sự), người khởi kiê ôn, người bị kiê nô (đối với vụ án hành chính), nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự (đối với vụ viê ôc dân sự), người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch; giới thiê ôu thành phần Hô ôi đồng xét xử …Viê ôc khai mạc phiên
tòa gây tác đô nô g tâm lý rất quan trọng đối với những người tham gia phiên tòa
trong suốt quá trình xét xử, giúp họ hiểu được vị trí quyền và trách nhiê ôm cá nhân
của mình trong suốt quá trình xét xử. Đồng thời tạo nên ở họ sự chú ý, quan tâm và
sẵn sàng tôn trọng, tuân thủ các yêu cầu của pháp luâ ôt tố tụng. Khi giao tiếp tại
phiên tòa người Thẩm phán thể hiê ôn kỹ năng giao tiếp của mình trên các khía cạnh
sau:
- Ngôn ngữ sử dụng tại phiên tòa: Ngôn ngữ sử dụng tại phiên tòa phải ngắn
gọn, dễ hiểu, súc tích, chă ôt chẽ và có sức thuyết phục cao. Khi giao tiếp người
thẩm phán cần phát huy những tố chất của mình về âm sắc của giọng nói khi xét xử
cũng như tuyên án phải rành mạch, rõ ràng, sử dụng đúng tiếng phổ thông, tránh
nói ngọng, nói lắp. Khi xét xử thẩm phán phải có vốn ngôn ngữ linh hoạt để có thể
vừa giải thích pháp luâ ôt, vừa giải thích những từ ngữ có tính chất nhạy cảm giúp
đương sự hiểu.
- Tác phong ứng xử: Đầu tóc phải gọn gàng, ăn mă ôc đúng trang phục của
ngành, đi lại nhẹ nhàng, đĩnh đạc. Trong giao tiếp thẩm phán cần tránh các biểu
hiê ôn thái quá, nóng nảy, cục cằn, có lời lẽ nhạo báng, dạy đời. Hiê ôn nay, trên thực
tế còn nhiều thẩm phán tác phong làm viê ôc còn chưa thực sự khoa học, khả năng
thích ứngchưa cao và còn thiếu năng đô nô g, sáng tạo trong viê ôc tổ chức hoạt đô nô g
xét xử. Có mô ôt số thẩm phán sử dụng ngôn ngữ chưa đúng với chuẩn mực, không
phù hợp với hoàn cảnh, điều kiê ôn và đối tượng giao tiếp như cách xưng hô không
đúng, quát tháo bị cáo, các đương sự và thư ký tại phiên tòa, văn phong không dứt
15Điều 213 BLTTDS năm 2004.
- Xem thêm -