Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Kỹ năng giao tiếp nghề luật

.DOCX
11
100
143

Mô tả:

A.LỜI MỞ ĐẦU Một phiên toà nói chung và phiên toà sơ thẩm hình sự nói riêng có bảo đảm tính chất tranh tụng hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Vai trò của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên, của Luật sư, của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác, nhưng vai trò của chủ toạ phiên toà là quan trọng nhất bởi kết quả phiên toà phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của chủ toạ phiên toà. Vậy trong quá trình xét xử vụ án hình sự, thẩm phán ( chủ tọa) phiên tòa có vai trò như thế nào trong giai đoạn xét hỏi, tranh luận, nghị án. Nội dung dưới đây giúp ta hiểu rõ hơn về vấn đề này. B.NỘI DUNG Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thì tại phiên toà sơ thẩm hình sự, Chủ toạ phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên toà của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác. Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ toạ phiên toà phải thực hiện đầy đủ, chính xác các công việc mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với chủ toạ phiên toà, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với Hội đồng xét xử, thay mặt Hội đồng xét xử công bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại phòng xử án. Với vai trò của người điều khiển phiên toà, chủ toạ phiên toà phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án. Để tổ chức và điều khiển phiên toà đạt kết quả, chủ toạ phiên toà chỉ giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng cho những người tham gia tố tụng, tuyệt đối không được giải thích, bình luận, đánh giá hành vi phạm tội, các tình tiết là yếu tố định tội, yếu 1 tố định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Không giải thích cho bị cáo nếu khai báo thành khẩn thì được giảm nhẹ hình phạt; không được nhận xét bị cáo ngoan cố; không được mạt sát hoặc có những lời lẽ có tính chất phê phán đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Đây là một vấn đề tồn tại phổ biến hiện nay của các Thẩm phán chủ toạ phiên toà và cũng là nguyên nhân làm cho những người tham gia phiên toà cho rằng, Toà án và Viện kiểm sát là một bên, còn bị cáo và người tham gia tố tụng là một bên, cảm giác thiếu khách quan, thiếu dân chủ tại phiên toà. 1.Vai trò của chủ tọa trong giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa Mục đích của giai đoạn xét hỏi là kiểm tra lại tính khách quan của các thông tin đã được cơ quan điều tra thu thập.Hội đồng xét xử tiến hành xem xét kiểm tra lại tất cả các nguồn thông tin về vụ án bằng cách thẩm vấn công khai, trực tiếp các đương sự có liên quan tới vụ án. Trong giai đoạn này không chỉ tòa án thực hiện hoạt động nhận thức mà các bên tham gia xét xử, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, bị cáo... cũng thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ của mình. Xuất phát từ vị trí tố tụng khác nhau, lợi ích khác nhau, mỗi người sẽ hướng tới sử dụng những nguồn truyền đạt thông tin khác nhau. Chính vì vậy, chủ tọa phải điều khiển quá trình nhận thức giữa các bên tham gia xét xử với những người tham gia tố tụng và điều khiển các mối quan hệ đó. Do vậy mà chủ tọa phiên tò buộc phải quan sát hành vi của bị cáo và tất cả những người tham gia khác. Chủ tọa điều chỉnh quá trình nhận thức của các bên tham gia thẩm vấn và của những người tham gia tố tụng. Trong giai đoạn này dẽ xảy ra xung đột trong giao tiếp do lợi ích, mục đích của họ khác nhau. Nhiệm vụ của chủ tọa là thiết lập mối quan hệ đúng đắn giữa các bên, đảm bảo không khí nghiêm túc, thoải mái, gạt bỏ những xung đột hướng tới tạo điề kiện cần thiết cho các bên tham gia thẩm vấn nhận thức sự thật đúng và chính xác. 2 Theo Điều 181 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về trình tự xét hỏi, thì Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các hội thẩm nhân dân, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa. Những người tham gia phiên toà cũng có quyền đề nghị với chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định. Trong khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên quan trong vụ án. Xét hỏi theo một thứ tự hợp lý là một yêu cầu mà chủ toạ phiên toà phải dự kiến trước, căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Nếu vụ án chỉ có một bị cáo bị truy tố về một tội thì việc xác định xét hỏi theo một thứ tự hợp lý không phức tạp bằng đối với vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về nhiều tội khác nhau. Để việc xét hỏi được hợp lý theo một thứ tự nhất định, tránh nhầm lẫn, trùng lặp, đối với vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về nhiều tội khác nhau, chủ toạ phiên toà nên quy về trường hợp vụ án có một bị cáo bị truy tố về một hành vi phạm một tội, tức là, xét hỏi hết hành vi này tội này đến hành vi khác, tội khác đối với một bị cáo và lần lượt cho đến hết các bị cáo trong vụ án. Để thể hiện tính chất tranh luận trong khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước, nhưng chỉ nên hỏi bị cáo cũng như đối với những người tham gia tố tụng khác một câu có tính chất nêu vấn đề, còn lại những câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội, dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Trong quá trình điều khiển việc xét hỏi, chủ toạ phiên toà phải thường xuyên theo dõi; nếu thấy câu hỏi có tính chất mớm cung, ép cung hoặc những câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, bí mật điều tra; xúc phạm nhân phẩm, danh dự con người thì phải yêu cầu người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu cầu người trả lời không trả lời câu hỏi đó. 3 Theo Điều 182 Bộ luật tố tụng hình sự thì Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên có thể công bố lời khai tại cơ quan điều tra trong trường hợp lời khai của người được xét hỏi tại phiên toà có mâu thuẫn với lời khai của họ tại cơ quan điều tra; người được xét hỏi không khai tại phiên toà; người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết. Nhưng thực tiễn xét xử chủ toạ phiên toà hoặc Kiểm sát viên thường nhắc hoặc công bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra, trước khi họ khai tại phiên toà về những tình tiết của vụ án, nhất là những vụ án bị cáo thay đổi lời khai ngay tại cơ quan điều tra. Việc làm này không chỉ trái với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mà còn làm cho những người tham gia phiên toà có cảm giác Hội đồng xét xử không khách quan. Để thể hiện tính chất tranh tụng, dân chủ, khách quan tại phiên toà, Hội đồng xét xử và chủ toạ phiên toà sẽ không công bố lời khai tại cơ quan điều tra, mà chỉ nên để Kiểm sát viên và người bào chữa công bố lời khai trong trường hợp quy định tại Điều 182 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp Kiểm sát viên hoặc Luật sư công bố lời khai tại cơ quan điều tra mà người được lấy lời khai nại rằng họ bị Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên ép cung, mớm cung, nhục hình nên mới khai như vậy, thì chủ toạ phiên toà có thể cho gọi Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đã lấy lời khai của họ tại cơ quan điều tra đến phiên toà để đối chất; nếu người được lấy lời khai đưa ra những bằng chứng, nhân chứng để chứng minh rằng lời khai tại cơ quan điều tra là sai thì chủ toạ phiên toà cần yêu cầu nộp bằng chứng hoặc cho mời người làm chứng đến phiên toà để đối chất. Trong trường hợp không thể triệu tập được người làm chứng hoặc Điều tra viên đến phiên toà mà lời khai của bị cáo hoặc người tham gia tố tụng có căn cứ thì phải hoãn phiên toà trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Theo khoản 2 Điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự thì ở giai đoạn xét hỏi, bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử chỉ hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. 4 Nhưng thực tế xét xử, Thẩm phán chủ toạ phiên toà cũng như Kiểm sát viên không để bị cáo trình bày kiến của họ về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án mà thường đặt câu hỏi ngay về hành vi phạm tội của họ. Có trường hợp chủ toạ phiên toà còn giải thích cho bị cáo là: “những ý kiến không đồng ý với bản cáo trạng sẽ trình bày sau ở giai đoạn tranh tụng”. Việc làm này cũng không đúng, làm cho người tham gia phiên toà có cảm giác Hội đồng xét xử và chủ toạ phiên toà áp đặt. Nếu bị cáo không có ý kiến gì về bản cáo trạng, thừa nhận hành vi phạm tội của mình mà Viện kiểm sát đã truy tố về tội danh, điều khoản của Bộ luật hình sự thì Hội đồng xét xử không nên xét hỏi về hành vi phạm tội mà nên xét hỏi về các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu bị cáo nhận tội nhẹ để trốn tránh trách nhiệm về tội phạm nặng hơn mà Viện kiểm sát không truy tố, trong khi người bị hại yêu cầu xét xử bị cáo về tội nặng hơn, thì chủ toạ phiên toà cần xét hỏi về những hành vi bị cáo phạm tội nặng hơn. Nếu có căn cứ bị cáo phạm tội năng hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố thì phải hoãn phiên toà để điều tra bổ sung. Khi xét hỏi những người tham gia tố tụng khác như: người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, giám định viên... để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, chủ toạ phiên toà cũng chỉ nên nêu vấn đề để Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa hỏi. Ngoài ra, Hội đồng xét xử phải tập trung chú ý và tri giác khách quan những thông tin thu được. Trong bối cảnh có mặt của nhiều người, những người tham gia tố tụng bị chi phối, sao nhãng, lún túng, mất tự nhiên. Chính vì vậy câu hỏi đạt ra cho những người này không mang tính kích động, cau hỏi phải ngán gọn, dễ hiểu, tạo điều kiện cho họ thích nghi với hoàn cảnh hiện tại, luôn duy trì trật tự tại phiên tòa, không cho phép mọi người ồn ào, tự tiện đi lại trong phòng xử án. Tóm lại, việc xét hỏi tại phiên toà, chủ toạ phiên toà không nên hỏi nhiều mà chỉ nêu vấn đề để Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa hỏi. Trong quá 5 trình xét xử chủ toạ phiên toà là người chỉ huy, điều hành. Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa có quyền đưa ra những bằng chứng mới để chứng minh có tội cũng như chứng minh vô tội. Trong quá trình xét hỏi cũng là quá trình tranh luận. Những người tham gia tố tụng có thể trình bày quan điểm của mình về vụ án, tranh luận với Kiểm sát viên về những vấn đề gỡ tội hoặc buộc tội. 2. Giai đoạn tranh luận tại phiên tòa. Tranh luận tại phiên toà chính là sự đối đáp giữa một bên buộc tội (Kiểm sát viên hoặc người bị hại ) và một bên gỡ tội hoặc giữa hai bên có quyền và lợi ích đối lập nhau bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu bằng cách hỏi đáp và tranh luận. Nếu trong quá trình hỏi đáp, người hỏi và người đáp được đánh giá, bình luận, nhận xét nội dung câu hỏi cũng như nội dung câu trả lời, thì quá trình hỏi đáp cũng là quá trình tranh luận, người hỏi và người đáp nêu những quan điểm của người tham gia vào việc hỏi đáp về một vấn đề cụ thể, đồng ý hay phản đối ý kiến của người khác. Điều khiển việc tranh tụng tại phiên toà là điều khiển quá trình này, mà chủ yếu là điều khiển việc đối đáp giữa Kiểm sát viên với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác hoặc giữa những người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích đối lập nhau. Để điều khiển việc tranh tụng đạt kết quả theo ý muốn, đòi hỏi chủ toạ phiên toà phải là người nắm chắc các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đọc kỹ hồ sơ vụ án; dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên toà và chủ động tìm biện pháp giải quyết khi tình huống đó xảy ra. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục tố tụng tại phiên toà sơ thẩm đối với chủ toạ phiên toà tương đối đầy đủ, nhưng những quy định có liên quan đến vấn đề tranh tụng chỉ được quy định tại các điều từ Điều 181 đến Điều 192, việc vận dụng các quy định tại các điều luật này để điều khiển việc tranh tụng được coi là kỹ năng xét xử của Thẩm phán chủ toạ phiên toà. 6 Chủ toạ phiên toà phải nắm chắc các tình tiết đã được xét hỏi để điều khiển việc tranh luận không kéo dài mà vẫn bảo đảm tính chất tranh tụng khi xét xử. Theo Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự, thì người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Quy định này cũng không có nghĩa là hạn chế thời gian tranh luận mà chỉ hạn chế số lần phát biểu về ý kiến mà mình không đồng ý. Trong khi đó, một vụ án có nhiều vấn đề, nhiều tình tiết của vụ án có quan điểm đánh giá khác nhau. Vì vậy, chủ toạ phiên toà phải chú ý xem những vấn đề được tranh luận có bao nhiêu ý kiến khác nhau, để điều khiển việc tranh luận giữa những người có ý kiến khác nhau về vấn đề đó; chủ toạ phiên toà cần yêu cầu những người tham gia tranh luận nêu những vấn đề không đồng ý và tranh luận từng vấn đề một. Cùng với việc điều khiển việc xét hỏi, tranh luận giữa Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác, chủ toạ phiên toà còn phải điều khiển việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và nhận xét hoặc báo cáo của các cơ quan, tổ chức. Cũng như điều khiển việc xét hỏi, tranh luận chủ toạ phiên toà phải giữ thái độ thật khách quan, cần chú ý không đưa ra nhận xét của mình cũng như nhận xét của các thành viên trong hội đồng xét xử, những nhận xét của chủ toạ phiên toà và của Hội đồng xét xử chỉ được nêu và thảo luận trong phòng nghị án. Tóm lại, để bảo đảm việc tranh tụng tại phiên toà dân chủ, khách quan, chủ toạ phiên toà chỉ hướng dẫn, chỉ huy để việc tranh tụng diễn ra theo một trật tự nhất định. Vai trò của chủ toạ phiên toà được ví như “trọng tài chính trên sân cỏ”, mọi cử chỉ hành động của chủ toạ phiên toà phải thể hiện tính dân chủ, khách quan, công minh; mọi nhận xét đánh giá của chủ toạ phiên toà chỉ được thể hiện trong phòng nghị án và trong phận nhận xét của bản án. 7 3. Giai đoạn nghị án. Giai đoạn nghị án sẽ được tiến hành sau khi hội đồng xét xử đã có đầy đủ những thong tin cần thiết về vụ án. Để đảm bảo nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử, giai đoạn này sẽ được tiến hành trong phòng nghị án, với số lượng thành viên hạn chế trong thành phần của Hội đồng xét xử. Giới hạn tập thể chặt chẽ như vậy nhằm tạo điều kiện nâng cao tinh thần trách nhiệm của tòa án trong quá trình hoạt động và kết quả hoạt động của họ khi nghị án. Kết quả hoạt động của hội đồng xét xử phụ thuộc trực tiếp vào mỗi thành viên. Mỗi thành viên phải có quan điểm rõ rang về mục đích hoạt động của mình, phải có ý thức trách nhiệm cao để đén lượt mình đảm bảo tính tích cực tâm lý cao hơn của mỗi thành viên. a. Đặc điểm của hoạt động nhận thức Trước hết hội đồng xét xử phải hoàn thành hoạt động nhận thức của mình, sau đó tổng kết lại nhận thức về các chứng cứ, kết quả tiến hành của mỗi thành viên. Thảo luận tập thể trong phòng nghị án đảm bảo kích thích tích cực lẫn nhau khi giải quyết mọi nhiệm vụ, đảm bảo kiểm tra lại và bổ xung vào mô hình đã lĩnh hội của các thành viên, đảm bảo quá trình nhớ lại đầy đủ, tranh luận kỹ về mọi phương án và tình tiết không khớp nhau trong những mô hình tư duy về sự kiện phạm tội của mỗi thành viên và cuối cùng bảo đảm hoàn thành đúng hoạt động nhận thức. Thảo luận cụ thể vụ án sẽ tạo điều kiện tốt để chi tiết hóa và cụ thể hóa hơn những vấn đề cần giải quyết trong phòng nghị án. Soạn thảo kế hoạch về các vấn đề phải được giải quyết khi nghị án là trách nhiệm của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa cần chú ý đến tính lien tục của các câu hỏi, tức là việc giải quyết mỗi nhiệm vụ và tìm hiểu mỗi chứng cứ trong quá trình thảo luận phải giúp cho việc giải quyết nhiệm vụ tư duy tiếp theo và giúp tìm hiểu những chứng cứ khác. Chủ tọa phải kích thích hoạt động của mọi thành viên, kích thích họ trao đổi ý kiến, phải nêu vấn đề cho họ. Song hoạt động dưới sự lãnh đạo của chủ tọa, chủ tọa kích thích tính tích cự của mỗi thành viên và định hướng quá trình nhận thức 8 chung về các chứng cứ và đinh hướng quá trình giải quyết mọi ván đề sẽ không ràng buộc ý kiến của mỗi thành viên. b. Đặc điểm của hoạt động thiết kế Đặc điểm của hoạt động thiết kế ở giai đoạn nghị án là tất cả các thành viên phải cùng ra quyết định, nghị án chỉ kết thúc khi quyết định phù hợp được cả hội đồng xét xử thừa nhận. Vai trò của chủ tọa phiên tòa đặc biệt quan trọng khi thực hiện hoạt động thiết kế trong nghị án. Nhiệm vụ của chủ tọa đối với hoạt độngt hiết kế trong nghị án trước hết là giúp cho các thành viên khác dễ dàng đối chiếu các điều luật khác nhau với mô hình sự kiện phạm tội đã xác định trong hoạt động nhận thức chung.. Khi nghị án, các thành viên không chỉ phải kết luận về tội của bị cáo mà phải xác định biện pháp trừng phạt. Việc quyết định hình phạt phải dựa trên cơ sở hiểu biết sâu sắc và toàn diện về nhân cách của bị cáo. Hội đồng xét xử phải quyết định những điều kiện cần thiết nhằm biến đổi bị cáo, xóa bỏ ở họ những thiếu sót tâm lý-xã hội, hình thành cho họ những phẩm chất tâm lý tốt, củng cố những phẩm chất tâm lý này trong những điều kiện cần thiết đó. Ở giai đoạn nghị án, chức năng giáo dục cũng được thực hiện. Mỗi bản án, quyết định đều đòi hỏi phải có chức năng giáo dục. Khi nghị án và ra bản án, bao giờ cũng phải đáp ứng được tình cảm đạo đức của con người, trong đó có bị cáo. Tác động giáo dục của bản án sẽ đạt được nếu tất cả mọi người tham dự phiên tòa hiểu được và đồng tình ủng hộ đối với bản án của tòa án, bản án phải phù hợp với những tình tiết cơ bản của bản án. C.KẾT LUẬN Như vậy, vai trò của thẩm phán trong việc xét xử một vụ án hình sự là hết sức quan trọng, nó đòi hỏi những người “ cầm cân nảy mực” phải có trình độ, có phẩm 9 chất tâm lý của thẩm phán, phải có quá trình nhận thức sâu sắc, toàn diện, đảm bảo tác động giáo dục lên mọi người tham dự phiên tòa và đảm bảo giải quyết vụ án đúng đắn vừa hợp tình, vừa hợp lý. 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Giáo trình tâm lý học tư pháp-Ths Chu Liên Anh, Ths Dương Thị Loan-Nxb Giáo dục Việt Nam. - Giáo trình tâm lý học tư pháp- NXB công an nhân dân. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan