Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khoá luận điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện...

Tài liệu Khoá luận điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện

.PDF
199
1
52

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẶNG THỊ MAI PHƯƠNG ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẶNG THỊ MAI PHƯƠNG ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NCS. TH.S LÊ THỊ DIỄM PHƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi là Đặng Thị Mai Phương, tôi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của NCS. Th.s Lê Thị Diễm Phương, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Đặng Thị Mai Phương DANH MỤC CHỮ, TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT HĐTCTS Hợp đồng tặng cho tài sản HĐTCTSCĐK Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện BLDS Bộ luật Dân sự TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh Nxb Nhà xuất bản MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................1 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN ............................................................8 1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện .................................................................................................................8 1.1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản .....................................................8 1.1.2. Khái niệm điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện .................................................................................................................10 1.2. Đặc điểm của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện ..............................15 1.2.1. Tính đơn vụ hay song vụ ......................................................................15 1.2.2. Tính thực tế hay ưng thuận ..................................................................17 1.2.3. Tính không có đền bù ...........................................................................21 1.3. Hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện ...............................25 1.4. Các yêu cầu pháp lý của điều kiện tặng cho trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện ...................................................................................................30 1.4.1. Điều kiện tặng cho không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội .......................................................................................................31 1.4.2. Điều kiện tặng cho phải xác định được ................................................33 1.4.3. Điều kiện tặng cho phải có thể thực hiện được ....................................34 1.4.4. Điều kiện tặng cho phải có tính khách quan ........................................34 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................35 CHƯƠNG 2. HỆ QUẢ PHÁP LÝ DO VI PHẠM ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN..................................................................................................................36 2.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội và kiến nghị hoàn thiện .....................................................36 2.1.1. Xác định điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội ...................................................................................................................36 2.1.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội ..........................................................................................42 2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................45 2.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không xảy ra hoặc không thể thực hiện được; điều kiện tặng cho không được ghi nhận trong hợp đồng và kiến nghị hoàn thiện .....................................................................45 2.2.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không xảy ra hoặc không thể thực hiện được ...............................................................................45 2.2.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không được ghi nhận trong hợp đồng tặng cho tài sản ............................................................50 2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................54 2.3. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên tặng cho vi phạm nghĩa vụ giao tài sản cho bên được tặng cho và kiến nghị hoàn thiện...................................55 2.3.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên tặng cho vi phạm nghĩa vụ giao tài sản cho bên được tặng cho ........................................................................55 2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................60 2.4. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm nghĩa vụ thực hiện điều kiện sau khi tặng cho và kiến nghị hoàn thiện........................60 2.4.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm toàn bộ nghĩa vụ thực hiện điều kiện sau khi được tặng cho ......................................61 2.4.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm một phần nghĩa vụ thực hiện điều kiện sau khi được tặng cho ......................................67 2.4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................71 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................72 KẾT LUẬN CHUNG ..........................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kinh tế và khoa học – kĩ thuật ngày càng phát triển tạo ra càng nhiều của cải dư thừa cho xã hội. Trước sự hưng thịnh về vật chất, các chủ thể trong xã hội chuyển sang xây dựng cho mình các giá trị tinh thần hoặc tích lũy cho các thế hệ tương lai và chính sự gắn kết về tình cảm, sự quen biết, gần gũi về mặt tinh thần làm nảy sinh nhu cầu về tặng cho tài sản, tặng cho tài sản kèm theo một số điều kiện nhất định. Chế định về hợp đồng tặng cho tài sản nói chung và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện nói riêng được đưa ra như một giải pháp hiệu quả cho những vấn đề này. Trong chế định tặng cho tài sản có điều kiện thì điều kiện tặng cho là một vấn đề quan trọng, Bộ luật Dân sự năm 2015 dành riêng một Điều luật quy định về tặng cho có điều kiện, theo đó bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Thực tế, bên tặng cho mong muốn tài sản của mình được tặng cho với ý nghĩa thể hiện tình cảm yêu thương, quý mến; tài sản tặng cho là chuyển quyền sở hữu sang cho bên được tặng cho nên bên tặng cho có thể thoả thuận những điều kiện nhất định với bên được tặng cho để đảm bảo tài sản tặng cho được sử dụng một cách đúng đắn, hoặc bảo tồn được giá trị của tài sản tặng cho. Quy định này tạo ra hành lang pháp lý quan trọng điều chỉnh điều kiện tặng cho trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật quy định này còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót; quy định hiện hành chưa phản ánh đầy đủ tính chất pháp lý của điều kiện tặng cho dẫn đến thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án còn nhiều bất cập. Cụ thể, bất cập trong việc xác định hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho đã thực hiện được một phần điều kiện hoặc trường hợp bên tặng cho khi vi phạm nghĩa vụ giao tài sản cho bên được tặng cho; bất cập liên quan đến việc công nhận điều kiện tặng cho trong các hợp đồng tặng cho tài sản. 2 Thực trạng áp dụng pháp luật đòi hỏi cần phải có những quy định cụ thể hơn điều chỉnh riêng về điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện cũng như sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để cơ chế vận hành chế định tặng cho có điều kiện hiệu quả trong thực tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ pháp luật này. Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài làm Khóa luận tốt nghiệp “Điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện” để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh điều kiện tặng cho, vi phạm điều kiện và hệ quả pháp lý của các trường hợp vi phạm điều kiện; so sánh, phân tích các quy định của pháp luật đồng thời đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về quy định này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Điều kiện trong hợp đồng tặng cho có điều kiện là một nội dung rất quan trọng trong chế định hợp đồng của Việt Nam và các nước trên thế giới. Vấn đề này đã và đang nhận được sự quan tâm, nghiên cứu từ nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Trong đó có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam; nguồn tài liệu này cung cấp cho tác giả kiến thức lý luận về pháp luật hợp đồng và các đặc điểm cơ bản của một hợp đồng như tính đơn vụ hay song vụ; tính thực tế hay ưng thuận, tính đền bù hay không có đền bù; hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng. Đây là nền tảng để đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý luận về điều kiện và hệ quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. - Đỗ Văn Đại (2018), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, tập 1 và tập 2, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam; tài liệu này cung cấp cho tác giả kiến thức lý luận và thực tiễn về điều kiện trong hợp đồng có điều kiện, bao gồm điều kiện phát sinh, điều kiện thực hiện và điều kiện chấm dứt hợp đồng. Tài liệu là cơ sở để đưa ra các lập luận khi nghiên cứu khái niệm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện và hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện bị 3 vi phạm; đồng thời tài liệu cung cấp cho tác giả kiến thức về tính hợp pháp của điều kiện trong hợp đồng có điều kiện, tạo cơ sở để xây dựng các yêu cầu pháp lý đối với điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. - Nguyễn Hải An (2012), Cơ sở lý luận và thực tiễn về tặng cho quyền sử dụng đất, Luận án tiến sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; công trình này phân tích, lý giải và làm rõ một số khái niệm khoa học về tặng cho quyền sử dụng đất, đặc điểm, bản chất pháp lý, vai trò, ý nghĩa của tặng cho quyền sử dụng đất; lược sử quá trình hình thành tặng cho tài sản ở Việt Nam, so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới. Tài liệu phân tích các quy định về tặng cho quyền sử dụng đất, tìm hiểu cơ sở của việc quy định các điều luật, phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng như những điểm mới quy định về tặng cho quyền sử dụng đất kết hợp với thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án để đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Từ tài liệu này, tác giả được cung cấp các góc nhìn khác nhau về khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản và quan điểm về các đặc điểm cơ bản của hợp đồng này, đồng thời tiếp nhận thực tiễn xét xử của Tòa án đối với tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện, góp phần củng cố lập luận khi nghiên cứu về vi phạm điều kiện tặng cho. - Lê Thị Giang (2020), Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội; công trình này xây dựng các khái niệm về hợp đồng tặng cho tài sản, tặng cho tài sản có điều kiện, đồng thời chỉ ra những đặc điểm đặc trưng làm cơ sở cho việc phân biệt hợp đồng tặng cho tài sản với các giao dịch khác như hứa thưởng, di tặng; phân tích các lý thuyết chính ảnh hưởng hay có tác động tới việc xây dựng các quy định về hợp đồng tặng cho tài sản. Tài liệu đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về tặng cho tài sản và tặng cho có điều kiện kết hợp với nghiên cứu, so sánh quy định có liên quan của một số nước trên thế giới để đưa ra các kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Nguồn tài liệu này giúp tác giả có được các góc nhìn khác nhau về tặng cho tài sản, có được các luận điểm, luận cứ khi xây dựng các yêu cầu pháp lý đối với điều kiện tặng cho và hệ quả pháp lý trong trường hợp hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện điều kiện. 4 - Trần Thị Như Trang (2014), Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; tài liệu này nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của điều kiện trong giao dịch có điều kiện, hợp đồng có điều kiện và hợp đồng tặng cho tài sản; thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện trong mối liên hệ với việc thực hiện điều kiện; đồng thời nghiên cứu bản chất pháp lý của điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật để đánh giá sự phù hợp của quy định hiện hành, đề xuất kiến nghị. Công trình này góp phần củng cố lập luận của tác giả về khái niệm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản cũng như phân tích, bình luận các bất cập trong việc xử lý vấn đề về thực hiện điều kiện tặng cho. - Hồ Thị Thu Hà (2013), Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; tài liệu này nghiên cứu lý luận và thực tiễn về khái niệm, đặc điểm, chủ thể, hình thức, thời điểm có hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và con. Tài liệu cung cấp cho tác giả các quan điểm khác nhau của thực tiễn xét xử đối với vấn đề vi phạm một phần điều kiện tặng cho và vấn đề thanh toán phần nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, qua đó góp phần củng cố lập luận khi xây dựng cơ chế hoàn thiện quy định về hệ quả pháp lý do vi phạm điều kiện tặng cho. - Lê Thị Hoài Ân (2015), “Quy định của pháp luật về tặng cho tài sản ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12; tài liệu này nghiên cứu, so sánh các quy định có liên quan về hợp đồng tặng cho tài sản ở các quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Thái Lan; trong đó nghiên cứu về khái niệm tặng cho tài sản, tặng cho tài sản có điều kiện, hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản, hủy bỏ hợp đồng tặng cho tài sản và so sánh với pháp luật Việt Nam. Qua đó giúp tác giả có góc nhìn khái quát về tặng cho tài sản nói chung và tặng cho tài sản có điều kiện nói riêng ở các quốc gia, từ đó có sự so sánh, đối chiếu khi nghiên cứu về 5 các quy định liên quan đến hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo pháp luật Việt Nam. - Dương Anh Sơn (2008), “Một số vấn đề về hợp đồng tặng cho”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4; tài liệu này phân tích, so sánh bản chất của hợp đồng tặng cho, những giới hạn của hợp đồng và vấn đề hủy bỏ hợp đồng sau khi hợp đồng đã có hiệu lực. Qua đó tác giả được cung cấp góc nhìn về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản, nền tảng cho việc khái quát tính thực tế hay tính ưng thuận của hợp đồng này; lập luận để lý giải tính không có đền bù của hợp đồng tặng cho tài sản và cơ chế hủy bỏ hợp đồng này trong nghiên cứu, so sánh với pháp luật Nga, Thái Lan, Pháp. - Vũ Thị Hồng Yến (2018), “Bình luận quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về hợp đồng tặng cho tài sản”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 09; trên cơ sở nhận diện bản chất pháp lý của hợp đồng tặng cho tài sản, tài liệu phát hiện và bình luận những bất cập, thiếu sót trong các quy định về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng; hậu quả pháp lý của việc tặng cho tài sản không thuộc quyền sở hữu của bên tặng cho; tặng cho có điều kiện; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về nội dung này. Đây là cơ sở để tác giả nhìn nhận và đánh giá các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về thực hiện điều kiện tặng cho và hệ quả của việc vi phạm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện liên quan đến thanh toán phần nghĩa vụ đã được thực hiện đối với trường hợp điều kiện phải được thực hiện trước khi tặng cho. - Phạm Quang Huy (2016), ““Consideration” theo pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ”, Tạp chí Luật học, số 1; tài liệu phân tích khái niệm “consideration” theo pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ, bình luận một số nội dung liên quan của pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện hành, đồng thời đưa ra một số lưu ý về “consideration” trong giao kết hợp đồng với đối tác Hoa Kỳ. Nguồn tài liệu này cung cấp cho tác giả góc nhìn mới về khái niệm “consideration” để từ đó có định hướng áp dụng đối với hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp điều kiện được thực hiện trước khi tặng cho, qua đó góp phần 6 chứng minh cho những bất cập trong quy định này và tạo sự thuyết phục trong các kiến nghị hoàn thiện pháp luật có liên quan. - Ngoài ra còn một số công trình khoa học, bài viết là nguồn tham khảo có giá trị giúp tác giả định hướng và kế thừa những giá trị nhất định trong quá trình nghiên cứu đề tài như: Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Phạm Văn Cheo (2009), Chuyên đề: “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho có điều kiện theo Điều 470 Bộ luật dân sự 2005”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Lê Thị Giang (2018), “Tặng cho tài sản trong Bộ luật dân sự Pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 03; Phùng Trung Tập (2020), “Bàn về hợp đồng tặng cho có điều kiện”, Tạp chí Kiểm sát, số 04; Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM… 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu với mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định hiện hành về điều kiện và hợp đồng tặng cho có điều kiện, so sánh, đối chiếu với pháp luật các quốc gia, kết hợp với việc phân tích, bình luận thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án để phát hiện những hạn chế, thiếu sót trong các quy định pháp luật hiện hành. Từ đó đưa ra các định hướng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Khi nghiên cứu đề tài, tác giả tập trung vào các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 điều chỉnh về bản chất và nội dung của điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Trong đó đề tài được giới hạn trong một số các vấn đề, bao gồm: (1) khái niệm, đặc điểm, hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện; (2) khái niệm, các yêu cầu pháp lý của điều kiện tặng cho; (3) công nhận và thực hiện điều kiện; (4) vi phạm điều kiện. Những vấn đề nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ được nghiên cứu ở những công trình khoa học khác. 7 5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu - Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu về tặng cho tài sản có điều kiện trong các quy định pháp luật dân sự của Việt Nam ở từng thời kỳ lịch sử. Qua đó phát hiện, kế thừa và phát triển những quy định đã tồn tại từ lâu trong pháp luật cổ nhưng vẫn có giá trị áp dụng liên quan đến điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. - Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ Khóa luận để tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, khái quát những nội dung cơ bản, phân tích cách hiểu và vận dụng phù hợp quy định pháp luật, bổ sung, tổng hợp thành các quy định hoàn chỉnh liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp so sánh được vận dụng hầu như xuyên suốt nhằm tìm hiểu, so sánh, đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam ở mỗi giai đoạn, đồng thời so sánh với pháp luật các quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Đức, Philippines… để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt, từ đó có góc nhìn mới về các vấn đề có liên quan chưa được luật hóa, làm cơ sở cho việc định hướng hoàn thiện pháp luật. - Phương pháp bình luận án được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 để làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật liên quan đến thực hiện điều kiện tặng cho trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, qua đó đưa ra những quan điểm sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật. 6. Bố cục tổng quát của Khóa luận Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục thì nội dung nghiên cứu của khóa luận chia làm hai chương: Chương 1: Khái quát chung về điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Chương 2: Hệ quả pháp lý do vi phạm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện và kiến nghị hoàn thiện. 8 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN 1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện Hợp đồng tặng cho là một trong những công cụ pháp lý được hình thành lâu đời trong pháp luật dân sự. Ngay từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ I trước Công nguyên, trong Luật La Mã, hợp đồng tặng cho được coi là một trong những cơ sở làm phát sinh quyền sở hữu và được quy định một cách cụ thể, chi tiết.1 Tương tự, pháp luật các quốc gia như Pháp, Đức, Thái Lan, Philippines… cũng dần xây dựng cho mình chế định riêng về hợp đồng tặng cho tài sản (HĐTCTS), trong đó có Việt Nam. Một số quốc gia xem tặng cho tài sản là hành vi pháp lý đơn phương như: Anh (bao gồm cả Scotland), Mỹ, Ấn Độ… khác với các quốc gia như Nhật Bản, Việt Nam, Đức, Thái Lan… xem tặng cho tài sản là hợp đồng dân sự. Trong hệ thống pháp luật Anh, tặng cho tài sản được gọi tên là “deed of gift” có nghĩa là “hành vi tặng cho” mà không được quy định là “gift of contract” hay “donation contract” (HĐTCTS). Theo đó, hành vi tặng cho được hiểu là việc chuyển giao tài sản sang cho chủ thể khác mà không có đền bù. Tương tự, trong pháp luật Ấn Độ chỉ cần bên tặng cho tuyên bố ý chí tặng cho là đầy đủ căn cứ pháp lý để hình thành giao dịch tặng cho mà chưa cần phải có sự chấp nhận của bên được tặng cho.2 Bộ luật Dân sự (BLDS) Việt Nam nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung nhìn nhận tặng cho tài sản dưới góc độ là một hợp đồng dân sự mà không phải là một hành vi pháp lý đơn phương, vì vậy những phân tích dưới đây đều dựa vào lý luận tặng cho tài sản là một hợp đồng dân sự. 1.1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản Điều 457 BLDS năm 2015 đưa ra khái niệm HĐTCTS như sau: “hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận”. Có thể thấy rằng, quy định trên rõ ràng muốn Dương Anh Sơn (2008), “Một số vấn đề về hợp đồng tặng cho”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, tr. 13. Lê Thị Giang (2020), Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 21. 1 2 9 nhấn mạnh vào việc chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên tặng cho sang bên được tặng cho và bên được tặng cho chấp nhận điều đó. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 còn nhấn mạnh vào yếu tố không có đền bù trong khái niệm của mình, đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam về HĐTCTS bên cạnh tồn tại nhiều quan điểm trái chiều về tính “không có đền bù” này sẽ được làm rõ hơn ở tiểu mục 1.2.3 của Khóa luận. Do tính thông dụng và phổ biến, khái niệm “HĐTCTS” được luật hóa rất nhiều trong pháp luật dân sự của các quốc gia cũng như tồn tại trong khoa học pháp lý dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Theo đó: “hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa bên tặng cho và bên được tặng cho, theo đó khi còn sống, bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù; còn bên được tặng cho nhận chuyển giao tài sản. Hợp đồng tặng cho có thể kèm điều kiện tặng cho hoặc không”3. Một tác giả khác cho rằng: “để tặng cho được xác lập, lời đề nghị của người tặng cho không đủ, cần phải có sự chấp nhận của người được tặng cho. Vậy, tặng cho là một hợp đồng”4. Tương tự như BLDS năm 2015 pháp luật các quốc gia cũng có quy định về HĐTCTS, theo đó Phần I Chương II Điều 1806 BLDS bang Quebec (Canada) quy định: “tặng cho là hợp đồng mà một người, người tặng cho, chuyển giao quyền sở hữu tài sản bằng danh nghĩa vô cớ cho người khác, người được tặng cho; một phần của quyền sở hữu, hoặc bất kỳ quyền nào khác do người đó nắm giữ, cũng có thể được chuyển nhượng bằng quà tặng. Quà tặng có thể là inter vivos (tặng cho trước khi chết) hoặc mortis causa (tặng cho sau khi chết)”. Điều 516 BLDS Đức quy định: “tặng cho là việc định đoạt bằng cách một người nào đó làm giàu cho người khác từ tài sản của chính mình là một khoản tặng cho nếu cả hai bên đồng ý rằng việc định đoạt xảy ra một cách vô cớ”. Điều 521 BLDS và Thương mại Thái Lan cũng đưa ra khái niệm tương tự: “tặng cho là một hợp đồng trong đó một người gọi là người cho, chuyển một tài sản của mình cho một người khác, gọi là người nhận mà không lấy tiền và người nhận nhận tài sản đó.” Như vậy, có thể xem HĐTCTS là sự thỏa thuận chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản của một bên (bên tặng cho) sang cho bên còn lại (bên được tặng cho) Lê Thị Giang, tlđd (2), tr. 29. Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, TPHCM, tr. 160. 3 4 10 theo hợp đồng và bên được tặng cho đồng ý nhận tài sản đó. 1.1.2. Khái niệm điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện 1.1.2.1. Khái niệm điều kiện tặng cho Theo từ điển tiếng Việt thì “điều kiện” là “cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra”, là “điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc nào đó” hay “những gì có thể tác động đến tính chất, sự tồn tại hoặc sự xảy ra của một cái gì đó”5. Cần phân biệt điều kiện có hiệu lực của hợp đồng với điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện (HĐTCTSCĐK). Theo đó, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng “là tổng hợp những yêu cầu pháp lý nhằm đảm bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó”6, còn tặng cho có điều kiện là một loại hợp đồng được quy định tại Điều 462 BLDS năm 2015. Hiện nay, trong khoa học pháp lý cũng có bài viết, luận văn, luận án nghiên cứu về HĐTCTSCĐK, tuy nhiên, rất ít công trình đi sâu vào phân tích khái niệm “điều kiện tặng cho”. Khoản 1 Điều 462 BLDS năm 2015 quy định: “bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Có thể thấy BLDS năm 2015 xem “điều kiện tặng cho” là nghĩa vụ mà một bên phải thực hiện vì lợi ích của bên kia. Điều 274 BLDS năm 2015 nêu rõ khái niệm “nghĩa vụ”: “nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).” Điều 276 BLDS năm 2015 xác định đối tượng của nghĩa vụ bao gồm tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. Trong khoa học pháp lý có một vài quan điểm về “điều kiện tặng cho” như: “điều kiện tặng cho được hiểu là một hoặc nhiều nghĩa vụ mà bên được tặng cho phải thực hiện trước hoặc sau khi nhận tài sản tặng cho. Thông thường, điều kiện tặng cho do bên tặng cho đưa ra và được sự chấp thuận của bên được tặng cho.”7 Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 321 -322. Lê Thị Diễm Phương (2020), “Khái niệm về điều kiện trong loại hợp đồng có điều kiện”, xem tại https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/khai-niem-ve-dieu-kien-trong-loai-hop-dong-co-dieu-kien, truy cập lần cuối ngày 01/5/2021. 7 Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học BLDS 2015, Nxb. Công an 5 6 11 Hoặc “điều kiện trong hợp đồng tặng cho có điều kiện là dự liệu về một hay một vài nghĩa vụ dân sự (phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác) do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng mà bên được tặng cho phải thực hiện trên cơ sở không trái pháp luật, đạo đức xã hội, nhằm xác lập cơ sở tiền đề cho việc thực hiện tặng cho hoặc xác lập nghĩa vụ thanh toán khi bên tặng cho không thực hiện việc tặng cho hoặc là căn cứ hủy bỏ hiệu lực của việc tặng cho nếu sau khi được tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ”.8 Điểm khác biệt cốt lõi nhất giữa HĐTCTSCĐK với HĐTCTS thông thường đó chính là “điều kiện tặng cho”. Bên cạnh quy định tại Điều 462, cụm từ “điều kiện” còn xuất hiện nhiều trong các quy định khác của BLDS năm 2015, trong đó phải kể đến quy định về giao dịch dân sự có điều kiện (khoản 1 Điều 120); quy định về thực hiện nghĩa vụ có điều kiện (khoản 1 Điều 284); quy định về hợp đồng có điều kiện (khoản 6 Điều 402). Trong các quy định này, điều kiện được xem là sự kiện pháp lý. Theo đó, “sự kiện pháp lý” được hiểu là “những sự kiện, hoàn cảnh, tình huống của đời sống thực tế”. Theo một quan điểm: “không phải mọi sự kiện xảy ra trong thực tế đều là sự kiện pháp lý mà chỉ những sự kiện làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định mới là sự kiện pháp lý có thể là hiện tượng tự nhiên hoặc là hành vi của con người…(…)… Sự kiện pháp lý trong quan hệ pháp luật dân sự nói chung là những sự kiện xảy ra trong thực tế được pháp luật dân sự dự liệu, quy định làm phát sinh hậu quả pháp lý: phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự”9. Như vậy, vấn đề đặt ra: điều kiện tặng cho trong HĐTCTSCĐK có thể là một sự kiện pháp lý, bao gồm điều kiện phát sinh, điều kiện thay đổi và điều kiện chấm dứt hợp đồng không? Ví dụ: ông A và bà B đã tổ chức lễ đính hôn vào ngày 01/01/2021, tại lễ đính hôn, gia đình ông A đã tặng cho bà B một số tài sản và thỏa thuận việc ông A và bà B sẽ tổ chức lễ cưới theo ngày giờ đã định. Theo một quan điểm: “trong tình huống này, thực ra rất khó khai thác quy định tại Điều 462 BLDS năm 2015 về hợp đồng tặng cho vì phía bên nhà trai nhân dân, Hà Nội, tr. 690. 8 Trần Thị Như Trang (2014), Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật TPHCM, tr. 26. 9 Trường Đại học Luật Tp. HCM (2018), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TPHCM, tr. 75 -76. 12 không yêu cầu phía bên nhà gái “thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho”. Trong trường hợp này, liệu có thể khai thác quy định về giao dịch có điều kiện hủy bỏ thuyết phục hơn vì điều kiện ở đây không nhất thiết phải là thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự?10 Tuy nhiên, tác giả cho rằng vẫn có thể khai thác quy định này, điều kiện tặng cho là phải tiến hành hôn lễ, trong trường hợp hôn ước bị huỷ bỏ thì bên được tặng cho phải trả lại tài sản tặng cho là sính lễ được tặng cho. Khi nghiên cứu về vấn đề điều kiện tặng cho có thể là sự kiện pháp lý, một học giả có quan điểm như sau: “điều luật có tiêu đề là “Tặng cho tài sản có điều kiện” và, khi đi vào nội dung, điều luật chỉ đề cập đến trường hợp bên tặng cho “yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho”. Với quy định như vậy, khi các bên thống nhất “bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho” thì tồn tại hợp đồng tặng cho có điều kiện. Tuy nhiên, với tiêu đề và nội hàm của điều luật, chúng ta có thể cho rằng điều kiện trong hợp đồng tặng cho không chỉ giới hạn ở việc “bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho”. Nói cách khác, đây chỉ là một trong những trường hợp có thể của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện và hoàn toàn có thể tồn tại điều kiện khác (tùy vào sự tưởng tượng của các bên liên quan).”11 Trên thực tế xảy ra phổ biến các trường hợp điều kiện tặng cho được các bên thỏa thuận mang tính chất là điều kiện phát sinh, ví dụ: A thoả thuận tặng cho B 100 triệu đồng nếu B đạt giải nhất trong cuộc đua marathon, lúc này điều kiện phát sinh là cuộc đua xảy ra và A thắng, B phải có nghĩa vụ tặng cho 100 triệu đồng; hoặc trường hợp điều kiện tặng cho là điều kiện hủy bỏ như ví dụ về hợp đồng tặng cho sính lễ giữa ông A và bà B vừa nêu trên, nếu điều kiện “tổ chức lễ cưới theo ngày giờ đã định” không xảy ra thì hợp đồng bị hủy bỏ. Như vậy, điều kiện tặng cho trong HĐTCTSCĐK cũng có thể được nhìn nhận là sự kiện mà quyền và nghĩa vụ của các bên phụ thuộc vào đó. BLDS Nhật Bản coi điều kiện tặng cho là nghĩa vụ khi quy định HĐTCTSCĐK là việc áp đặt các nghĩa vụ đối với bên được tặng cho12. Điều 190 Đỗ Văn Đại (2018), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 724 -725. 11 Đỗ Văn Đại, tlđd (10), tr. 724. 12 Lê Thị Hoài Ân (2015), “Quy định của pháp luật về tặng cho tải sản ở một số quốc gia trên thế giới và ở 10 13 Luật Hợp đồng Nhân dân Trung Hoa cũng quy định: “người tặng cho có thể kèm thêm nghĩa vụ. Nếu tặng cho kèm thêm nghĩa vụ, thì người được tặng cho cần thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận”. Tương tự, Điều 522 BLDS và Thương mại Thái Lan quy định: “việc tặng cho có thể thực hiện được bằng cách đồng ý miễn cho người nhận việc thi hành một nghĩa vụ, hoặc bằng cách thi hành một nghĩa vụ mà người nhận có bổn phận phải thi hành.” Có thể thấy, tuy không quy định cụ thể về khái niệm điều kiện tặng cho trong chế định HĐTCTSCĐK của mình nhưng các quốc gia cho rằng điều kiện tặng cho chính là nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận phải thực hiện trong hợp đồng. Như vậy, điều kiện tặng cho có thể được hiểu là thỏa thuận giữa các bên trong HĐTCTSCĐK, theo đó bên được tặng cho phải thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ nhất định theo yêu cầu của bên tặng cho. Nghĩa vụ này có thể được thực hiện trước hoặc sau khi tặng cho theo thỏa thuận giữa các bên. Điều kiện tặng cho cũng có thể là sự kiện làm phát sinh hoặc chấm dứt hợp đồng tặng cho tài sản. 1.1.2.2. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện Trong BLDS năm 2015 tồn tại các thuật ngữ: “giao dịch dân sự có điều kiện” và “hợp đồng có điều kiện”, “tặng cho tài sản có điều kiện” để làm rõ vấn đề này cần có một công trình nghiên cứu sâu rộng và trong phạm vi đề tài nghiên cứu, tác giả chỉ nhìn nhận HĐTCTSCĐK dưới góc độ là một dạng của HĐTCTS từ những quy định có liên quan của BLDS năm 2015. Trong các quy định về HĐTCTS, BLDS năm 2015 đã dành riêng một điều luật với tên gọi là Tặng cho tài sản có điều kiện (Điều 462) để điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong hợp đồng tặng cho tài sản có kèm theo điều kiện. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 lại không đưa ra khái niệm nào về “HĐTCTSCĐK” trong khi thực tiễn xét xử các Tòa án đều mạnh dạng xác định quan hệ tranh chấp giữa các bên là quan hệ HĐTCTSCĐK. Cụ thể, Tòa án nhận định: “xét thấy hợp đồng tặng cho tài sản giữa ông Đ và chị A là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện: theo đó ông Đ sẽ cho chị A số tiền 500.000.000 đồng, chị có nghĩa vụ về chung sống như vợ chồng với ông”13. Một bản án khác cũng được Tòa án tuyên giữa các bên trong hợp đồng tồn tại quan hệ tặng cho tài sản có điều kiện:“…bản chất của việc tặng cho nhà đất giữa bà V, ông L và bà D là Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12, tr. 54. 13 Bản án số 82/2020/ DS-ST ngày 03/11/2020 về việc “Tranh chấp hợp tặng cho tài sản” của TAND huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long. 14 “Tặng cho tài sản có điều kiện” theo quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự năm 2015”14. Rất tiếc trong các nhận định này, Tòa án chỉ xác định mà không lý giải khái niệm HĐTCTSCĐK. Trong khoa học pháp lý Việt Nam có một số tác giả đưa ra quan điểm về HĐTCTSCĐK như sau: “hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện là sự thỏa thuận trong đó bên tặng cho sẽ cân nhắc việc chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản cho bên thụ nhận sau khi bên thụ nhận thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự là điều kiện của hợp đồng tặng cho hoặc là sự thỏa thuận về việc tặng cho sẽ bị hủy bỏ sau khi được tặng cho mà bên nhận tặng cho không thực hiện được nghĩa vụ dân sự do bên tặng cho yêu cầu trước khi tặng cho”.15 Một tác giả khác lại cho rằng: “hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện là hợp đồng tặng cho tài sản, theo đó bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và không được làm thay đổi tính chất không có đền bù của hợp đồng tặng cho tài sản”16. Pháp luật các nước hầu như không đưa ra khái niệm HĐTCTSCĐK, tuy nhiên, trong bất kỳ quy định nào về HĐTCTS cũng đều đề cập đến loại hợp đồng này. Điều 525 BLDS Đức quy định về tặng cho có điều kiện: “bất kỳ ai tặng cho theo một điều kiện đều có thể yêu cầu rằng điều kiện đó phải được đáp ứng nếu bản thân anh ta đã thực hiện. Nếu việc thực hiện điều kiện là vì lợi ích công cộng, thì cơ quan công quyền có thẩm quyền cũng có thể yêu cầu thực hiện điều kiện sau khi người tặng cho qua đời.” Điều 522 BLDS và Thương mại Thái Lan quy định: “việc tặng cho có thể thực hiện được bằng cách đồng ý miễn cho người nhận việc thi hành một nghĩa vụ, hoặc bằng cách thi hành một nghĩa vụ mà người nhận có bổn phận phải thi hành”. Như vậy, dựa trên lý luận về điều kiện tặng cho trong HĐTCTS theo quy định của BLDS năm 2015 cũng như góc nhìn của pháp luật nước ngoài có thể xem HĐTCTSCĐK là HĐTCTS, theo đó các bên tự thỏa thuận với nhau về việc bên được tặng cho phải thực hiện một hoặc một số điều kiện tặng cho là sự kiện hoặc nghĩa vụ dân sự. Điều kiện này có thể được thực hiện trước hoặc sau khi tặng cho. Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 14/01/2019 về việc “Tranh chấp yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho” của TAND TPHCM. 15 Trần Thị Như Trang, tlđd (8), tr. 30. 16 Lê Thị Giang, tlđd (2), tr. 33. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan