BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG THỊ MAI PHƯƠNG
ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO
TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG THỊ MAI PHƯƠNG
ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO
TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NCS. TH.S LÊ THỊ DIỄM PHƯƠNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Đặng Thị Mai Phương, tôi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết
quả nghiên cứu của riêng tôi, thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của NCS. Th.s
Lê Thị Diễm Phương, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích
dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam
đoan này.
Tác giả
Đặng Thị Mai Phương
DANH MỤC CHỮ, TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
HĐTCTS
Hợp đồng tặng cho tài sản
HĐTCTSCĐK
Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
BLDS
Bộ luật Dân sự
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TPHCM
Thành phố Hồ Chí Minh
Nxb
Nhà xuất bản
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG
TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN ............................................................8
1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản và hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện .................................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản .....................................................8
1.1.2. Khái niệm điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện .................................................................................................................10
1.2. Đặc điểm của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện ..............................15
1.2.1. Tính đơn vụ hay song vụ ......................................................................15
1.2.2. Tính thực tế hay ưng thuận ..................................................................17
1.2.3. Tính không có đền bù ...........................................................................21
1.3. Hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện ...............................25
1.4. Các yêu cầu pháp lý của điều kiện tặng cho trong hợp đồng tặng cho tài
sản có điều kiện ...................................................................................................30
1.4.1. Điều kiện tặng cho không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội .......................................................................................................31
1.4.2. Điều kiện tặng cho phải xác định được ................................................33
1.4.3. Điều kiện tặng cho phải có thể thực hiện được ....................................34
1.4.4. Điều kiện tặng cho phải có tính khách quan ........................................34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................35
CHƯƠNG 2. HỆ QUẢ PHÁP LÝ DO VI PHẠM ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP
ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN..................................................................................................................36
2.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm,
trái đạo đức xã hội và kiến nghị hoàn thiện .....................................................36
2.1.1. Xác định điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã
hội ...................................................................................................................36
2.1.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm,
trái đạo đức xã hội ..........................................................................................42
2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................45
2.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không xảy ra hoặc
không thể thực hiện được; điều kiện tặng cho không được ghi nhận trong
hợp đồng và kiến nghị hoàn thiện .....................................................................45
2.2.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không xảy ra hoặc
không thể thực hiện được ...............................................................................45
2.2.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không được ghi
nhận trong hợp đồng tặng cho tài sản ............................................................50
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................54
2.3. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên tặng cho vi phạm nghĩa vụ giao
tài sản cho bên được tặng cho và kiến nghị hoàn thiện...................................55
2.3.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên tặng cho vi phạm nghĩa vụ giao
tài sản cho bên được tặng cho ........................................................................55
2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................60
2.4. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm nghĩa vụ
thực hiện điều kiện sau khi tặng cho và kiến nghị hoàn thiện........................60
2.4.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm toàn bộ
nghĩa vụ thực hiện điều kiện sau khi được tặng cho ......................................61
2.4.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm một phần
nghĩa vụ thực hiện điều kiện sau khi được tặng cho ......................................67
2.4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................72
KẾT LUẬN CHUNG ..........................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế và khoa học – kĩ thuật ngày càng phát triển tạo ra càng nhiều của cải
dư thừa cho xã hội. Trước sự hưng thịnh về vật chất, các chủ thể trong xã hội
chuyển sang xây dựng cho mình các giá trị tinh thần hoặc tích lũy cho các thế hệ
tương lai và chính sự gắn kết về tình cảm, sự quen biết, gần gũi về mặt tinh thần
làm nảy sinh nhu cầu về tặng cho tài sản, tặng cho tài sản kèm theo một số điều kiện
nhất định. Chế định về hợp đồng tặng cho tài sản nói chung và hợp đồng tặng cho
tài sản có điều kiện nói riêng được đưa ra như một giải pháp hiệu quả cho những
vấn đề này.
Trong chế định tặng cho tài sản có điều kiện thì điều kiện tặng cho là một
vấn đề quan trọng, Bộ luật Dân sự năm 2015 dành riêng một Điều luật quy định về
tặng cho có điều kiện, theo đó bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực
hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Trường hợp phải thực
hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà
bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên
được tặng cho đã thực hiện. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho
mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Thực tế, bên tặng cho mong muốn tài sản của mình
được tặng cho với ý nghĩa thể hiện tình cảm yêu thương, quý mến; tài sản tặng cho
là chuyển quyền sở hữu sang cho bên được tặng cho nên bên tặng cho có thể thoả
thuận những điều kiện nhất định với bên được tặng cho để đảm bảo tài sản tặng cho
được sử dụng một cách đúng đắn, hoặc bảo tồn được giá trị của tài sản tặng cho.
Quy định này tạo ra hành lang pháp lý quan trọng điều chỉnh điều kiện tặng cho
trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng
pháp luật quy định này còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót; quy định hiện hành chưa
phản ánh đầy đủ tính chất pháp lý của điều kiện tặng cho dẫn đến thực tiễn hoạt
động xét xử của Tòa án còn nhiều bất cập. Cụ thể, bất cập trong việc xác định hệ
quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho đã thực hiện được một phần điều
kiện hoặc trường hợp bên tặng cho khi vi phạm nghĩa vụ giao tài sản cho bên được
tặng cho; bất cập liên quan đến việc công nhận điều kiện tặng cho trong các hợp
đồng tặng cho tài sản.
2
Thực trạng áp dụng pháp luật đòi hỏi cần phải có những quy định cụ thể hơn
điều chỉnh riêng về điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
cũng như sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để cơ chế vận hành chế định tặng
cho có điều kiện hiệu quả trong thực tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các
bên trong quan hệ pháp luật này. Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài làm
Khóa luận tốt nghiệp “Điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện” để
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh điều kiện tặng cho, vi
phạm điều kiện và hệ quả pháp lý của các trường hợp vi phạm điều kiện; so sánh,
phân tích các quy định của pháp luật đồng thời đưa ra những kiến nghị để hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh về quy định này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Điều kiện trong hợp đồng tặng cho có điều kiện là một nội dung rất quan
trọng trong chế định hợp đồng của Việt Nam và các nước trên thế giới. Vấn đề này
đã và đang nhận được sự quan tâm, nghiên cứu từ nhiều nhà khoa học pháp lý trong
và ngoài nước dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Trong đó có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu sau:
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình hợp đồng
và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung),
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam; nguồn tài liệu này cung cấp cho tác giả
kiến thức lý luận về pháp luật hợp đồng và các đặc điểm cơ bản của một hợp đồng
như tính đơn vụ hay song vụ; tính thực tế hay ưng thuận, tính đền bù hay không có
đền bù; hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng. Đây là nền tảng
để đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý luận về điều kiện và hệ quả pháp lý của hủy
bỏ hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.
- Đỗ Văn Đại (2018), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án,
tập 1 và tập 2, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam; tài liệu này cung cấp cho
tác giả kiến thức lý luận và thực tiễn về điều kiện trong hợp đồng có điều kiện, bao
gồm điều kiện phát sinh, điều kiện thực hiện và điều kiện chấm dứt hợp đồng. Tài
liệu là cơ sở để đưa ra các lập luận khi nghiên cứu khái niệm điều kiện trong hợp
đồng tặng cho tài sản có điều kiện và hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện bị
3
vi phạm; đồng thời tài liệu cung cấp cho tác giả kiến thức về tính hợp pháp của điều
kiện trong hợp đồng có điều kiện, tạo cơ sở để xây dựng các yêu cầu pháp lý đối với
điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.
- Nguyễn Hải An (2012), Cơ sở lý luận và thực tiễn về tặng cho quyền sử dụng
đất, Luận án tiến sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; công trình này phân
tích, lý giải và làm rõ một số khái niệm khoa học về tặng cho quyền sử dụng đất,
đặc điểm, bản chất pháp lý, vai trò, ý nghĩa của tặng cho quyền sử dụng đất; lược sử
quá trình hình thành tặng cho tài sản ở Việt Nam, so sánh với pháp luật một số nước
trên thế giới. Tài liệu phân tích các quy định về tặng cho quyền sử dụng đất, tìm
hiểu cơ sở của việc quy định các điều luật, phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng
như những điểm mới quy định về tặng cho quyền sử dụng đất kết hợp với thực tiễn
hoạt động xét xử của Tòa án để đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Từ tài
liệu này, tác giả được cung cấp các góc nhìn khác nhau về khái niệm hợp đồng tặng
cho tài sản và quan điểm về các đặc điểm cơ bản của hợp đồng này, đồng thời tiếp
nhận thực tiễn xét xử của Tòa án đối với tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện,
góp phần củng cố lập luận khi nghiên cứu về vi phạm điều kiện tặng cho.
- Lê Thị Giang (2020), Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;
công trình này xây dựng các khái niệm về hợp đồng tặng cho tài sản, tặng cho tài
sản có điều kiện, đồng thời chỉ ra những đặc điểm đặc trưng làm cơ sở cho việc
phân biệt hợp đồng tặng cho tài sản với các giao dịch khác như hứa thưởng, di tặng;
phân tích các lý thuyết chính ảnh hưởng hay có tác động tới việc xây dựng các quy
định về hợp đồng tặng cho tài sản. Tài liệu đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về
tặng cho tài sản và tặng cho có điều kiện kết hợp với nghiên cứu, so sánh quy định
có liên quan của một số nước trên thế giới để đưa ra các kiến nghị sửa đổi, bổ sung.
Nguồn tài liệu này giúp tác giả có được các góc nhìn khác nhau về tặng cho tài sản,
có được các luận điểm, luận cứ khi xây dựng các yêu cầu pháp lý đối với điều kiện
tặng cho và hệ quả pháp lý trong trường hợp hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện
điều kiện.
4
- Trần Thị Như Trang (2014), Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy
định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh; tài liệu này nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của điều kiện trong giao dịch
có điều kiện, hợp đồng có điều kiện và hợp đồng tặng cho tài sản; thời điểm phát
sinh hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện trong mối liên hệ với việc
thực hiện điều kiện; đồng thời nghiên cứu bản chất pháp lý của điều kiện trong hợp
đồng tặng cho tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật để đánh giá sự phù hợp của
quy định hiện hành, đề xuất kiến nghị. Công trình này góp phần củng cố lập luận
của tác giả về khái niệm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản cũng như phân
tích, bình luận các bất cập trong việc xử lý vấn đề về thực hiện điều kiện tặng cho.
- Hồ Thị Thu Hà (2013), Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ
và con theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; tài
liệu này nghiên cứu lý luận và thực tiễn về khái niệm, đặc điểm, chủ thể, hình thức,
thời điểm có hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và con. Tài liệu cung cấp cho tác giả các quan điểm
khác nhau của thực tiễn xét xử đối với vấn đề vi phạm một phần điều kiện tặng cho
và vấn đề thanh toán phần nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện trong hợp
đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, qua
đó góp phần củng cố lập luận khi xây dựng cơ chế hoàn thiện quy định về hệ quả
pháp lý do vi phạm điều kiện tặng cho.
- Lê Thị Hoài Ân (2015), “Quy định của pháp luật về tặng cho tài sản ở một số
quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12; tài liệu
này nghiên cứu, so sánh các quy định có liên quan về hợp đồng tặng cho tài sản ở
các quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Thái Lan; trong đó nghiên cứu về khái niệm tặng
cho tài sản, tặng cho tài sản có điều kiện, hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản,
hủy bỏ hợp đồng tặng cho tài sản và so sánh với pháp luật Việt Nam. Qua đó giúp
tác giả có góc nhìn khái quát về tặng cho tài sản nói chung và tặng cho tài sản có
điều kiện nói riêng ở các quốc gia, từ đó có sự so sánh, đối chiếu khi nghiên cứu về
5
các quy định liên quan đến hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo pháp luật
Việt Nam.
- Dương Anh Sơn (2008), “Một số vấn đề về hợp đồng tặng cho”, Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 4; tài liệu này phân tích, so sánh bản chất của hợp đồng tặng
cho, những giới hạn của hợp đồng và vấn đề hủy bỏ hợp đồng sau khi hợp đồng đã
có hiệu lực. Qua đó tác giả được cung cấp góc nhìn về thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng tặng cho tài sản, nền tảng cho việc khái quát tính thực tế hay tính ưng
thuận của hợp đồng này; lập luận để lý giải tính không có đền bù của hợp đồng tặng
cho tài sản và cơ chế hủy bỏ hợp đồng này trong nghiên cứu, so sánh với pháp luật
Nga, Thái Lan, Pháp.
- Vũ Thị Hồng Yến (2018), “Bình luận quy định của Bộ luật dân sự năm 2015
về hợp đồng tặng cho tài sản”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 09; trên cơ sở
nhận diện bản chất pháp lý của hợp đồng tặng cho tài sản, tài liệu phát hiện và bình
luận những bất cập, thiếu sót trong các quy định về thời điểm phát sinh hiệu lực của
hợp đồng; hậu quả pháp lý của việc tặng cho tài sản không thuộc quyền sở hữu của
bên tặng cho; tặng cho có điều kiện; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về nội dung này. Đây là cơ sở để tác giả nhìn nhận và đánh giá các quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về thực hiện điều kiện tặng cho và hệ quả của
việc vi phạm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện liên quan đến
thanh toán phần nghĩa vụ đã được thực hiện đối với trường hợp điều kiện phải được
thực hiện trước khi tặng cho.
- Phạm Quang Huy (2016), ““Consideration” theo pháp luật hợp đồng Hoa
Kỳ”, Tạp chí Luật học, số 1; tài liệu phân tích khái niệm “consideration” theo pháp
luật hợp đồng Hoa Kỳ, bình luận một số nội dung liên quan của pháp luật hợp đồng
Việt Nam hiện hành, đồng thời đưa ra một số lưu ý về “consideration” trong giao
kết hợp đồng với đối tác Hoa Kỳ. Nguồn tài liệu này cung cấp cho tác giả góc nhìn
mới về khái niệm “consideration” để từ đó có định hướng áp dụng đối với hợp đồng
tặng cho tài sản có điều kiện trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
trong trường hợp điều kiện được thực hiện trước khi tặng cho, qua đó góp phần
6
chứng minh cho những bất cập trong quy định này và tạo sự thuyết phục trong các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật có liên quan.
- Ngoài ra còn một số công trình khoa học, bài viết là nguồn tham khảo có giá
trị giúp tác giả định hướng và kế thừa những giá trị nhất định trong quá trình nghiên
cứu đề tài như: Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của
pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
Phạm Văn Cheo (2009), Chuyên đề: “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho
có điều kiện theo Điều 470 Bộ luật dân sự 2005”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Thời
điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân
sự 2005, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Lê Thị Giang (2018),
“Tặng cho tài sản trong Bộ luật dân sự Pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
03; Phùng Trung Tập (2020), “Bàn về hợp đồng tặng cho có điều kiện”, Tạp chí
Kiểm sát, số 04; Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật
Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM…
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu với mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về điều kiện
trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy
định hiện hành về điều kiện và hợp đồng tặng cho có điều kiện, so sánh, đối chiếu
với pháp luật các quốc gia, kết hợp với việc phân tích, bình luận thực tiễn hoạt động
xét xử của Tòa án để phát hiện những hạn chế, thiếu sót trong các quy định pháp
luật hiện hành. Từ đó đưa ra các định hướng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên
quan đến vấn đề đang nghiên cứu.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả tập trung vào các quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 điều chỉnh về bản chất và nội dung của điều kiện trong hợp đồng tặng
cho tài sản có điều kiện. Trong đó đề tài được giới hạn trong một số các vấn đề, bao
gồm: (1) khái niệm, đặc điểm, hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện;
(2) khái niệm, các yêu cầu pháp lý của điều kiện tặng cho; (3) công nhận và thực
hiện điều kiện; (4) vi phạm điều kiện. Những vấn đề nằm ngoài phạm vi nghiên cứu
của đề tài sẽ được nghiên cứu ở những công trình khoa học khác.
7
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu về tặng cho tài sản có điều
kiện trong các quy định pháp luật dân sự của Việt Nam ở từng thời kỳ lịch sử. Qua
đó phát hiện, kế thừa và phát triển những quy định đã tồn tại từ lâu trong pháp luật
cổ nhưng vẫn có giá trị áp dụng liên quan đến điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài
sản có điều kiện.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ
Khóa luận để tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến điều
kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, khái quát những nội dung cơ bản,
phân tích cách hiểu và vận dụng phù hợp quy định pháp luật, bổ sung, tổng hợp
thành các quy định hoàn chỉnh liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh được vận dụng hầu như xuyên suốt nhằm tìm hiểu, so
sánh, đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam ở mỗi giai đoạn, đồng thời so sánh
với pháp luật các quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Đức, Philippines… để
thấy được những điểm tương đồng và khác biệt, từ đó có góc nhìn mới về các vấn
đề có liên quan chưa được luật hóa, làm cơ sở cho việc định hướng hoàn thiện pháp
luật.
- Phương pháp bình luận án được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 để làm rõ thực
trạng áp dụng pháp luật liên quan đến thực hiện điều kiện tặng cho trong hợp đồng
tặng cho tài sản có điều kiện, qua đó đưa ra những quan điểm sửa đổi, bổ sung
nhằm hoàn thiện pháp luật.
6. Bố cục tổng quát của Khóa luận
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục thì
nội dung nghiên cứu của khóa luận chia làm hai chương:
Chương 1: Khái quát chung về điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện.
Chương 2: Hệ quả pháp lý do vi phạm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài
sản có điều kiện và kiến nghị hoàn thiện.
8
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG
TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN
1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản và hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện
Hợp đồng tặng cho là một trong những công cụ pháp lý được hình thành lâu
đời trong pháp luật dân sự. Ngay từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ I trước Công
nguyên, trong Luật La Mã, hợp đồng tặng cho được coi là một trong những cơ sở
làm phát sinh quyền sở hữu và được quy định một cách cụ thể, chi tiết.1 Tương tự,
pháp luật các quốc gia như Pháp, Đức, Thái Lan, Philippines… cũng dần xây dựng
cho mình chế định riêng về hợp đồng tặng cho tài sản (HĐTCTS), trong đó có Việt
Nam. Một số quốc gia xem tặng cho tài sản là hành vi pháp lý đơn phương như:
Anh (bao gồm cả Scotland), Mỹ, Ấn Độ… khác với các quốc gia như Nhật Bản,
Việt Nam, Đức, Thái Lan… xem tặng cho tài sản là hợp đồng dân sự. Trong hệ
thống pháp luật Anh, tặng cho tài sản được gọi tên là “deed of gift” có nghĩa là
“hành vi tặng cho” mà không được quy định là “gift of contract” hay “donation
contract” (HĐTCTS). Theo đó, hành vi tặng cho được hiểu là việc chuyển giao tài
sản sang cho chủ thể khác mà không có đền bù. Tương tự, trong pháp luật Ấn Độ
chỉ cần bên tặng cho tuyên bố ý chí tặng cho là đầy đủ căn cứ pháp lý để hình thành
giao dịch tặng cho mà chưa cần phải có sự chấp nhận của bên được tặng cho.2
Bộ luật Dân sự (BLDS) Việt Nam nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung nhìn nhận tặng cho tài sản dưới góc độ là một hợp đồng dân sự mà không
phải là một hành vi pháp lý đơn phương, vì vậy những phân tích dưới đây đều dựa
vào lý luận tặng cho tài sản là một hợp đồng dân sự.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản
Điều 457 BLDS năm 2015 đưa ra khái niệm HĐTCTS như sau: “hợp đồng
tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản
của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù,
bên được tặng cho đồng ý nhận”. Có thể thấy rằng, quy định trên rõ ràng muốn
Dương Anh Sơn (2008), “Một số vấn đề về hợp đồng tặng cho”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, tr. 13.
Lê Thị Giang (2020), Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 21.
1
2
9
nhấn mạnh vào việc chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên tặng cho sang bên được
tặng cho và bên được tặng cho chấp nhận điều đó. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015
còn nhấn mạnh vào yếu tố không có đền bù trong khái niệm của mình, đây là một
trong những đặc điểm quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam về HĐTCTS bên
cạnh tồn tại nhiều quan điểm trái chiều về tính “không có đền bù” này sẽ được làm
rõ hơn ở tiểu mục 1.2.3 của Khóa luận.
Do tính thông dụng và phổ biến, khái niệm “HĐTCTS” được luật hóa rất
nhiều trong pháp luật dân sự của các quốc gia cũng như tồn tại trong khoa học pháp
lý dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Theo đó: “hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả
thuận giữa bên tặng cho và bên được tặng cho, theo đó khi còn sống, bên tặng cho
giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu
cầu đền bù; còn bên được tặng cho nhận chuyển giao tài sản. Hợp đồng tặng cho
có thể kèm điều kiện tặng cho hoặc không”3. Một tác giả khác cho rằng: “để tặng
cho được xác lập, lời đề nghị của người tặng cho không đủ, cần phải có sự chấp
nhận của người được tặng cho. Vậy, tặng cho là một hợp đồng”4.
Tương tự như BLDS năm 2015 pháp luật các quốc gia cũng có quy định về
HĐTCTS, theo đó Phần I Chương II Điều 1806 BLDS bang Quebec (Canada) quy
định: “tặng cho là hợp đồng mà một người, người tặng cho, chuyển giao quyền sở
hữu tài sản bằng danh nghĩa vô cớ cho người khác, người được tặng cho; một phần
của quyền sở hữu, hoặc bất kỳ quyền nào khác do người đó nắm giữ, cũng có thể
được chuyển nhượng bằng quà tặng. Quà tặng có thể là inter vivos (tặng cho trước
khi chết) hoặc mortis causa (tặng cho sau khi chết)”. Điều 516 BLDS Đức quy
định: “tặng cho là việc định đoạt bằng cách một người nào đó làm giàu cho người
khác từ tài sản của chính mình là một khoản tặng cho nếu cả hai bên đồng ý rằng
việc định đoạt xảy ra một cách vô cớ”. Điều 521 BLDS và Thương mại Thái Lan
cũng đưa ra khái niệm tương tự: “tặng cho là một hợp đồng trong đó một người gọi
là người cho, chuyển một tài sản của mình cho một người khác, gọi là người nhận
mà không lấy tiền và người nhận nhận tài sản đó.”
Như vậy, có thể xem HĐTCTS là sự thỏa thuận chuyển giao tài sản và quyền
sở hữu tài sản của một bên (bên tặng cho) sang cho bên còn lại (bên được tặng cho)
Lê Thị Giang, tlđd (2), tr. 29.
Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, TPHCM, tr.
160.
3
4
10
theo hợp đồng và bên được tặng cho đồng ý nhận tài sản đó.
1.1.2. Khái niệm điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
1.1.2.1. Khái niệm điều kiện tặng cho
Theo từ điển tiếng Việt thì “điều kiện” là “cái cần phải có để cho một cái
khác có thể có hoặc có thể xảy ra”, là “điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực
hiện một việc nào đó” hay “những gì có thể tác động đến tính chất, sự tồn tại hoặc
sự xảy ra của một cái gì đó”5. Cần phân biệt điều kiện có hiệu lực của hợp đồng với
điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện (HĐTCTSCĐK). Theo đó,
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng “là tổng hợp những yêu cầu pháp lý nhằm đảm
bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó”6, còn tặng cho có điều
kiện là một loại hợp đồng được quy định tại Điều 462 BLDS năm 2015. Hiện nay,
trong khoa học pháp lý cũng có bài viết, luận văn, luận án nghiên cứu về
HĐTCTSCĐK, tuy nhiên, rất ít công trình đi sâu vào phân tích khái niệm “điều kiện
tặng cho”. Khoản 1 Điều 462 BLDS năm 2015 quy định: “bên tặng cho có thể yêu
cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng
cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội”. Có thể thấy BLDS năm 2015 xem “điều kiện tặng cho” là nghĩa vụ mà một
bên phải thực hiện vì lợi ích của bên kia. Điều 274 BLDS năm 2015 nêu rõ khái
niệm “nghĩa vụ”: “nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc
giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định
vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).”
Điều 276 BLDS năm 2015 xác định đối tượng của nghĩa vụ bao gồm tài sản, công
việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện.
Trong khoa học pháp lý có một vài quan điểm về “điều kiện tặng cho” như:
“điều kiện tặng cho được hiểu là một hoặc nhiều nghĩa vụ mà bên được tặng cho
phải thực hiện trước hoặc sau khi nhận tài sản tặng cho. Thông thường, điều kiện
tặng cho do bên tặng cho đưa ra và được sự chấp thuận của bên được tặng cho.”7
Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 321 -322.
Lê Thị Diễm Phương (2020), “Khái niệm về điều kiện trong loại hợp đồng có điều kiện”, xem tại
https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/khai-niem-ve-dieu-kien-trong-loai-hop-dong-co-dieu-kien,
truy cập lần cuối ngày 01/5/2021.
7 Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học BLDS 2015, Nxb. Công an
5
6
11
Hoặc “điều kiện trong hợp đồng tặng cho có điều kiện là dự liệu về một hay một vài
nghĩa vụ dân sự (phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có
giá, thực hiện công việc khác hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích
của một hoặc nhiều chủ thể khác) do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng mà bên
được tặng cho phải thực hiện trên cơ sở không trái pháp luật, đạo đức xã hội, nhằm
xác lập cơ sở tiền đề cho việc thực hiện tặng cho hoặc xác lập nghĩa vụ thanh toán
khi bên tặng cho không thực hiện việc tặng cho hoặc là căn cứ hủy bỏ hiệu lực của
việc tặng cho nếu sau khi được tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện
nghĩa vụ”.8
Điểm khác biệt cốt lõi nhất giữa HĐTCTSCĐK với HĐTCTS thông thường
đó chính là “điều kiện tặng cho”. Bên cạnh quy định tại Điều 462, cụm từ “điều
kiện” còn xuất hiện nhiều trong các quy định khác của BLDS năm 2015, trong đó
phải kể đến quy định về giao dịch dân sự có điều kiện (khoản 1 Điều 120); quy định
về thực hiện nghĩa vụ có điều kiện (khoản 1 Điều 284); quy định về hợp đồng có
điều kiện (khoản 6 Điều 402). Trong các quy định này, điều kiện được xem là sự
kiện pháp lý. Theo đó, “sự kiện pháp lý” được hiểu là “những sự kiện, hoàn cảnh,
tình huống của đời sống thực tế”. Theo một quan điểm: “không phải mọi sự kiện
xảy ra trong thực tế đều là sự kiện pháp lý mà chỉ những sự kiện làm phát sinh
những hậu quả pháp lý nhất định mới là sự kiện pháp lý có thể là hiện tượng tự
nhiên hoặc là hành vi của con người…(…)… Sự kiện pháp lý trong quan hệ pháp
luật dân sự nói chung là những sự kiện xảy ra trong thực tế được pháp luật dân sự
dự liệu, quy định làm phát sinh hậu quả pháp lý: phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan
hệ pháp luật dân sự”9. Như vậy, vấn đề đặt ra: điều kiện tặng cho trong
HĐTCTSCĐK có thể là một sự kiện pháp lý, bao gồm điều kiện phát sinh, điều
kiện thay đổi và điều kiện chấm dứt hợp đồng không? Ví dụ: ông A và bà B đã tổ
chức lễ đính hôn vào ngày 01/01/2021, tại lễ đính hôn, gia đình ông A đã tặng cho
bà B một số tài sản và thỏa thuận việc ông A và bà B sẽ tổ chức lễ cưới theo ngày
giờ đã định. Theo một quan điểm: “trong tình huống này, thực ra rất khó khai thác
quy định tại Điều 462 BLDS năm 2015 về hợp đồng tặng cho vì phía bên nhà trai
nhân dân, Hà Nội, tr. 690.
8
Trần Thị Như Trang (2014), Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật TPHCM, tr. 26.
9
Trường Đại học Luật Tp. HCM (2018), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, TPHCM, tr. 75 -76.
12
không yêu cầu phía bên nhà gái “thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước
hoặc sau khi tặng cho”. Trong trường hợp này, liệu có thể khai thác quy định về
giao dịch có điều kiện hủy bỏ thuyết phục hơn vì điều kiện ở đây không nhất thiết
phải là thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự?10 Tuy nhiên, tác giả cho rằng vẫn
có thể khai thác quy định này, điều kiện tặng cho là phải tiến hành hôn lễ, trong
trường hợp hôn ước bị huỷ bỏ thì bên được tặng cho phải trả lại tài sản tặng cho là
sính lễ được tặng cho.
Khi nghiên cứu về vấn đề điều kiện tặng cho có thể là sự kiện pháp lý, một
học giả có quan điểm như sau: “điều luật có tiêu đề là “Tặng cho tài sản có điều
kiện” và, khi đi vào nội dung, điều luật chỉ đề cập đến trường hợp bên tặng cho
“yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc
sau khi tặng cho”. Với quy định như vậy, khi các bên thống nhất “bên được tặng
cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho” thì tồn
tại hợp đồng tặng cho có điều kiện. Tuy nhiên, với tiêu đề và nội hàm của điều luật,
chúng ta có thể cho rằng điều kiện trong hợp đồng tặng cho không chỉ giới hạn ở
việc “bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau
khi tặng cho”. Nói cách khác, đây chỉ là một trong những trường hợp có thể của
hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện và hoàn toàn có thể tồn tại điều kiện khác
(tùy vào sự tưởng tượng của các bên liên quan).”11 Trên thực tế xảy ra phổ biến các
trường hợp điều kiện tặng cho được các bên thỏa thuận mang tính chất là điều kiện
phát sinh, ví dụ: A thoả thuận tặng cho B 100 triệu đồng nếu B đạt giải nhất trong
cuộc đua marathon, lúc này điều kiện phát sinh là cuộc đua xảy ra và A thắng, B
phải có nghĩa vụ tặng cho 100 triệu đồng; hoặc trường hợp điều kiện tặng cho là
điều kiện hủy bỏ như ví dụ về hợp đồng tặng cho sính lễ giữa ông A và bà B vừa
nêu trên, nếu điều kiện “tổ chức lễ cưới theo ngày giờ đã định” không xảy ra thì hợp
đồng bị hủy bỏ. Như vậy, điều kiện tặng cho trong HĐTCTSCĐK cũng có thể được
nhìn nhận là sự kiện mà quyền và nghĩa vụ của các bên phụ thuộc vào đó.
BLDS Nhật Bản coi điều kiện tặng cho là nghĩa vụ khi quy định
HĐTCTSCĐK là việc áp đặt các nghĩa vụ đối với bên được tặng cho12. Điều 190
Đỗ Văn Đại (2018), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 724 -725.
11
Đỗ Văn Đại, tlđd (10), tr. 724.
12
Lê Thị Hoài Ân (2015), “Quy định của pháp luật về tặng cho tải sản ở một số quốc gia trên thế giới và ở
10
13
Luật Hợp đồng Nhân dân Trung Hoa cũng quy định: “người tặng cho có thể kèm
thêm nghĩa vụ. Nếu tặng cho kèm thêm nghĩa vụ, thì người được tặng cho cần thực
hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận”. Tương tự, Điều 522 BLDS và Thương mại Thái
Lan quy định: “việc tặng cho có thể thực hiện được bằng cách đồng ý miễn cho
người nhận việc thi hành một nghĩa vụ, hoặc bằng cách thi hành một nghĩa vụ mà
người nhận có bổn phận phải thi hành.” Có thể thấy, tuy không quy định cụ thể về
khái niệm điều kiện tặng cho trong chế định HĐTCTSCĐK của mình nhưng các
quốc gia cho rằng điều kiện tặng cho chính là nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận phải
thực hiện trong hợp đồng.
Như vậy, điều kiện tặng cho có thể được hiểu là thỏa thuận giữa các bên
trong HĐTCTSCĐK, theo đó bên được tặng cho phải thực hiện một hoặc một số
nghĩa vụ nhất định theo yêu cầu của bên tặng cho. Nghĩa vụ này có thể được thực
hiện trước hoặc sau khi tặng cho theo thỏa thuận giữa các bên. Điều kiện tặng cho
cũng có thể là sự kiện làm phát sinh hoặc chấm dứt hợp đồng tặng cho tài sản.
1.1.2.2. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
Trong BLDS năm 2015 tồn tại các thuật ngữ: “giao dịch dân sự có điều
kiện” và “hợp đồng có điều kiện”, “tặng cho tài sản có điều kiện” để làm rõ vấn đề
này cần có một công trình nghiên cứu sâu rộng và trong phạm vi đề tài nghiên cứu,
tác giả chỉ nhìn nhận HĐTCTSCĐK dưới góc độ là một dạng của HĐTCTS từ
những quy định có liên quan của BLDS năm 2015. Trong các quy định về
HĐTCTS, BLDS năm 2015 đã dành riêng một điều luật với tên gọi là Tặng cho tài
sản có điều kiện (Điều 462) để điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong hợp đồng tặng
cho tài sản có kèm theo điều kiện. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 lại không đưa ra
khái niệm nào về “HĐTCTSCĐK” trong khi thực tiễn xét xử các Tòa án đều mạnh
dạng xác định quan hệ tranh chấp giữa các bên là quan hệ HĐTCTSCĐK. Cụ thể,
Tòa án nhận định: “xét thấy hợp đồng tặng cho tài sản giữa ông Đ và chị A là hợp
đồng tặng cho tài sản có điều kiện: theo đó ông Đ sẽ cho chị A số tiền 500.000.000
đồng, chị có nghĩa vụ về chung sống như vợ chồng với ông”13. Một bản án khác
cũng được Tòa án tuyên giữa các bên trong hợp đồng tồn tại quan hệ tặng cho tài
sản có điều kiện:“…bản chất của việc tặng cho nhà đất giữa bà V, ông L và bà D là
Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12, tr. 54.
13
Bản án số 82/2020/ DS-ST ngày 03/11/2020 về việc “Tranh chấp hợp tặng cho tài sản” của TAND huyện
Long Hồ tỉnh Vĩnh Long.
14
“Tặng cho tài sản có điều kiện” theo quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự năm
2015”14. Rất tiếc trong các nhận định này, Tòa án chỉ xác định mà không lý giải
khái niệm HĐTCTSCĐK.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam có một số tác giả đưa ra quan điểm về
HĐTCTSCĐK như sau: “hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện là sự thỏa thuận
trong đó bên tặng cho sẽ cân nhắc việc chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản
cho bên thụ nhận sau khi bên thụ nhận thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự là
điều kiện của hợp đồng tặng cho hoặc là sự thỏa thuận về việc tặng cho sẽ bị hủy
bỏ sau khi được tặng cho mà bên nhận tặng cho không thực hiện được nghĩa vụ dân
sự do bên tặng cho yêu cầu trước khi tặng cho”.15 Một tác giả khác lại cho rằng:
“hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện là hợp đồng tặng cho tài sản, theo đó bên
tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước
hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội và không được làm thay đổi tính chất không có đền bù
của hợp đồng tặng cho tài sản”16. Pháp luật các nước hầu như không đưa ra khái
niệm HĐTCTSCĐK, tuy nhiên, trong bất kỳ quy định nào về HĐTCTS cũng đều đề
cập đến loại hợp đồng này. Điều 525 BLDS Đức quy định về tặng cho có điều kiện:
“bất kỳ ai tặng cho theo một điều kiện đều có thể yêu cầu rằng điều kiện đó phải
được đáp ứng nếu bản thân anh ta đã thực hiện. Nếu việc thực hiện điều kiện là vì
lợi ích công cộng, thì cơ quan công quyền có thẩm quyền cũng có thể yêu cầu thực
hiện điều kiện sau khi người tặng cho qua đời.” Điều 522 BLDS và Thương mại
Thái Lan quy định: “việc tặng cho có thể thực hiện được bằng cách đồng ý miễn
cho người nhận việc thi hành một nghĩa vụ, hoặc bằng cách thi hành một nghĩa vụ
mà người nhận có bổn phận phải thi hành”.
Như vậy, dựa trên lý luận về điều kiện tặng cho trong HĐTCTS theo quy
định của BLDS năm 2015 cũng như góc nhìn của pháp luật nước ngoài có thể xem
HĐTCTSCĐK là HĐTCTS, theo đó các bên tự thỏa thuận với nhau về việc bên
được tặng cho phải thực hiện một hoặc một số điều kiện tặng cho là sự kiện hoặc
nghĩa vụ dân sự. Điều kiện này có thể được thực hiện trước hoặc sau khi tặng cho.
Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 14/01/2019 về việc “Tranh chấp yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho” của
TAND TPHCM.
15
Trần Thị Như Trang, tlđd (8), tr. 30.
16
Lê Thị Giang, tlđd (2), tr. 33.
14
- Xem thêm -