Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khoá luận công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét ...

Tài liệu Khoá luận công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

.PDF
92
1
71

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGUYỄN MINH QUÂN CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGUYỄN MINH QUÂN CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ HUỲNH QUANG THUẬN TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Ths. Huỳnh Quang Thuận, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Nguyễn Minh Quân DANH MỤC CHỮ, TỪ VIẾT TẮT BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 TTDS Tố tụng dân sự VADS Vụ án dân sự STTCCĐS Sự thỏa thuận của các đương sự CNSTTCCĐS Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự CBXXST Chuẩn bị xét xử sơ thẩm XXST Xét xử sơ thẩm XXPT Xét xử phúc thẩm GĐT Giám đốc thẩm MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ, TỪ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ ......................................................................................................10 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ..........................................10 1.1.1. Khái niệm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ................................................................10 1.1.2. Đặc điểm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ................................................................13 1.1.3. Ý nghĩa công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thỏa thuận trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự .......................................................17 1.2. Quá trình hoàn thiện, phát triển chế định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ..........................19 1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ....................22 1.3.1. Nguyên tắc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ................................................................22 1.3.2. Phạm vi thỏa thuận ...................................................................................25 1.3.3. Thủ tục ra quyết định công nhận ..............................................................27 1.3.4. Giá trị pháp lý ...........................................................................................30 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..........................................................................................32 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÔNG NHẬN THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ..................33 2.1. Quyền thay đổi ý kiến của đương sự sau hòa giải thành ................................33 2.1.1. Bản chất của thỏa thuận giải quyết vụ án .................................................33 2.1.2. Các quy định của pháp luật liên quan ......................................................34 2.1.3. Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài ......................................................36 2.1.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ................................................................37 2.2. Điều kiện phải thỏa thuận toàn bộ vụ án ........................................................37 2.2.1. Bản chất của thỏa thuận giải quyết một phần vụ án .................................38 2.2.2. Tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự......................39 2.2.3. Kinh nghiệm của pháp luật liên quan .......................................................40 2.2.4. Kinh nghiệm rút từ thực tiễn ....................................................................41 2.2.5. Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài ......................................................43 2.2.6. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ................................................................43 2.3. Trường hợp có đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải ....................................45 2.3.1. Thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ vụ án không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt ........................................................................45 2.3.2. Việc tiến hành hòa giải khi có đương sự vắng mặt ..................................50 2.4. Kháng nghị theo theo tục tái thẩm quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ..........................................................................................................52 2.4.1. Tính chất của tái thẩm ..............................................................................52 2.4.2. Quy định của pháp luật về đối tượng kháng nghị tái thẩm ......................53 2.4.3. Thực tiễn xét xử........................................................................................54 2.4.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ................................................................56 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..........................................................................................57 KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................58 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 25/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016. Theo quy định của Bộ luật này thì tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự. Một biểu hiện của nguyên tắc này là tại bất kỳ giai đoạn tố tụng nào, từ giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đến giai đoạn xét xử phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì được Tòa án xem xét công nhận sự thỏa thuận đó. Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự thời gian qua cho thấy các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự bước đầu đã đi vào cuộc sống. Có nhiều sự thỏa thuận của các đương sự được công nhận tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, thậm chí là tại phiên tòa phúc thẩm mà không cần thông qua thủ tục xét xử sau đó. Từ đó giúp cho vụ án được kết thúc nhanh chóng, tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của đương sự và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, cụ thể tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định như: thứ nhất, Bộ luật Tố tụng dân sự có dấu hiệu xâm phạm đến quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự khi ghi nhận quyền thay đổi ý kiến của đương sự sau hòa giải thành; thứ hai, Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định giá trị pháp lý của thỏa thuận một phần nội dung vụ án dẫn đến nhiều thỏa thuận của đương sự không có giá trị pháp lý và không được đảm bảo thi hành trên thực tế; thứ ba, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định trong trường hợp có đương sự vắng mặt, Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có mặt nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt, tuy nhiên, Bộ luật lại không làm rõ như thế nào là không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt dẫn đến việc áp dụng quy định này trong thực tế gặp nhiều khó khăn; cuối cùng, về hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận thì Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “quyết định này chỉ có thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức 1 xã hội”, quy định này tạo ra ý kiến trái chiều trong việc quyết định này có thể bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hay không. Hơn nữa, ở nước ta hiện nay, chế định hòa giải, đối thoại, từ đó tạo điều kiện để các đương sự thỏa thuận thành với nhau đã được quy định trong các đạo luật và triển khai trên thực tế góp phần giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, giữ gìn và củng cố tình cảm gia đình, xóm giềng, quan hệ hợp tác kinh doanh, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Chánh án Tòa án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 04/2017/CT-TA ngày 03/10/2017 để tăng cường công tác hòa giải tại Tòa án các cấp, đặt ra chỉ tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện, đặc biệt, Chỉ thị giao chỉ tiêu cho Tòa án phải đảm bảo: “100% quyết định công nhận sự thỏa thuận các các đương sự không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; không có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khó thi hành hoặc không thi hành được”. Để làm được điều này đòi hỏi phải khẩn trương, nghiêm túc và bài bản, đánh giá toàn diện các cơ chế pháp luật hiện hành về vấn đề này. Với những lý do trên, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là phù hợp và hết sức cấp thiết. 2. Tổng hợp tình hình nghiên cứu trong và ngoài trường Các vấn đề pháp lý liên quan đến công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nói chung, và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm nói riêng là những nội dung quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và các nước trên thế giới. Công tác nghiên cứu về vấn đề này đang nhận được sự quan tâm, nghiên cứu từ nhiều nhà khoa học pháp lý dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Theo đó có một số luận văn, bài viết nghiên cứu về đề tài có liên quan đến vấn đề này như: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, từ nguồn tài liệu này, tác giả được cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản về pháp luật tố tụng Việt Nam nói chung và lý luận về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nói riêng để làm tổng quan, làm nền tảng nghiên cứu sâu rộng hơn các quy định liên quan đến đề tài. Trần Anh Tuấn (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước 2 Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, từ nguồn tài liệu này, tác giả có thể tìm hiểu các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhằm làm rõ những điểm mới của Bộ luật này, cơ sở lý luận của các quy định cũng như mối liên hệ giữa chúng với các văn bản pháp luật có liên quan, góp phần vào nhận thức và áp dụng pháp luật tố tụng dân sự được đúng đắn và thống nhất. Lương Thị Thu Hà (2016), Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, nguồn tài liệu này cung cấp lý luận về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam, sau đó luận văn còn phân tích và chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật cũng như áp dụng trên thực tế về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vụ án dân sự. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Khi nghiên cứu tài liệu này, tác giả đã kế thừa, học hỏi được những kiến thức tổng quát, tiếp thu cách nhìn mới mẻ của người viết, từ đó bình luận, phản biện và phát huy hơn đề tài này. Bên cạnh đó, có các bài viết liên quan đến vấn đề công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vụ án dân sự, cụ thể như: Đặng Thanh Hoa (2017), “Bàn về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vụ án dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tr. 25-30, trong tài liệu này, người viết tập trung làm rõ các quy định của pháp luật tố tụng về thủ tục tiến hành phiên hòa giải kết hợp với phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, việc hòa giải vắng mặt đương sự trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, đặc biệt, bài viết có phân tích chi tiết về điều kiện để tiến hành phiên họp khi có đương sự vắng mặt. Nguồn tài liệu này giúp tác giả có được những luận cứ, luận điểm khá vững chắc để chứng minh cho những bất cập liên quan đến thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp có đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải, từ đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Bùi Thị Huyền (2016), “Thời hạn sơ thẩm vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Luật học, số 03, tr. 31-37, trong nguồn tài liệu này, người viết phân tích một số hạn chế, bất cập của Bộ luật Tố tụng dân sự 3 nảy sinh từ thực tiễn như thời hạn thông báo việc thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan, thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp có đương sự vắng mặt. Qua nguồn tài liệu này, tác giả tham khảo và phát triển được một số đề xuất hướng dẫn các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn sơ thẩm vụ án dân sự, trong đó có thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp có đương sự vắng mặt nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật tố tụng dân sự, phù hợp với thực tiễn, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nguyễn Hòa Bình (2018), “Đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13, tr. 1-5, tại nguồn tài liệu này, người viết phân tích về việc làm thế nào để đổi mới, phát huy đầy đủ hơn nữa các giá trị và ý nghĩa của hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính nhằm tháo gỡ bất đồng giữa các bên một cách hiệu quả nhất, giảm tải tối đa áp lực, thời gian, chi phí để các bên cùng đạt yêu cầu, nguyện vọng và xã hội ngày càng phát triển bền vững. Trong bài viết này, tác giả sẽ hiểu được giá trị của hòa giải, đối thoại trong các phương thức giải quyết các tranh chấp, bất đồng trong đời sống xã hội, bên cạnh đó, tác giả sẽ có nhiều thông tin về thực tiễn hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự ở nước ta trong giai đoạn gần đây cũng như kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Từ đó, tác giả có được những lập luận để chứng minh cho các luận điểm trong Khóa luận về việc chứng minh tại sao phải điều chỉnh những quy định của pháp luật về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và qua đó đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật. Nguyễn Nam Hưng (2018), “Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm đối với quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 21, tr. 46-49, nguồn tài liệu này trình bày về thực tiễn giải quyết các đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, người viết trình bày về các ý kiến khác nhau về việc phải căn cứ khoản 2 Điều 213 Bộ luật Tố tụng dân sự để kháng nghị vì đây là phần riêng, phải ưu tiên áp dụng hay phải áp dụng khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự về căn cứ kháng nghị, vì đây được coi là phần khung và Bộ luật đã có một Chương quy định về thủ 4 tục này. Qua nguồn tài liệu này, tác giả tiếp thu được những luận điểm rất thuyết phục để chứng minh pháp luật đang có bất cập và cần có những đề xuất để hoàn thiện những quy định pháp luật có liên quan. Phạm Thị Thúy (2018), “Giá trị pháp lý của thỏa thuận tiền tố tụng và thỏa thuận trong tố tụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23, tr. 12-18, trong tài liệu này, người viết cho rằng pháp luật tố tụng dân sự luôn tạo điều kiện cho các đương sự thỏa thuận, hòa giải (thủ tục hòa giải, thỏa thuận tại phiên tòa sơ thẩm, thỏa thuận tại phiên tòa phúc thẩm…). Tuy nhiên, hiện nay, quy định của pháp luật về trường hợp các đương sự thỏa thuận ngoài Tòa án, thỏa thuận được với nhau một phần vụ án tại Tòa án chưa rõ ràng, chưa thực sự thỏa đáng. Cụ thể, người viết đặt vấn đề, nếu đương sự đã thỏa thuận ngoài Tòa án thì Tòa án có tiếp tục giải quyết lại nội dung các bên đã thỏa thuận không? Bên cạnh đó, nếu đương sự thỏa thuận được với nhau một phần vụ án thì hiệu lực của thỏa thuận này ra sao. Khi nghiên cứu nguồn tài liệu này, tác giả đã được làm rõ các vấn đề giá trị pháp lý của thỏa thuận một phần vụ án tại Tòa án của đương sự. Bùi Thị Huyền (2017), “Quan hệ giữa pháp luật tố tụng dân sự với pháp luật dân sự và định hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học, số 09, tr. 32-43, nguồn tài liệu này phân tích, đánh giá quan hệ giữa pháp luật tố tụng dân sự với pháp luật dân sự, chỉ ra những điểm chưa thống nhất và phương thức khắc phục tình trạng không thống nhất giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự về việc xác định phạm vi giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, về thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, về xác định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, về quyền khởi kiện vụ án dân sự, về căn cứ trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự, về một số căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, nêu định hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự trong mối quan hệ với pháp luật dân sự nhằm đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự. Tuy trong nội dung bài viết, người viết phân tích đến những khía cạnh có vẻ không liên quan đến nội dung Khóa luận, nhưng khi nghiên cứu tài liệu này, tác giả đã có được những lý luận cơ bản về nguyên tắc tôn trọng sự tự do cam kết, thỏa thuận và giới hạn tự do cam kết, thỏa thuận trong dân sự có quan hệ như thế nào để việc thỏa thuận của các đương sự trong tố tụng dân sự. Nguyễn Thị Hạnh, Đinh Thị Thu Hường (2015), “Ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp hòa giải đoàn tụ thành vụ án ly 5 hôn có đúng pháp luật không?”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 08, tr. 29-32; Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2018), “Cần quy định thủ tục công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 20, tr. 09-13, những tài liệu này cung cấp cho tác giả những kiến thức về việc thỏa thuận của đương sự trong các lĩnh vực chuyên sâu như hôn nhân gia đình, tố tụng hình sự để tiện so sánh và hiểu sâu rộng hơn đề tài đang nghiên cứu. Trần Anh Tuấn (2015), “Thủ tục tố tụng dân sự của một số nước châu Âu và so sánh với thủ tục tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 11, tr. 44-57, bài viết này phân tích thủ tục tố tụng dân sự của pháp luật một số nước châu Âu như: Pháp, Đức, Italia, Nga, Đan Mạch và Thụy Điển, so sánh với thủ tục tố tụng dân sự Việt Nam, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện một số quy định về thủ tục tố tụng dân sự của Việt Nam. Đặc biệt, trong nguồn tài liệu này, tác giả tìm thấy những kiến thức cơ bản của pháp luật một số nước Châu Âu về vấn đề hòa giải, thỏa thuận của các đương sự, từ đó liên hệ với pháp luật Việt Nam, đánh giá phân tích và đề xuất hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Hoàng Thị Thùy Vinh, Phan Thị Thu Hà (2018), “Hòa giải tại Tòa án, điều đình và hòa giải trước khởi kiện tại Tòa án của Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23, tr. 43-48, nguồn tài liệu này cung cấp cho tác giả những thông tin như tại Nhật Bản, pháp luật phân biệt giữa điều đình, hòa giải tư pháp và điều đình, hòa giải ngoài tư pháp (ví dụ như hòa giải lao động, nếu không thành thì các bên có quyền khởi kiện và không có quy định về công nhận hòa giải thành này tại Tòa án). Trong điều đình, hòa giải tư pháp gồm điều đình, hòa giải ngoài tố tụng (điều đình dân sự, gia sự và hòa giải trước khi khởi kiện) và hòa giải trong tố tụng. Trong phạm vi bài viết này, tác giả hiểu được một cách khái quát về hòa giải trong tố tụng Nhật Bản và đi sâu mô tả, phân tích chế định điều đình, hòa giải ngoài tố tụng tại Tòa án, với vai trò là nguồn tư liệu tham khảo pháp luật nước ngoài hữu ích về mô hình hòa giải trước và trong tố tụng, từ đó đề xuất cho pháp luật Việt Nam. Phan Thị Thu Hà, Hà Lệ Thủy (2019), “Chế định hòa giải gắn với Tòa án tại Hàn Quốc”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03, tr. 38-48, tài liệu này cung cấp những thông tin về hòa giải tại Hàn Quốc và những quy định về công nhận sự thỏa thuận của pháp luật quốc gia này. Khi nghiên cứu tài liệu này, tác giả hiểu được chế định hòa giải của Hàn Quốc đã hình hành sớm, phong phú, đa dạng và chính sách tăng cường chế định hòa giải được Tòa án tối cao Hàn Quốc triển khai mạnh mẽ, từ đó 6 tác giả khái quát được những vấn đề cơ bản để hình dung một cách tổng thể chế định này và đề xuất bài học cho Việt Nam. Ngoài ra còn một số bài viết được viết khá lâu nhưng vẫn còn nhiều giá trị tham khảo cho Khóa luận như các bài: Đỗ Đức Anh Dũng (2006), “Về hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16, tr. 8-10; Trần Văn Quảng (2003), “Hòa giải các vụ án dân sự trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 02, tr. 20-21; Lê Viết Tám (2012), “Thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như thế nào?”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 04, tr. 16-17; Huỳnh Minh Khánh (2012), “Một số bất cập về án phí trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12, tr. 27; Phạm Thị Hằng (2013), “Về bài viết Một số bất cập về án phí trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17, tr. 33-35; Trương Minh Tấn (2017), “Thỏa thuận án phí hòa giải thành vụ án về dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân số, số 08, tr. 35-36; Bùi Thị Huyền (2007), “Về sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự”, Tạp chí Luật học, số 08, tr. 23-29; Nguyễn Phương Hạnh (2012), Tìm hiểu về Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội; Đỗ Văn Đại (2013), “Tự do cam kết, thỏa thuận và giới hạn đối với tự do cam kết, thỏa thuận – nhìn từ góc độ Hiến pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 09, tr. 915. Nhìn chung, một số công trình chỉ nghiên cứu ở khía cạnh hẹp, các tác giả chỉ đi vào phân tích từng vấn đề cụ thể, tản mạn, chưa có sự tổng hợp mang tính khái quát cao. Đồng thời, tuy đã có công trình nghiên cứu chuyên sâu về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nhưng công trình vẫn chưa đầy đủ và toàn diện về tất cả các khía cạnh pháp lý của công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Đề tài Khóa luận “Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự” này, được mong là một công trình nghiên cứu có giá trị bổ sung, phản biện và là nơi tổng hợp khái quát trong việc nghiên cứu công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự cho các công trình nghiên cứu ở trên. 7 3. Mục tiêu của đề tài Đề tài được nghiên cứu với mong muốn làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng quy định pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Khảo sát, đối chiếu việc áp dụng các quy phạm pháp luật này vào trong thực tế, để chỉ ra được nguyên nhân của những mặt hạn chế, yếu kém trong áp dụng. Qua đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất các nội dung cần xem xét nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật dân sự trong vấn đề này, cải thiện nhận thức và áp dụng chúng một cách thống nhất trong thực tiễn. 4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 4.1. Cách tiếp cận Cách tiếp cận của tác giả khi thực hiện đề tài này là nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn: Thứ nhất, tiếp cận với những quy định của pháp luật Việt Nam về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Thứ hai, tiếp cận với những quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm hủy hoặc không hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, tiếp cận các báo cáo của Tòa án nhân dân về tổng kết công tác hàng năm. Thứ ba, tiếp cận những bài viết liên quan trên sách, tạp chí, các công trình nghiên cứu, luận án, luận văn và mạng internet để có sự liên kết giữa lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu quy định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự các thời kì ở Việt Nam, trong phần Quá trình hoàn thiện và phát triển quy định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Chương 1. - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ nội dung bài nghiên cứu để phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện 8 hành mà cụ thể là Bộ luật Tố tụng dân sự về các quy định có liên quan. Đồng thời, khái quát nội dung cơ bản của từng vấn đề đang nghiên cứu. - Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu, so sánh, đối chiếu pháp luật Việt Nam qua từng thời kì cũng như so sánh với pháp luật một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp… chủ yếu trong toàn bộ Chương 2. Qua đó tiếp thu có chọn lọc những ưu điểm của pháp luật nước ngoài phù hợp với Việt Nam, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. + Phương pháp bình luận án được sử dụng chủ yếu tại Chương 2 để làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật trên cơ sở đó kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 4.3. Phạm vi nghiên cứu Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là một đề tài bao gồm nhiều vấn đề pháp lý, trong phạm vi giới hạn về thời gian cũng như khả năng của tác giả, đề tài này chỉ được giới hạn nghiên cứu trong một số vấn đề, bao gồm (1) quyền thay đổi ý kiến của đương sự sau hòa giải thành; (2) điều kiện phải thỏa thuận toàn bộ vụ án; (3) công nhận sự thỏa thuận trong trường hợp có đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải; cuối cùng (4) đối với những vấn đề về hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận, tác giả sẽ nghiên cứu và trả lời cho câu hỏi liệu rằng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có thể bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hay không. Những khía cạnh khác, không có dịp nghiên cứu trong đề tài này, tác giả mong muốn sẽ có cơ hội nghiên cứu tại những đề tài khác, tại một thời điểm phù hợp hơn. 5. Bố cục và nội dung cơ bản của Khóa luận Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Khóa luận bao gồm 02 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Những vấn đề chung về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn đoạn chuẩn bị xét xử sở thẩm vụ án dân sự. Chương 2. Thực trạng áp dụng các quy định về công nhận thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 9 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Có nhiều phương thức để giải quyết các tranh chấp, bất đồng trong đời sống xã hội, trong đó, hòa giải được đánh giá là phương thức văn minh, nhiều ưu điểm, được hầu hết các nước trên thế giới khuyến khích áp dụng1. Tại Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp dân sự thông qua hòa giải được chú trọng, trên cơ sở đó, nhiều đạo luật liên quan đã được ban hành. Trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS), thiết chế hòa giải gồm hòa giải trong Tòa án và hòa giải ngoài Tòa án. Nếu tại thiết chế hòa giải ngoài Tòa án, kết quả hòa giải được Tòa án xem xét công nhận khi đương sự có yêu cầu thì tại thiết chế hòa giải trong Tòa án, pháp luật quy định, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (CBXXST) mà các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Tòa án xem xét công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (CNSTTCCĐS). Để làm rõ những quy định trên, trong phần này ta sẽ tìm hiểu những vấn đề chung về CNSTTCCĐS trong giai đoạn CBXXST VADS. 1.1.1. Khái niệm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự BLTTDS quy định hòa giải là một nguyên tắc trong tố tụng dân sự (TTDS), theo đó, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án2. Cụ thể hóa nguyên tắc trên, tuy BLTTDS dành nhiều điều luật, ở nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau, bao gồm giai đoạn CBXXST, để tạo điều kiện tối đa cho các bên thỏa thuận và CNSTTCCĐS, nhưng vẫn chưa có một quy định nào định nghĩa rõ ràng về thuật Nguyễn Hòa Bình (2018), “Đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13, tr. 1. 1 2 Điều 10 BLTTDS. 10 ngữ CNSTTCCĐS, cũng như định nghĩa về việc CNSTTCCĐS trong giai đoạn CBXXST vụ án dân sự (VADS). Do đó, việc rút ra khái niệm này là cần thiết.  Dưới góc độ ngữ nghĩa tiếng Việt Trong từ điển tiếng Việt thì: công nhận có nghĩa cho là phải, là đúng, là hợp lý3. Trong ngữ cảnh này có thể hiểu: cho là có nghĩa là thừa nhận4; phải được hiểu là đúng, là phù hợp5; đúng được hiểu là phù hợp với điều có thật, phù hợp với phép tắc, những điều quy định6; hợp lý là đúng với lẽ phải7. Vậy, công nhận là thừa nhận một điều gì đó là có thật, phù hợp với phép tắc, những điều quy định và phù hợp với lẽ phải. Thỏa thuận là đi tới thống nhất sau khi cân nhắc, thảo luận8; thống nhất là làm cho phù hợp với nhau, nhất trí với nhau, không mâu thuẫn nhau9. Do đó, thỏa thuận là đã đi tới sự nhất trí với nhau, không mâu thuẫn nhau sau khi cân nhắc, thảo luận. Từ đó, ta rút ra được công nhận sự thỏa thuận có nghĩa là thừa nhận sự thống nhất ý chí giữa các bên là có thật, phù hợp với phép tắc, những điều quy định và phù hợp với lẽ phải. Các bên thống nhất ý chí là các bên đã nhất trí với nhau, không mâu thuẫn nhau. Cũng theo từ điển tiếng Việt, đương sự là người, là đối tượng trong một sự việc nào đó được đưa ra giải quyết10. Theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thì đương sự được hiểu là: “cá nhân, pháp nhân tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn, hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong nhóm người tham gia tố tụng dân sự tại Tòa 3 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021. 4 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021. 5 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021. 6 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021. 7 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021. 8 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021. 9 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021. 10 http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/%C4%90%C6%B0%C6%A1ng_s%E1%BB%B1, truy cập ngày 08/6/2021. 11 án nhân dân trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động”11. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là một giai đoạn của quá trình tiến hành tố tụng, bao gồm nhiều hoạt động như thông báo thụ lý vụ án; xác minh thu thập chứng cứ; mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; giải quyết các yêu cầu về thủ tục tố tụng của đương sự; tống đạt văn bản tố tụng; ra các quyết định tố tụng. Từ những cơ sở trên, về mặt ngữ nghĩa tiếng Việt thì công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là thừa nhận sự thống nhất ý chí, không còn mâu thuẫn nhau giữa các đương sự là có thật, phù hợp với phép tắc, những điều quy định và phù hợp với lẽ phải. Các bên thống nhất ý chí là các bên đã nhất trí với nhau, không mâu thuẫn nhau. Việc công nhận này phải được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.  Dưới góc độ khoa học pháp lý Không giống với việc công nhận sự thỏa thuận khác, CNSTTCCĐS có những đặc điểm riêng biệt: thứ nhất, đây phải là sự thỏa thuận của các đương sự trong VADS12; thứ hai, việc công nhận phải do Tòa án thực hiện và phải theo những trình tự nhất định; thứ ba, quyết định công nhận phải được đảm bảo thi hành bởi quyền lực nhà nước13. Từ đó, tác giả Lương Thị Thu Hà đã đưa ra định nghĩa CNSTTCCĐS nói chung như sau: “công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vụ án dân sự là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm thừa nhận việc thống nhất ý chí của các đương sự về việc giải quyết vụ án dân sự. Việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự phải được thể hiện bằng một văn bản pháp lý có giá trị bắt buộc, 11 Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2005), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, tr. 278. 12 Các đương sự trong VADS tồn tại sự tranh chấp nên trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết VADS theo quy định để không còn tranh chấp nữa. 13 Bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành (Điều 19 BLTTDS). 12 theo thủ tục luật định, được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước”14. Có thể thấy, quan điểm nêu trên phù hợp về mặt ngữ nghĩa tiếng Việt như nêu ra được việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vụ án dân sự là việc thừa nhận thống nhất, nhất trí, không mâu thuẫn nhau giữa các đương sự, sự thỏa thuận này phù hợp với các phép tắc, quy định, và lẽ phải. Đồng thời, quan điểm trên cũng tương đồng với một số quy định của pháp luật liên quan như việc công nhận phải do Tòa án thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định, cũng như việc đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do đó, định nghĩa này có giá trị tham khảo rất cao. Tuy nhiên, đây là khái niệm CNSTTCCĐS VADS trong tất cả các giai đoạn tố tụng (cái chung) nên đối với việc công nhận sự thỏa thuận trong giai đoạn CBXXST (cái riêng), khái niệm nêu trên (cái chung) chỉ bao quát một cách đại khái, không biểu hiện được những tính chất, đặc tính mà chỉ có giai đoạn CBXXST (cái riêng) mới có. Như việc CNSTTCCĐS VADS trong giai đoạn CBXXST phải được diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và phải thông qua hoạt động hòa giải. Từ những phân tích ở trên, tác giả đưa ra khái niệm: công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là hoạt động do Tòa án tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nhằm thừa nhận việc các đương sự đã đạt được thỏa thuận, thống nhất với nhau về giải quyết vụ án dân sự. Việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm phải thông qua hoạt động hòa giải, phải được thể hiện bằng một văn bản pháp lý có giá trị bắt buộc, theo thủ tục do luật định, được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. 1.1.2. Đặc điểm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Việc CNSTTCCĐS trong giai đoạn CBXXST đã thể hiện được vai trò, trách nhiệm của Tòa án khi phải “tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án”, và chức năng “xét xử” của Tòa án lúc này không Lương Thị Thu Hà (2016), Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 10. 14 13 cần nữa. Việc CNSTTCCĐS mang tính chất “hành chính”, thủ tục để việc thi hành thỏa thuận của đương sự được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Với bản chất trên, việc CNSTTCCĐS trong giai đoạn CBXXST có một số thuộc tính pháp lý cơ bản để phân biệt với một số hành vi pháp lý khác.  Thứ nhất, là hoạt động do Tòa án nhân dân tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, mang tính quyền lực nhà nước Thẩm quyền của Tòa án trong việc CNSTTCCĐS bắt nguồn từ nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Tòa án được quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Theo đó, Tòa án nhân dân có vị trí pháp lý là một trong những hệ thống cơ quan cấu thành bộ máy nhà nước, là trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta. Với tư cách là cơ quan tài phán, Tòa án nhân dân thực hiện một trong ba quyền lực nhà nước là quyền tư pháp, thay mặt Nhà nước giải quyết nhiều tranh chấp pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất và cũng là phương tiện hữu hiệu nhất để các chủ thể pháp luật bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp của mình.15 Thực hiện quyền tư pháp của Tòa án đồng thời cũng được thể hiện trong việc chỉ có Toà án mới có thẩm quyền CNSTTCCĐS. Đồng thời, CNSTTCCĐS trong giai đoạn CBXXST được tiến hành trong giai đoạn CBXXST. Giai đoạn CBXXST bắt đầu kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án và kết thúc khi Tòa án ra một trong các quyết định sau đây: quyết định CNSTTCCĐS, quyết định đình chỉ giải quyết VADS, quyết định đưa vụ án ra xét xử.  Thứ hai, là nhằm thừa nhận việc thống nhất ý chí của các đương sự về việc giải quyết vụ án dân sự Trong quá trình giải quyết VADS, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Tòa án có trách nhiệm tiến hành và tạo điều kiện cho các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Việc đương sự thỏa thuận, thương lượng giải quyết trong mọi giai đoạn TTDS, bao gồm giai đoạn CBXXST luôn được Nhà nước khuyến khích, bởi khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án, không chỉ có nội dung tranh chấp mà mâu Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2020), Luật Hiến pháp Việt Nam – Đề cương môn học – Câu hỏi ôn tập và những tình huống, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 261. 15 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan