Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khoá luận các biện pháp chế tài do vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong công ước viê...

Tài liệu Khoá luận các biện pháp chế tài do vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong công ước viên 1980

.PDF
103
1
96

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT QUỐC TẾ -----------***------------ TRẦN THỊ THANH THƯƠNG MSSV: 1753801012196 CÁC BIỆN PHÁP CHẾ TÀI DO VI PHẠM NGHĨA VỤ GIAO HÀNG TRONG CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Niên khóa: 2017 - 2021 Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thu Thảo TP.Hồ Chí Minh – Năm 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học tận tình của ThS. Nguyễn Thị Thu Thảo. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực. Những thông tin, số liệu, bản án, được lấy từ nhiều nguồn khác nhau phục vụ việc phân tích đề tài. Ngoài ra, trong khóa luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá, báo cáo cũng như quan điểm của các tác giả khác, cơ quan, tô chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc theo đúng quy định. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luân trong văn của mình. TP. Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 07 năm 2021 Tác giả Trần Thị Thanh Thương DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Luật Thương mại 2005 LTM Bộ luật Dân sự 2015 BLDS Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Hợp đồng MBHHQT Công ước Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế CISG MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM NGHĨA VỤ GIAO HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ............................................................................................................. 7 1.1 Khái niệm và đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. ....... 7 1.1.1 Khái niệm ............................................................................................... 7 1.2.2 Đặc điểm............................................................................................... 11 1.2 Vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................................................................................... 15 1.2.1 Nghĩa vụ giao hàng trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ......... 15 1.2.2 Vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................................................................................... 17 1.3 Các biện pháp chế tài áp dụng do vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong Công ước Viên 1980 ........................................................................................ 18 1.3.1 Khái niệm về biện pháp chế tài ............................................................ 18 1.3.2 Các hình thức chế tài do vi phạm nghĩa vụ giao hàng ......................... 22 1.3.3 Các chức năng của việc áp dụng chế tài ............................................... 23 1.3.4 Các nguyên tắc khi áp dụng các chế tài ............................................... 24 Kết luận Chương I .......................................................................................... 27 CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG CHẾ TÀI DO VI PHẠM NGHĨA VỤ GIAO HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 ......................................... 28 2.1. Quy định và thực tiễn áp dụng về nghĩa vụ giao hàng trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quôc tế theo Công ước viên 1980 .................................. 28 2.1.1. Quy định về nghĩa vụ giao hàng của bên bán .................................. 28 2.1.2. Quy định về vi phạm nghĩa vụ giao hàng ........................................ 35 2.2. Các chế tài áp dụng do vi phạm nghĩa vụ giao hàng của bên bán trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước viên 1980 ................ 43 2.2.1. Tổng quan về các chế tài được thực hiện bởi bên mua ....................... 43 2.2.2. Buộc thực hiện nghĩa vụ ...................................................................... 45 2.2.3. Hủy bỏ hợp đồng ................................................................................. 54 2.2.4. Bồi thường thiệt hại ............................................................................. 64 2.2.5. Tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ............................................................ 73 2.2.6. Yêu cầu giảm giá ................................................................................ 75 2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về chế tài do vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng theo pháp luật Việt Nam ......................................................... 78 Kết luận Chương II......................................................................................... 88 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 91 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, nền kinh tế thế giới đã và đang chịu tác động mạnh mẽ của xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế - thương mại1. Công cuộc đẩy mạnh phát triển thương mại quốc tế dần trở thành một xu thế tất yếu được đặt ra tại nhiều quốc gia. Sự phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế đặt ra một yêu cầu lớn về việc xây dựng một văn bản luật chung thống nhất để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT)2. Đó là một trong những lý do đã thúc đẩy sự ra đời của Công ước Liên Hợp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG), được soạn thảo bởi Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL), được thông qua tại Vienna (Austria) ngày 11/4/1980. Đây được xem là một văn bản pháp luật thống nhất về lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế. Tính đến ngày 1/1/2020, có 96 nước và vùng lãnh thổ đã thông qua CISG. CISG được xem là một trong những pháp luật quốc tế thống nhất thành công nhất, đã phát huy vai trò tích cực để thúc đẩy hoạt động ngoại thương của nhiều quốc gia kể từ khi ra đời. Tham gia vào CISG từ cuối năm 2015, Việt Nam có sự phát triển vượt bậc về hoạt động xuất nhập khẩu. Từ 2016 đến nay, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên tục thặng dư với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất siêu hàng hóa của nước ta đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng lên 6,5 tỷ USD; năm 2019 đạt 10,9 tỷ USD và năm 2020 ước tính đạt 19,1 tỷ USD. 3 Bùi Thanh Tuấn, “Một số xu hướng chuyển dịch trật tự kinh tế thế giới hiện nay”, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/821542/mot-so-xu-huongchuyen-dich-trat-tu-kinh-te-the-gioi-hien-nay.aspx, truy cập lần cuối ngày 4/7/2021. 2 Trước đó, các quốc gia đã có nỗ lực để xây dựng luật thống nhất áp dụng cho hợp đồng MBHHQT kể từ những năm 30 của thế kỷ XX. Kết quả của các nỗ lực đó là sự ra đời của hai Công ước La Haye năm 1964. Tuy nhiên, hai Công ước này rất ít được sử dụng trên thực tế bởi nhiều lý do khác nhau. Xem thêm: Lịch sử và nội dung cơ bản của Công ước Vienna 1980, Báo Chính phủ, xem tại: http://baochinhphu.vn/Hoidap/Lich-su-va-noi-dung-co-ban-cua-Cong-uoc-Vienna-1980/293717.vgp , truy cập lần cuối ngày 04/07/2021. 3 Tổng cục thống kê, “Xuất, nhập khẩu năm 2020: Nỗ lực và thành công”, https://www.gso.gov.vn/du-lieuva-so-lieu-thong-ke/2021/01/xuat-nhap-khau-nam-2020-no-luc-va-thanh-cong/, truy cập lần cuối ngày 04/07/2021. 1 2 Năm 2020, Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng dương, đạt hơn 2,9% trong năm 2020. Đạt được thành tựu này là nhờ tư duy hội nhập cũng từng bước được điều chỉnh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Việt Nam không chỉ quan tâm tới tăng trưởng xuất khẩu hay thu hút vốn đầu tư, mà đã hướng nhiều hơn đến tham gia xây dựng và điều chỉnh “luật chơi” trong thương mại – đầu tư quốc tế, cũng như mức độ tham gia và hiệu quả mang lại đối với doanh nghiệp và người dân trong nước.4 Việt Nam gia nhập CISG từ đó CISG điều chỉnh các hợp đồng mua bán HHQT đã giúp cho thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trở nên thuận lợi hơn. Có thể thấy, CISG dành ra 30 điều (từ Điều 30 đến Điều 52, và Điều 71 đến Điều 78) quy định về nghĩa vụ của bên bán cũng như các chế tài mà bên mua có thể áp dụng, chiếm gần 30% tổng số lượng các quy định trong CISG. Bên cạnh đó, theo thống kê5, các vụ tranh chấp vào năm 2020, có đến hơn 25% số vụ là tranh chấp về các Điều 30 đến Điều 52, là các điều khoản quy định về nghĩa vụ giao hàng và các chế tài áp dụng. Dễ nhận thấy rằng các chế tài áp dụng khi nghĩa vụ giao hàng bị vi phạm trong CISG là một nội dung chủ yếu được quan tâm, và thực tế các tranh chấp về vấn đề này cũng rất phổ biến. Do đó, việc chuẩn bị kiến thức về các chế tài khi vi phạm nghĩa vụ giao hàng là rất cần thiết đối với các thương nhân Việt Nam khi tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế được điều chỉnh bởi CISG. Vậy cụ thể, các chế tài khi bên bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng MBHHQT theo CISG là gì và các điều kiện để áp dụng các chế tài này ra sao. Đồng thời, các chế tài này có gì khác biệt so với các quy định hiện hành theo pháp luật Việt Nam là vấn đề quan trọng, cần được nghiên cứu và làm rõ. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn để tìm hiểu đề tài: “Các Biện Pháp Chế Tài Do Vi Phạm Nghĩa Vụ Giao Hàng Trong Công Ước Viên 1980” để làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu HA.NV, “Việt Nam điều chỉnh "luật chơi" về thương mại quốc tế”, https://dangcongsan.vn/kinh-te/viet-namdieu-chinh-luat-choi-ve-thuong-mai-quoc-te-573196.html, truy cập lần cuối ngày 04/07/2021. 5 IICL,“CISG cases by Article (2020)”, https://iicl.law.pace.edu/sites/default/files/scholarly-writings/metachart_6.pdf, truy cập lần cuối ngày 04/07/2021. 4 3 Trong thời gian qua, các nội dung nghiên cứu về các biện pháp chế tài do vi phạm nghĩa vụ theo CISG không phải là vấn đề quá mới. Tuy nhiên, liên quan đến việc nghiên cứu các biện pháp chế tài do vi phạm nghĩa vụ giao hàng theo CISG dường như vẫn còn khá ít, chủ yếu là nhắc đến như một phần nhỏ trong khi nghiên cứu các quy định chung về các biện pháp chế tài theo CISG. Cụ thể có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau: - Peter Huber và Alastair Mullis (2007), The CISG-a new textbook for students and practioners, Sellier European publisher. Cuốn sách được trình bày theo cầu trúc của CISG nhằm trình bày, giải thích các quy định của CISG một cách cơ bản, giúp cho người đọc dễ nắm bắt hơn các nội dung của CISG. Đồng thời phân tích ý kiến, quan điểm của nhiều học giả về các vấn đề liên quan từ đó rút ra quan điểm của tác giả về từng vấn đề. Tuy nhiên, vấn đề vi phạm nghĩa vụ giao hàng và các chế tài chỉ là một phần nội dung được đề cập trong sách. Bên cạnh đó, sách không đề cập đến sự so sánh giữa quy định giữa CISG với Việt Nam. - Sách “101 câu hỏi - đáp về công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)” được công bố bởi Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên canh phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC). Sách không trình bày theo cách phân tích từng điều khoản trong CISG, mà trình bày dưới dạng câu hỏi-câu trả lời. Mỗi câu hỏi là một vấn đề có thể có liên quan đến một hoặc nhiều điều khoản. Đồng thời, sách cũng có đối chiếu với pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề về các chế tài thì không được bàn luận đầy đủ mọi chế tài. - Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, Ngô Nguyễn Thảo Vy (2017) về “Quyền buộc thực hiện hợp đồng theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Một số đề xuất cho Việt Nam” đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 07/2017. Bài viết này đi sâu phân tích biện pháp chế tài buộc thực hợp đồng theo quy định của CISG. Tác giả có so sánh và đề xuất các kiến nghị cho Việt Nam. Tuy nhiên, bài viết không bàn luận đến các chế tài khác trong CISG. 4 - Nguyễn Quốc Trưởng (2020) về “Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng thương mại” được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử. Bài viết bàn luận và phân tích về các chế tài áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, không phân tích đến các chế tài được quy định trong CISG. - Phan Thị Thanh Thùy, “So sánh các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong LTM 2005 và Công trớc Viên 1980”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 2014, Số 3, Tập 30. Bài viết có tập trung so sánh những quy định của Luật Thương mại 2005 và CISG về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phân tich các chế tài trong Luật Thương mại 2005 và trong CISG. Tuy nhiên, bài biết lại không phân tích rõ về các quy định về chế tài trong CISG. - Võ Sỹ Mạnh, “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam", Luận án Tiến sĩ Luật học Trường Đại học Luật TPHCM, 2015. Luận án này chủ yếu nghiên cứu và phân tích chi tiết vấn đề vi phạm cơ bản hợp đồng. Luận án cũng có phân tích các chế tài nhưng chỉ đề cập hai chế tài là hủy hợp đồng và yêu cầu giao hàng thay thế. Về tổng quan, có thể thấy hiện tại chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích về các biện pháp chế tài khi vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong CISG, đồng thời so sánh và đưa ra đề xuất đối với pháp luật Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Khóa luận là làm rõ các vấn đề lý luận chung về nghĩa vụ giao hàng của bên bán, cũng như là các chế tài cho việc vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng nói chung. Sau đó, Khóa luận tập trung phân tích các cơ sở pháp lý về các chế tài trong CISG, cũng như là thực tiễn áp dụng các chế tài trong giải quyết tranh chấp. Từ đó, đưa ra các đánh giá, nhận định hợp lý về việc áp dụng các chế tài khi có vi phạm, nhằm tăng cường hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích bên bị vi phạm đồng thời cũng cân bằng lợi ích các bên trong quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở đó so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam để đề xuất một số kiến nghị, rút kinh nghiệm cho việc áp dụng các quy định của CISG dành cho doanh 5 nghiệp Việt Nam. Đồng thời cũng đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật thương mại hàng hóa trong nước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Mục tiêu của đề tài là làm rõ các quy định của CISG về các biện pháp chế tài trong trường hợp bên bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng, đồng thời có so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra sự khác nhau, cũng như các vướng mắc còn tồn đọng theo quy định của pháp luật Việt Nam về các vấn đề liên quan. Từ đó, đề xuất kiến nghị hoàn thiện. Trên cơ sở mục tiêu chung, tác giả cũng đặt ra các mục tiêu cụ thể vào những đối tượng nghiên cứu cụ thể như sau: - Tìm hiểu nghĩa vụ giao hàng của bên bán theo CISG; - Tìm hiểu cơ sở để áp dụng các chế tài, bao gồm các yếu tố về hành vi vi phạm, mức độ vi phạm, nghĩa vụ kiểm tra, nghĩa vụ thông báo theo CISG; -Tìm hiểu điều kiện áp dụng từng biện pháp chế tài, cũng như là điều kiện áp dụng đồng thời các biện pháp chế tài theo CISG, và thực tiễn áp dụng các quy định của CISG; -Tìm hiểu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam về các chế tài có thể được áp dụng khi bên bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng, cũng như tìm hiểu các hạn chế theo pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị sửa đổi, phù hợp. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về nghĩa vụ giao hàng, cũng như các chế tài áp dụng và các điều kiện để áp dụng các chế tài khi bên bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong CISG và pháp luật Việt Nam. Trong phạm vi nêu trên, đề tài sẽ không nghiên cứu đến chế tài khi bên thứ ba vi phạm nghĩa vụ giao hàng, cũng không nghiên cứu đến các trường hợp miễn trách đối với bên thứ ba. 5. Phương pháp nghiên cứu 6 Tác giả sử dụng các phương pháp chủ yếu là phương pháp phân tích để nghiên cứu các quy định, yêu cầu của CISG. Phương pháp liệt kê các trường hợp để nêu lên các ví dụ điển hình. Phương pháp so sánh khi phân biệt các quy định tương đồng trong CISG, cũng như so sánh quy định chế tài của pháp luật Việt Nam với quy định các chế tài trong CISG. Phương pháp bình luận để đưa ra các đề xuất nhằm và kiến nghị, cũng như để phân tích các quyết định của các cơ quan xét xử. Phương pháp quy nạp, tổng hợp để đưa ra các kết luận, đánh giá ở cuối mỗi chương và cuối đề tài. Các phương pháp này được được vận dụng một cách phối hợp với nhau trong toàn Khóa luận, không có sự tách biệt giữa các phương pháp. 6. Bố cục tổng quát của khóa luận Khóa luận tốt nghiệp bao gồm các phần sau: PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM NGHĨA VỤ GIAO HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ. Ở chương này, tác giả trình bày các các vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các biện pháp chế tài áp dụng do vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong Công ước Viên 1980. CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG CHẾ TÀI DO VI PHẠM NGHĨA VỤ GIAO HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980. Trong chương này, tác tác giả phân tích về các quy định trong CISG về nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng MBHHQT, các chế tài áp dụng do vi phạm nghĩa vụ giao hàng của bên bán. Đặc biệt, tác giả sẽ làm rõ các điều kiện yêu cầu của bên mua khi thực hiện các chế tài theo CISG. Ngoài ra, tác giả cũng sẽ so sánh các quy định của CISG với pháp luật Việt Nam, và đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định về chế tài do vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. KẾT LUẬN CHUNG. 7 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM NGHĨA VỤ GIAO HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ 1.1 Khái niệm và đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. 1.1.1 Khái niệm Các giao dịch thương mại quốc tế được thực hiện thông qua hợp đồng thương mại quốc tế. Hay nói cách khác hơn, hợp đồng thương mại quốc tế (hợp đồng TMQT) là công cụ pháp lý không thể thiếu trong các giao dịch kinh doanh quốc tế6. Về tổng quan, hợp đồng thương mại quốc tế có thể hiểu, đây là sự thỏa thuận giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ liên quan đến các lĩnh vực của thương mại quốc tế7. Hợp đồng thương mại quốc tế có rất nhiều loại trên thực tế (như Hợp đồng MBHHQT, hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng, hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế,…), trong đó, phổ biến và thường thấy đó là Hợp đồng MBHHQT (Hợp đồng MBHHQT). Dưới góc độ ngữ nghĩa, Hợp đồng MBHHQT được tiếp cận có sự khác nhau ở từng hệ thống pháp luật, cũng như theo các nhà nghiên cứu. Về mặt tổng quan, Hợp đồng MBHHQT không có quá nhiều khác biệt so với hợp đồng mua bán nội địa thông thường, theo đó, đều là thỏa thuận được xác lập giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, so với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, đặc trưng có thể thấy của Hợp đồng MBHHQT đó là “tính quốc tế”, đây cũng là tiêu chí để phân biệt được quy định trong các công ước quốc tế, cũng như pháp luật của nhiều quốc gia. Điều 55 Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh (Sale of Goods Act 1979) quy định: Hợp đồng MBHHQT là hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các bên có trụ sở thương mại (nếu không có trụ sở thương mại thì là nơi cư trú) nằm trên lãnh thổ ở các nước khác nhau và thỏa mãn các điều kiện sau: (a) Hợp đồng bao gồm mua bán hàng hóa, mà tại thời điểm ký kết hợp đồng, hàng hóa được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác; (b) Chào hàng hoặc Trường Đại học Luật TP. HCM (2015), Giáo trình Luật thương mại quốc tế - Phần 2, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 54. 7 Trường Đại học Luật TP. HCM, tlđd (6), tr. 60. 6 8 chấp nhận chào hàng được lập trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau; hoặc (c) Việc giao hàng được thực hiện trong lãnh thổ quốc gia khác với lãnh thổ quốc gia chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng8. Như vậy, theo pháp luật Anh Quốc, Hợp đồng MBHHQT, trước hết, là hợp đồng mua bán hàng hóa, tức là hợp đồng theo đó bên bán chuyển giao hoặc đồng ý chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua để nhận tiền tương ứng gọi là giá cả. Để được xem là Hợp đồng MBHHQT, không chỉ đơn thuần là hợp đồng được giao kết giữa những bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau mà hoạt động mua bán hàng hóa được thực hiện từ lãnh thổ quốc gia này sang lãnh thổ quốc gia khác, chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng được lập trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Rõ ràng, quy định nói trên của Luật mua bán hàng hóa năm 1979 đã thể hiện việc sử dụng tiêu chí “trụ sở thương mại” làm cơ sở xác định một hợp đồng là Hợp đồng MBHHQT hay hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước.9 Theo Bộ nguyên tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) của UNIDROIT - Viện thống nhất về tư pháp quốc tế về hợp đồng thương mại quốc tế dù không định nghĩa về Hợp đồng MBHHQT, nhưng quy định về tính quốc tế của hợp đồng qua các tiêu chí như sau: dựa vào địa điểm kinh doanh hoặc nơi cư trú thường xuyên của các bên ở các quốc gia khác nhau, hoặc xác định một cách rộng hơn, tổng quát hơn là xác định hợp đồng có “mối liên hệ đáng kể với nhiều quốc gia”, hoặc “liên quan đến sự lựa chọn giữa luật pháp của các quốc gia khác nhau”, hoặc “ảnh hưởng đến lợi ích của thương mại quốc tế” để xác định tính quốc tế của một hợp đồng.10 Từ cách tiếp cận này, dễ thấy, tiêu chuẩn để xác định tính quốc tế được đưa ra quá rộng phần nào gây khó khăn cho việc xác định tính quốc tế trong Hợp đồng MBHHQT. Theo Điều 1 Công ước Lahaye 1964 (Convention relating to a Uniform Law on the International Sale Of Goods) về Luật thống nhất về MBHHQT thì tính Điều 55.12 Luật mua bán hàng hóa Anh, xem tại https://www.legislation.gov.uk/ukpga/1979/54, truy cập ngày 30/6/2021. 9 Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng MBHHQT và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam, luận án tiến sỹ, Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.21 10 UNIDROIT (2016), Unidroit principles of International Commercial Contract. 8 9 chất quốc tế được thể hiện ở các tiêu chí như: “Các bên giao kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hóa – đối tượng của hợp đồng được chuyển qua biên giới của một nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau”. Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không được sử dụng để xác định yếu tố nước ngoài trong Hợp đồng MBHHQT. Theo Công ước Lahaye 1964 thì yếu tố để xác định tính quốc tế của Hợp đồng MBHHQT chính là việc trụ sở thương mại của các bên kí kết hợp đồng nằm trên lãnh thổ các quốc gia khác nhau và việc thực hiện hợp đồng như giao hàng, chào hàng, chấp nhận chào hàng phải vượt qua lãnh thổ biên giới của một quốc gia.11 CISG cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về Hợp đồng MBHHQT. Tuy nhiên dựa vào Điều 1 của Công ước đã gián tiếp xác định phạm vi của Hợp đồng MBHHQT với cơ sở duy nhất để xác định là trụ sở thương mại của các bên phải đặt tại các quốc gia khác nhau12. Như vậy tiêu chí duy nhất mà CISG sử dụng để xác định một hợp đồng có là Hợp đồng MBHHQT hay không là yếu tố quốc tịch của chủ thể kinh doanh. Dưới góc độ quy phạm pháp luật tại Việt Nam, Hợp đồng MBHHQT được xác định dưới những tiêu chí khác biệt. Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) quy định tại Chương II về mua bán hàng hóa quốc tế, tuy nhiên, không có một điều luật nêu ra một cách trực tiếp khái niệm mua bán hàng hóa quốc tế. Thay vào đó, LTM 2005 đưa ra định nghĩa bằng hình thức liệt kê theo khoản 1 Điều 27: “Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.” Theo Điều 28, Điều 29, Điều 30 LTM 2005 về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hoá, chuyển khẩu hàng hoá thì có thể thấy các hoạt động này đều có sự dịch chuyển hàng hóa qua biên giới hải quan. Hai hay nhiều bên tham gia giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế có thể là cá nhân, tổ chức Nguyễn Thị Minh Nghĩa (2015), Hậu quả pháp lý của việc miễn trách theo CISG 1980 – so sánh với pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Luật TP.HCM, tr. 6. 12 Điều 1 (1) CISG. 11 10 Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài; có nơi cư trú hoặc trụ sở ở Việt Nam hoặc nước ngoài. Theo quy định của LTM 2005, hoạt động mua bán hàng hóa được coi là mua bán hàng háo quốc tế không phụ thuộc vào nơi cư trú, trụ sở hay quốc tịch. Luật Thương mại lấy tiêu chí vận chuyển hàng hóa qua biên giới để xác định quan hệ mua bán hàng hóa là mua bán hàng hóa quốc tế. Theo khoản 2 Điều 689 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:  Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài;  Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài;  Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó là tài sản ở nước ngoài. Có thể thấy Bộ luật dân sự sử dụng đến 03 tiêu chí để xác định “mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài” từ khái niệm “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” theo khoản 2 Điều 689 BLDS, 3 tiêu chí là chủ thể, đối tượng, sự kiện pháp lý phát sinh. Như vậy, rõ ràng việc xác định Hợp đồng MBHHQT theo LTM 2005 có phạm vi hẹp hơn so với việc xác định theo BLDS. Theo tác giả Võ Sỹ Mạnh, Hợp đồng MBHHQT là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế hay có yếu tố nước ngoài, theo đó một bên (bên bán) có nghĩa vụ giao hàng, chứng từ liên quan hàng hóa và quyền sở hữu về hàng hóa cho bên kia (bên mua) và bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng.13 Từ các phân tích trên, dù có sự đa dạng trong cách tiếp cận về Hợp Đồng MBHHQT, tuy nhiên, một cách khái Hợp đồng MBHHQT có thể hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên có trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau, theo đó bên bán 13 Võ Sỹ Mạnh (2015), tlđd (9), tr. 25. 11 có nghĩa vụ giao hàng, chuyển giao chứng từ liên quan và quyền sở hữu về hàng hóa cho bên mua, và bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng. 1.2.2 Đặc điểm Theo định nghĩa về Hợp đồng MBHHQT, có thể thấy rằng khái niệm này bao hàm tính thương mại và tính quốc tế. Tính thương mại được thể hiện ở chủ thể hợp đồng, đối tượng của hợp đồng, mục đích của hợp đồng. Đặc điểm về tính thương mại của Hợp đồng MBHHQT về cơ bản giống với đặc điểm chung của hợp đồng thương mại thông thường. Trong khi đó, tính quốc tế thể hiện ở yếu tố quốc tịch của chủ thể, sự dịch chuyển của hàng hóa, đồng tiền thanh toán, pháp luật áp dụng, cơ quan giải quyết tranh chấp là những đặc điểm riêng của Hợp đồng MBHHQT. 1.2.2.1 Về tính thương mại của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu được thiết lập giữa các thương nhân hoặc một trong hai bên phải là thương nhân. Theo khoản 1 Điều 6 của LTM 2005, “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh”, theo đó các thương nhân theo LTM 2005 là chủ thể được thành lập hợp pháp và hoạt động thương mại thường xuyên. Một số loại chủ thể pháp luật mặc dù được tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp, nhưng thay vì đăng ký kinh doanh (hay đăng ký doanh nghiệp) lại được đăng ký hoạt động tại cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, thì không phải là thương nhân, như các tổ chức luật sư, công chứng, thừa phát lại.14 Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Theo khoản 2 Điều 3 LTM 2005 quy định hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất, chúng ta dễ dàng nhận thấy hàng hóa chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình. Như vậy, các loại tài sản vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ...chưa được thừa nhận là hàng hóa. Tuy nhiên, không phải lúc nào hàng hóa đáp ứng các điều kiện nêu trên là trở thành đối tượng của Hợp Phan Huy Hồng (2012), “Một số vấn đề cơ bản về vấn đề áp dụng pháp luật đối với hoạt động thương mại”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 03(70)/2012, tr. 37. 14 12 đồng MBHHQT. Hàng hóa không được là loại hàng hóa cấm kinh doanh theo pháp luật của quốc gia của các bên, hay hàng hóa phải đáp ứng các điều kiện về hạn chế kinh doanh, hoặc kinh doanh có điều kiện. Theo Điều 2 CISG 1980, Công ước không điều chỉnh các Hợp đồng MBHHQT mà có đối tượng là các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi bên bán, vào bất cứ thời gian trước hoặc vào thời điểm giao kết hợp đồng, không biết hoặc không cần biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế; bán đấu giá; để thi hành luật hoặc để thực hiện các quyết định tư pháp; các cổ phiếu, trái phiếu, thương phiếu hoặc tiền tệ; hàng hóa là tàu thủy, máy bay và các thiết bị bay, tàu chạy trên đệm không khí; điện năng. Như vậy các hàng hóa không thuộc các đối tượng liệt kê trên đều có thể trở thành hàng hóa trong Hợp đồng MBHHQT. Mục đích của hợp đồng là sinh lợi. Bên mua mua hàng hóa để sản xuất kinh doanh, hay mua để bán lại cũng nhằm đến mục đích sinh ra lợi nhuận, bên bán cung cấp hàng hóa hiển nhiên cũng nhằm để thu về một lợi ích. Vì vậy, có thể nói, mục đích trong hợp đồng của bên bán cũng như bên mua, dù được mô tả trực tiếp hay gián tiếp, thì đó cũng là nhằm sinh lợi từ việc chuyển giao hàng, quyền sở hữu đối với hàng và thanh toán.15 Khi thiết lập một Hợp đồng MBHHQT, bên bán và bên mua luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc pháp lý” đối với nhau và trông đợi bên kia cùng thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, nhằm thỏa mãn lợi ích của các bên.16 Tóm lại, mục đích trong Hợp đồng MBHHQT được tạo nên bởi sự thỏa thuận của các bên có thể khác nhau tùy vào quan hệ, động cơ giao kết hợp đồng của các bên. Tuy nhiên, là hình thức pháp lý để thực hiện hoạt động thương mại nói chung, hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng nên về mặt bản chất có thể thấy được các bên thống nhất với nhau ý chí rằng mục đích các bên giao kết Hợp đồng MBHHQT là nhằm tìm kiếm lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác. Điều này tạo nên bản chất của Hợp đồng MBHHQT, khác với các loại hợp đồng khác, và là yếu tố cơ bản cho sự Bộ Công thương (2007), Một số điều ước đa phương thường được sử dụng trong thương mại quốc tế: Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm, tr. 68. 16 Nguyễn Bá Diến (2005), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.142. 15 13 tồn tại của Hợp đồng MBHHQT. Hợp đồng MBHHQT chỉ có thể được thiết lập vì lợi ích kinh tế mà các bên hướng tới từ hợp đồng này và cũng vì lợi ích kinh tế mà các bên thực hiện hợp đồng. Nói cách khác, không có lợi ích kinh tế sẽ không có sự giao kết và thực hiện Hợp đồng MBHHQT.17 1.2.2.2 Tính quốc tế của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Quốc tịch hoặc trụ sở của các chủ thể trong hợp đồng có tính quốc tế. Như đã phân tích, cách xác định một Hợp đồng MBHHQT luôn xuất hiện yếu tố “các bên có trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau”. Nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại thì sẽ tính đến trụ sở thương mại có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng và đối với việc thực hiện hợp đồng đó, các bên không có trụ sở kinh doanh thì sẽ dựa vào nơi cư trú của họ18, còn quốc tịch của cá nhân người đại diện của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định các yếu tố của hợp đồng. Như vậy, khi các bên có trụ sở kinh doanh trong cùng một quốc gia thì hợp đồng mua bán hàng hóa giữa họ sẽ mất đi tính quốc tế, đây sẽ là hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, không phải là một Hợp đồng MBHHQT. Thông thường có sự chuyển dịch quan biên giới của hàng hóa. Vì hàng hóa là đối tượng mua bán giữa các thương nhân ở quốc gia khác nhau, nên hàng hóa cần đi ra khỏi biên giới quốc gia bên bán hoặc biên giới hải quan của bên bán để đến được quốc gia bên mua. Tuy nhiên, có trường hợp hàng hóa không được dịch chuyển qua biên giới nhưng hợp đồng mua bán đó vẫn được xem là Hợp đồng MBHHQT. Khi bên bán và bên gia công hàng hóa cho bên mua ở cùng một quốc gia, khi đó, hàng hóa sẽ không phải được dịch chuyển qua biên giới để giao cho bên mua, mà hàng hóa sẽ được giao đến cho bên gia công, lúc này, hợp đồng mua bán hàng hóa giữa bên mua và bên bán vẫn là một Hợp đồng MBHHQT. Đồng tiền thanh toán trong Hợp đồng MBHHQT phải là ngoại tệ với một hoặc cả hai bên (trường hợp các bên chọn đồng tiền của bên thứ ba để xác định giá trị hàng hóa trong hợp đồng)19. Nếu như trong các hợp đồng mua bán hàng hóa Võ Sỹ Mạnh (2015), tlđd (9), tr. 28. Điều 10 CISG. 19 Trường Đại học Luật TP. HCM, tldđ (6), tr. 140. 17 18 14 trong nước, đồng tiền thanh toán phải là đồng Việt Nam thì trong Hợp đồng MBHHQT, vì các bên ký kết có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, hệ thống tiền tệ khác nhau, nên thông thường, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với ít nhất một bên ký kết. Các bên được tự do lựa chọn đồng tiền thanh toán, đó có thể là đồng tiền của nước bên bán, của nước bên mua hay của nước thứ ba. Nhìn chung, các bên thường lựa chọn các đồng tiền mạnh có thể tự do chuyển đổi như USD, Euro, DM, Yên Nhật, Bảng Anh...20 Tuy nhiên, cũng có trường hợp đồng tiền thanh toán đều là nội tệ của cả hai bên (ví dụ như các doanh nghiệp thuộc các nước trong cộng đồng Châu Âu sử dụng đồng Euro là đồng tiền chung). Các bên khi ký kết cần cẩn thận trong việc thỏa thuận lựa chọn đồng tiền thanh toán sao cho thuận tiện nhất đối với các bên và dễ dàng cho việc thanh toán cũng như hạn chế tối đa được rủi ro do sự biến động về tỉ giá ngoại tệ trên thị trường.21 Về pháp luật áp dụng, Hợp đồng MBHHQT chịu sự điều chỉnh bởi các nguồn luật khác nhau. Khác với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, Hợp đồng MBHHQT do có yếu tố nước ngoài, nên pháp luật điều chỉnh của hợp đồng không chỉ trong phạm vi đơn thuần pháp luật của một quốc gia. Do đó, khi ký kết các chủ thể có thể thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng hoặc phải tuân theo một hoặc nhiều nguồn luật khác nhau như Điều ước thương mại quốc tế, Tập quán thương mại quốc tế, pháp luật của quốc gia22. Về nguyên tắc, các bên sẽ tự do thỏa thuận nguồn luật áp dụng để điều chỉnh Hợp đồng MBHHQT theo nguyên tắc tự do thỏa thuận (trừ các trường hợp gây ảnh hưởng đến trật tự công). Trường hợp các bên không có thỏa thuận lựa chọn, việc lựa chọn pháp luật điều chỉnh để giải quyết tranh chấp sẽ được thực hiện theo các quy tắc tư pháp quốc tế trong việc lựa chọn hệ thống pháp luật để giải quyết tranh chấp.23 Về cơ quan giải quyết tranh chấp, dựa theo thỏa thuận các bên, tranh chấp có thể được giải quyết bởi Tòa án hay Trọng tài tại quốc gia của một trong Võ Sỹ Mạnh (2015), tlđd (9), tr. 26. Nguyễn Thị Minh Nghĩa, tlđd (11), tr. 11. 22 Trường Đại học Luật TP. HCM, tldđ (6), tr. 142, 143. 23 Trường Đại học Luật TP. HCM, tldđ (6), tr.143. 20 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan