Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khoá luận bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại việt nam và bài học kinh nghiệm của nước ngo...

Tài liệu Khoá luận bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại việt nam và bài học kinh nghiệm của nước ngoài cho việt nam

.PDF
68
1
62

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH LÊ NGUYÊN DẠ THẢO BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ TẠI VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC NGOÀI CHO VIỆT NAM KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH LÊ NGUYÊN DẠ THẢO BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ TẠI VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC NGOÀI CHO VIỆT NAM GVHD: THẠC SĨ ĐẶNG NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là Lê Nguyên Dạ Thảo, sinh viên khoa Luật Thương mại, khóa 42, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả của Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật – chuyên ngành Luật Dân sự với đề tài: “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam và bài học kinh nghiệm của nước ngoài cho Việt Nam”. Tôi xin cam đoan rằng Khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Đặng Nguyễn Phương Uyên – giảng viên khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Các thông tin, dữ liệu, luận điểm được trích dẫn đảm bảo đúng tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả khóa luận LÊ NGUYÊN DẠ THẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự CDĐL Chỉ dẫn địa lý Công ước Paris Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883 Dự thảo Dự thảo 2.0 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ ngày 17/11/2020 EU European Union (Liên minh châu Âu) EVFTA EU – Vietnam Free Trade Agreement (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU) Hiệp định TRIPS Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ năm 1994 Luật SHTT Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019 Luật số 84/2014 Act on Protection of Names of Specific Agricultural, Forestry and Fishery Products and Foodstuffs, Act No. 84 of June 25, 2014 (Luật Bảo hộ tên các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và thực phẩm cụ thể ngày 25/6/2014) MAFF Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries (Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản) Nghị định số 63/CP Nghị định số 63/CP của Chính phủ ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp Nghị định số 54/2000/NĐ-CP Nghị định số 54/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/10/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp Nghị định số 103/2006/NĐ-CP Nghị định số 103/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp Quy chế số 1151/2012 Regulation (EU) No 1151/2012 of the European Parliament and of the Council of 21 November 2012 on quality schemes for agriculture products and foodstuffs (Quy chế của Hội đồng châu Âu số 1151/2012 ngày 21/11/2012 về các chương trình chất lượng cho các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm) SHCN Sở hữu công nghiệp SHTT Sở hữu trí tuệ Thông tư BKHCN số 01/2007/TT- Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp Thỏa ước Madrid Thỏa ước Madrid về chống các chỉ dẫn sai lệch hoặc nhầm lẫn về nguồn gốc ngày 14/4/1891 Thỏa ước Lisbon Thoả ước Lisbon về bảo hộ tên gọi xuất xứ và đăng ký quốc tế tên gọi xuất xứ ngày 30/10/1958 UBND Ủy ban nhân dân MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ .............7 1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý và bảo hộ chỉ dẫn địa lý ......................................7 1.1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý ............................................................................7 1.1.2. Khái niệm bảo hộ chỉ dẫn địa lý ..............................................................11 1.2. Ý nghĩa của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý .......................................................13 1.2.1. Ý nghĩa đối với chủ thể quyền .................................................................13 1.2.2. Ý nghĩa đối với cộng đồng, xã hội ..........................................................15 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................16 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ .....................................................................................................................17 2.1. Điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý ......................................................17 2.1.1. Nguồn gốc địa lý của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý ..............................18 2.1.2. Danh tiếng, chất lượng và đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý....20 2.1.3. Các trường hợp không được bảo hộ chỉ dẫn địa lý..................................22 2.2. Xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý ...........................................................25 2.2.1. Phương thức xác lập quyền .....................................................................25 2.2.2. Chủ thể có quyền đăng ký .......................................................................26 2.2.3. Trình tự, thủ tục xử lý đơn .......................................................................27 2.3. Chủ sở hữu và vấn đề quản lý chỉ dẫn địa lý ............................................29 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................36 CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ ............37 3.1. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật Liên minh châu Âu ............................37 3.2. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật Nhật Bản .............................................43 3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam .................................................47 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ....................................................................................54 KẾT LUẬN ..............................................................................................................55 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong công cuộc phát triển đất nước, Việt Nam ngày càng đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế, tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng là một trong những nhiệm vụ xuyên suốt và đóng vai trò quan trọng hàng đầu nhằm đáp ứng các đòi hỏi đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế có tác động trực tiếp tới nền kinh tế, tạo cơ hội mở rộng thị trường cho các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển. Do đó, việc nâng cao uy tín, chất lượng hàng hóa, dịch vụ là một đòi hỏi cần thiết nhằm khẳng định vị thế vững chắc của Việt Nam trên thị trường quốc gia và quốc tế. Chỉ dẫn địa lý hay đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp là một trong những yếu tố đóng vai trò then chốt góp phần khẳng định, nâng cao chất lượng, danh tiếng và uy tín của sản phẩm. Với những sản phẩm cùng loại trên thị trường, người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn sản phẩm có nguồn gốc từ một khu vực địa lý nổi tiếng bởi những yếu tố đặc trưng mà nó mang lại. Hơn thế nữa, phần lớn người tiêu dùng sẵn sàng thanh toán nhiều tiền hơn cho việc sử dụng một sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Từ góc nhìn của những nhà sản xuất, chỉ dẫn địa lý còn là yếu tố thúc đẩy lợi nhuận, gia tăng năng suất và phát triển kinh tế. Nhìn chung, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đã, đang và sẽ là một hướng đi có hiệu quả trong việc bảo vệ tên tuổi, khẳng định chất lượng, nâng cao giá trị hàng hóa trong nước, đồng thời tạo cơ hội xúc tiến xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài. Để có thể khai thác tối đa những giá trị mà chỉ dẫn địa lý mang lại, cần có sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng. Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đã quy định tương đối đầy đủ các vấn đề liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số bất cập trong các quy định của pháp luật và một số hạn chế từ phía cơ quan quản lý nhà nước trên thực tế. Kéo theo đó là sự lúng túng của các chủ thể quyền trong quá trình xác lập, khai thác và quản lý chỉ dẫn địa lý. Trước các vấn đề đặt ra, nhận thấy rằng, cần có một công trình nghiên cứu để tìm hiểu, đánh giá một cách có hệ thống về vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý dưới góc độ lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý 1 tại Việt Nam và bài học kinh nghiệm của nước ngoài cho Việt Nam” cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nội dung liên quan đến sở hữu công nghiệp nói chung hay những vấn đề liên quan đến chỉ dẫn địa lý nói riêng đã được nghiên cứu bởi nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, bao gồm cả tài liệu trong và ngoài nước. Qua tìm hiểu và khảo sát đối với các công trình khoa học pháp lý, tác giả nhận thấy tình hình nghiên cứu cụ thể như sau: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ (Tái bản, có sửa chữa, bổ sung), Nguyễn Hồ Bích Hằng và Nguyễn Xuân Quang (chủ biên), Nxb. Hồng Đức. Giáo trình đã giới thiệu một cách khái quát về ngành luật sở hữu trí tuệ, đồng thời đi sâu vào việc phân tích những đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng. Dưới góc độ là công trình nghiên cứu một cách tổng quan về pháp luật sở hữu trí tuệ cho nên vấn đề chỉ dẫn địa lý chưa được các tác giả khai thác một cách tối đa. Bên cạnh đó, các tác giả cũng chưa đưa ra được những bất cập và hướng hoàn thiện đối với các quy định liên quan đến chỉ dẫn địa lý. Vũ Thị Hải Yến (2008), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội. Theo quan điểm của tác giả bài viết, luận án là công trình đầu tiên thực hiện, nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Nguyễn Thị Phương Thảo (2016), Xây dựng hệ thống kiểm soát độc lập để quản lý các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã hệ thống hóa được các cơ sở lý luận về quản lý và kiểm soát độc lập đối với chỉ dẫn địa lý. Trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng quản lý và kiểm soát chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam, tác giả đã đề xuất các giải pháp hình thành và triển khai hệ thống kiểm soát độc lập cho những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Ở công trình này, vấn đề bảo hộ chỉ dẫn 2 địa lý chỉ được tác giả trình bày một cách khái quát, đóng vai trò nền tảng cho việc nghiên cứu vấn đề quản lý và kiểm soát chỉ dẫn địa lý. Lê Việt Tuấn (2004), Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh – Khoa Luật Đại học Luật, Đại học Lund. Công trình đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý được nghiên cứu trên cơ sở so sánh với các quy định của Hiệp định TRIPS. Ngoài ra, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, công trình được nghiên cứu vào thời điểm chỉ dẫn địa lý vẫn còn là một đối tượng khá mới mẻ từ góc độ pháp lý cho đến góc độ nghiên cứu khoa học. Do đó, những quy định của pháp luật cũng như thực tiễn bảo hộ chỉ dẫn địa lý đã có nhiều sự khác biệt so với thời điểm hiện tại. Đặng Thị Hương Giang (2013), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho hàng nông sản theo pháp luật Việt Nam – So sánh với pháp luật Liên minh châu Âu, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Ở công trình này, tác giả đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho hàng nông sản. Dựa trên việc so sánh những quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật châu Âu về bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho hàng nông sản, tác giả có cơ sở đánh giá những điểm hạn chế và đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Nhìn chung, những kiến nghị mà tác giả đưa ra là kết quả của việc nghiên cứu các quy định pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Thực tiễn bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam chưa được tác giả chú trọng khai thác ở công trình này. Nguyễn Thị Thu Thủy (2007), Xây dựng chỉ dẫn địa lý cho hàng nông sản Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam. Thông qua việc hệ thống những quy định của pháp luật, tác giả đưa ra những đánh giá và đề xuất liên quan đến vấn đề xây dựng chỉ dẫn địa lý. Ở công trình này, chỉ dẫn địa lý được tác giả nghiên cứu dưới góc độ xây dựng và áp dụng đối với hàng hóa nông sản. Do đó, vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý không chiếm dung lượng quá nhiều trong phần nghiên cứu của tác giả. 3 Bùi Thị Hằng Nga, Nguyễn Minh Bách Tùng (2020), “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý: Yêu cầu của phát triển nông nghiệp bền vững”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 17 (417), tr. 50 – 56. Trong phạm vi bài viết, các tác giả đã trình bày một cách khái quát về chỉ dẫn địa lý, thực tiễn bảo hộ và sử dụng chỉ dẫn địa lý cho hàng nông sản tại Việt Nam. Đồng thời chỉ ra nguyên nhân và kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về bảo hộ, sử dụng chỉ dẫn địa lý cho nông sản. Công trình này tập trung nghiên cứu vào thực tiễn bảo hộ và sử dụng chỉ dẫn địa lý trên thực tế, do đó các quy định pháp luật có liên quan chưa được các tác giả chú trọng khai thác. Annette Kur, Sam Cockst (2007), “Nothing but a GI thing: Geographical Indications under EU Law”, Fordham Intellectual Property, Media and Entertainment Law Journal, Vol 17 No 4, page 999 – 1016. Dưới góc nhìn từ pháp luật châu Âu, các tác giả đã nghiên cứu một cách tổng quan những quy định của pháp luật về chỉ dẫn địa lý. Ngoài ra, các tác giả còn đề cập đến sự tương thích của pháp luật châu Âu với Hiệp định TRIPS về chỉ dẫn địa lý trong bài viết của mình. Jeongwook Suh, Alan MacPherson (2007), “The impact of geographical indication on the revitalisation of a regional economy: a case study of ‘Boseong’ green tea”, The Geographical Journal, Vol 34 (4), page 518 – 527. Công trình đã nghiên cứu về ảnh hưởng của chỉ dẫn địa lý đối với sự hồi sinh của nền kinh tế thông qua một chỉ dẫn cụ thể “Boseong” đối với sản phẩm chè xanh. Ở công trình này, chỉ dẫn địa lý được các tác giả nghiên cứu dưới một khía cạnh nhất định về sự ảnh hưởng đối với nền kinh tế khu vực. Các vấn đề pháp lý liên quan về bảo hộ chỉ dẫn địa lý không được các tác giả chú trọng khai thác. Tựu chung lại, hầu hết các công trình đã nghiên cứu một cách tổng quan về chỉ dẫn địa lý dưới góc nhìn lý luận và thực tiễn. Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã thể hiện những quan điểm riêng và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chỉ dẫn địa lý. Qua quá trình tìm hiểu và khảo sát, tác giả nhận thấy số lượng công trình nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý vẫn còn hạn chế. Bên cạnh đó, trải qua một khoảng thời gian, việc áp dụng các quy định pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý đã có nhiều thay đổi. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009 và 2019 nhằm phù hợp với tình hình thực tại của Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu các công trình, tác giả đã có cái nhìn tổng thể về vấn đề, từ đó có những định hướng cho công trình của mình một cách phù hợp. 4 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn hướng tới những mục đích quan trọng sau: Thứ nhất, đưa ra hệ thống những vấn đề mang tính lý luận về bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam; Thứ hai, làm rõ và đánh giá hiệu quả điều chỉnh của quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ chỉ dẫn địa lý; Thứ ba, đưa ra các gợi mở và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trên cơ sở lý luận, pháp luật và thực tiễn nghiên cứu về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong phạm vi của khóa luận tốt nghiệp, tác giả tập trung phân tích một cách tổng thể các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Những vấn đề bảo vệ quyền thông qua việc xác định, xử lý các hành vi xâm phạm đối với chỉ dẫn địa lý sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này. Tác giả chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019; Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp và Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp. Ngoài ra, tác giả còn liên hệ đến pháp luật của một số quốc gia như Nhật Bản và Liên minh châu Âu nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị khoa học và phù hợp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. 5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau nhưng chủ yếu bao gồm các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: Thứ nhất, phương pháp phân tích, đánh giá: Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt khóa luận. Tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích, đánh giá một 5 cách tổng quan và chuyên sâu về các vấn đề lý luận, các quy định pháp luật có liên quan về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Thứ hai, phương pháp tổng hợp: Đây cũng là phương pháp chủ đạo và xuyên suốt trong khóa luận. Phương pháp này được sử dụng để tổng hợp và rút ra kết luận về việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam. Thứ ba, phương pháp so sánh: Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh nhằm so sánh, đối chiếu thực trạng pháp luật Việt Nam với thực trạng pháp luật của một số quốc gia, khu vực trên thế giới (cụ thể là Nhật Bản và Liên minh châu Âu) về vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Trên cơ sở đó, đánh giá sự tương đồng, khác biệt và điểm tiến bộ để đưa ra gợi mở, kiến nghị cho pháp luật Việt Nam. 6. Bố cục tổng quát của khóa luận Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành ba chương, cụ thể như sau: CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ Chương 1 giới thiệu tổng quan về chỉ dẫn địa lý, trình bày những khái niệm về chỉ dẫn địa lý và bảo hộ chỉ dẫn địa lý, đồng thời phân tích ý nghĩa của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý nhằm làm cơ sở, nền tảng lý luận giúp hiểu rõ hơn những chương sau. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ Chương 2 tập trung phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Theo đó, có ba vấn đề pháp lý được làm rõ, bao gồm: (i) điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý; (ii) xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý; (iii) chủ sở hữu và vấn đề quản lý chỉ dẫn địa lý. Bên cạnh đó, tác giả còn tập trung làm rõ một số bất cập của quy định pháp luật nhằm làm cơ sở cho phần hoàn thiện pháp luật ở Chương 3. CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ Chương 3 liên hệ đến các quy định của hệ thống pháp luật châu Âu và pháp luật Nhật Bản nhằm rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời đưa ra những gợi mở, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. 6 CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý và bảo hộ chỉ dẫn địa lý 1.1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý Theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ (“SHTT”), đối tượng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm ba nhóm quyền là quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng1. Chỉ dẫn địa lý là một trong những đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp (“SHCN”), được ghi nhận trong các Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia. Dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” (“CDĐL”) được đề cập lần đầu tại Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp (“Công ước Paris”) dưới tên gọi “chỉ dẫn nguồn gốc” hoặc “tên gọi xuất xứ hàng hóa”. Mặc dù đã được đề cập là một trong các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp2 nhưng Công ước Paris vẫn chưa đưa ra được những định nghĩa cụ thể cho các khái niệm này. Mãi đến năm 1891 và 1958, hai thuật ngữ “chỉ dẫn nguồn gốc” và “tên gọi xuất xứ hàng hóa” mới lần lượt được định nghĩa tại Thỏa ước Madrid về chống các chỉ dẫn sai lệch hoặc nhầm lẫn về nguồn gốc ngày 14/4/1891 (“Thỏa ước Madrid”) và Thoả ước Lisbon về bảo hộ tên gọi xuất xứ và đăng ký quốc tế tên gọi xuất xứ ngày 30/10/1958 (“Thỏa ước Lisbon”). Kế thừa và phát triển Công ước Paris, Thỏa ước Madrid đã quy định rõ hơn về chỉ dẫn nguồn gốc. Chỉ dẫn nguồn gốc trong Thỏa ước Madrid phải là những chỉ dẫn chính xác về một quốc gia hoặc một địa điểm tại quốc gia đó – nơi hàng hóa được tạo ra. Trong trường hợp tồn tại sự lừa dối hoặc sai lệch trong chỉ dẫn nguồn gốc của sản phẩm, theo tinh thần của Thỏa ước, các sản phẩm sẽ bị xử lý dưới hình thức tịch thu3. Đến năm 1958, khi Thỏa ước Lisbon ra đời, CDĐL được đề cập dưới thuật ngữ “tên gọi xuất xứ hàng hóa”. Theo quy định của Thỏa ước Lisbon, tên gọi xuất xứ hàng hóa (i) là tên địa lý của một quốc gia, khu vực hoặc địa phương cụ thể; (ii) thông qua tên gọi xuất xứ hàng hóa, nguồn gốc hay nơi xuất xứ của sản phẩm Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Theo Điều 1 Công ước Paris năm 1883 thì các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp bao gồm patent, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ và chống cạnh tranh không lành mạnh. 3 Điều 1 Thỏa ước Madrid 1891 quy định về chỉ dẫn nguồn gốc: “Bất kỳ sản phẩm nào mang chỉ dẫn sai lệch và lừa dối mà qua đó, một trong số các thành viên của thỏa ước Madrid hoặc một địa điểm tại nước đó được chỉ dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp là nước hoặc địa điểm xuất xứ hàng nhập khẩu vào bất kỳ quốc gia thành viên nào của thỏa ước đều bị tịch thu.” 1 2 7 được xác định; (iii) tồn tại mối liên hệ chặt chẽ giữa chất lượng, tính chất đặc thù của hàng hóa với yếu tố môi trường địa lý4. Trải qua hơn 30 năm từ thời điểm Thỏa ước Lisbon có hiệu lực, ngày 15/04/1994, Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (“Hiệp định TRIPS”) ra đời, đánh dấu bước đột phá trong việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý5. Thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” đã được định nghĩa cụ thể tại Điều 22.1 của Hiệp định này6. Theo quy định tại Hiệp định TRIPS, khái niệm CDĐL đề cập đến ba nội dung: Thứ nhất, chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn chỉ ra được nguồn gốc của hàng hóa, có thể là lãnh thổ của một quốc gia hoặc khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó. Nếu như tên gọi xuất xứ hàng hóa phải là một tên gọi địa lý cụ thể, thì CDĐL không bị ràng buộc bởi yếu tố tên gọi. Bên cạnh tên gọi, CDĐL còn có thể là những dấu hiệu, ký hiệu, từ ngữ bất kỳ thể hiện được nơi bắt nguồn của hàng hóa. Thứ hai, hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc từ lãnh thổ quốc gia hoặc khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ quốc gia tương ứng đã được chỉ dẫn. Thứ ba, giữa chất lượng, uy tín hoặc đặc tính của sản phẩm với nguồn gốc đã được chỉ dẫn tồn tại mối liên hệ chặt chẽ. Theo đó, chất lượng, uy tín hoặc đặc tính của sản phẩm sẽ chịu ảnh hưởng từ nơi xuất xứ của sản phẩm. Hay nói cách khác, danh tiếng của sản phẩm sẽ dựa trên những đặc điểm nơi khu vực địa lý mang lại. Với tính chất toàn cầu của Hiệp định TRIPS, CDĐL đã được sử dụng phổ biến tại các quốc gia khác nhau7. Là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, Malaysia cũng đã ghi nhận thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” vào năm 2000 tại Luật Chỉ dẫn địa lý Malaysia. Theo quy định tại mục 2, Chương 1 Luật Chỉ dẫn địa lý Malaysia năm 2000 thì chỉ dẫn địa lý “là những chỉ dẫn phân biệt bất kỳ hàng hóa có nguồn gốc tại một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, hoặc một khu vực, một địa phương trong Điều 2 Thỏa ước Lisbon về bảo hộ và đăng ký tên gọi xuất xứ ngày 30/10/1958 quy định: “Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của một nước, một khu vực, một địa phương nơi xuất xứ của sản phẩm mà chất lượng và các tính chất đặc thù cơ bản của sản phẩm do môi trường địa lý của khu vực đó quyết định, kể cả yếu tố tự nhiên và con người.” 5 Vũ Thị Hải Yến (2016), “Bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý theo quy định của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2 (334), tr. 65. 6 Điều 22.1 Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ ngày 15/04/1994 quy định: “Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một Thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.” 7 Phan Thị Hồng Ân (2017), Mối quan hệ giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam – thực tiễn và kiến nghị, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 16. 4 8 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó, có chất lượng, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của hàng hóa chủ yếu do nguồn gốc địa lý hàng hóa quyết định”. Đạo luật Bảo vệ chỉ dẫn địa lý Thái Lan năm 2003 cũng đã đề cập đến thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” tại mục 3, Chương 1. Theo quy định của pháp luật Thái Lan về bảo vệ chỉ dẫn địa lý thì CDĐL là “tên, biểu tượng hoặc bất kỳ một chỉ dẫn nào dùng để chỉ một vị trí địa lý hoặc xuất xứ của sản phẩm, có chất lượng, danh tiếng hoặc các đặc tính khác do nguồn gốc địa lý tạo nên”. Nhìn từ pháp luật của các quốc gia, CDĐL được quy định theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, các khái niệm vẫn thể hiện được nội dung cơ bản theo tinh thần của Hiệp định TRIPS. Nhìn từ pháp luật Việt Nam, thuật ngữ “tên gọi xuất xứ hàng hóa” lần đầu tiên được quy định tại Điều 786 Bộ luật Dân sự (“BLDS”) năm 19958. Tên gọi xuất xứ hàng hóa tại BLDS 1995 được quy định khá tương đồng so với Thỏa ước Lisbon. Theo đó, khái niệm tên gọi xuất xứ hàng hóa đề cập đến ba nội dung cơ bản: (i) tên địa lý của một nước hoặc địa phương; (ii) hàng hóa mang tên gọi xuất xứ có xuất xứ từ nước hay địa phương đó; (iii) mối liên hệ giữa tính chất, chất lượng đặc thù của hàng hóa với điều kiện môi trường địa lý. Ngày 24 tháng 10 năm 1996, Nghị định số 63/CP của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp (“Nghị định số 63/CP”) được ban hành, quy định cụ thể hơn nội dung liên quan đến tên gọi xuất xứ hàng hóa. Nếu như BLDS 1995 chỉ dừng lại ở việc định nghĩa tên gọi xuất xứ hàng hóa thì Nghị định số 63/CP đã đề cập đến các vấn đề về bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa. Đến năm 2000, thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” chính thức được đề cập với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp tại Nghị định số 54/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/10/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp (“Nghị định số 54/2000/NĐ-CP”). Mặc dù, Nghị định số 54/2000/NĐ-CP không nêu ra định nghĩa cụ thể đối với CDĐL, song đây được coi là bước khởi đầu của CDĐL tại Việt Nam9. Tại Nghị định, hai thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” và “tên gọi xuất xứ hàng hóa” sẽ tồn tại song song. Nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hóa thì việc bảo hộ sẽ tuân theo quy định của pháp luật về tên gọi xuất Điều 786 BLDS 1995 quy định: “Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.” 9 Phan Thị Hồng Ân, tlđd (7), tr.20. 8 9 xứ hàng hóa10. Trong trường hợp này, Nghị định số 63/CP sẽ được áp dụng để điều chỉnh việc bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa trên thực tế. Có thể khẳng định, theo tinh thần của Nghị định số 54/2000/NĐ-CP thì CDĐL và tên gọi xuất xứ hàng hóa là hai thuật ngữ riêng biệt, thuộc hai phạm trù khác nhau. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 ra đời làm chấm dứt sự tồn tại song song của chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa. Theo tinh thần của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, pháp luật Việt Nam lúc bấy giờ thống nhất chỉ sử dụng chỉ dẫn địa lý và loại bỏ tên gọi xuất xứ hàng hóa. Ngoài ra, những vấn đề pháp lý của CDĐL như khái niệm, điều kiện bảo hộ, hình thức bảo hộ, chủ thể quyền SHCN đối với CDĐL… cũng được luật hóa một cách cụ thể, rõ ràng. CDĐL đã được Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 định nghĩa một cách ngắn gọn như sau: “Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”11. Có thể nói, khái niệm CDĐL tại khoản 22 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 chỉ mới đề cập đến nguồn gốc của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Theo quy định trên, CDĐL không chỉ là tên địa lý mà còn là những từ ngữ, hình ảnh, biểu tượng hay những yếu tố thể hiện nguồn gốc của sản phẩm mang CDĐL. Nguồn gốc của sản phẩm có thể là một khu vực, một địa phương, một vùng lãnh thổ hoặc một quốc gia cụ thể tương ứng với CDĐL. Điều 79 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định về điều kiện đối với CDĐL được bảo hộ đã góp phần làm rõ hơn về bản chất của CDĐL. Không chỉ dừng lại ở dấu hiệu chỉ nguồn gốc của sản phẩm, CDĐL còn thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa danh tiếng, đặc tính, chất lượng sản phẩm với điều kiện địa lý mang lại. Mặc dù không được đề cập trực tiếp tại khái niệm CDĐL, tuy nhiên những nội dung liên quan đến CDĐL đã gián tiếp khẳng định sự tương đồng, phù hợp của pháp luật Việt Nam với Hiệp định TRIPS. Nói cách khác, CDĐL dưới góc độ pháp luật Việt Nam là sự kế thừa và phát huy trên tinh thần của HĐ TRIPS. Sau ba năm thực thi, ngày 19 tháng 06 năm 2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Sau đó, Quốc hội khóa XIV cũng đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ tại kỳ họp thứ 7 ngày 14 tháng 06 năm 2019. Trải qua hai lần được sửa đổi, bổ sung nhưng khái niệm về CDĐL vẫn được giữ nguyên nội dung theo tinh thần của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Như 10 11 Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 54/2000/NĐ-CP. Khoản 22 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. 10 vậy, pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam vẫn tiếp tục thừa nhận CDĐL với tư cách là một đối tượng của quyền SHCN. Hơn 100 năm lịch sử, thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” đã được quy định dưới nhiều tên gọi khác nhau. Chỉ dẫn nguồn gốc là thuật ngữ xuất hiện sớm nhất, có nghĩa rộng nhất, nghĩa là về mặt nguyên tắc các yêu cầu bảo hộ ít nhất và đơn giản nhất12. Tuy nhiên, có thể nói chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ thể hiện hay nhất và mới mẻ nhất13. 1.1.2. Khái niệm bảo hộ chỉ dẫn địa lý Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý không chỉ thu hẹp trong phạm vi pháp luật quốc gia mà đã trở thành vấn đề quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế14. Tuy nhiên, các điều ước quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Thuật ngữ “bảo hộ” đã được đề cập chủ yếu tại Phần II của Hiệp định TRIPS15 thông qua các nội dung về đối tượng bảo hộ, điều kiện được bảo hộ, các quyền được bảo hộ và các quy định pháp lý nhằm ngăn chặn những hành vi xâm phạm. Ngoài ra, các quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý còn nhằm thiết lập một cơ chế thực thi quyền SHTT trên phạm vi quốc tế. Đến Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019 (“Luật SHTT”), thuật ngữ “bảo hộ” đã được quy định cụ thể hơn thông qua các nội dung về điều kiện bảo hộ, đối tượng bảo hộ, quyền đăng ký, chủ sở hữu và quyền của chủ sở hữu, các hành vi xâm phạm quyền và các biện pháp pháp lý xử lý xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý. Tác giả cho rằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý là cách diễn đạt ngắn gọn hơn của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với CDĐL. Nội dung quyền SHCN đã được Luật SHTT quy định là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh16. Theo đó, bảo hộ quyền SHCN đồng nghĩa với bảo hộ các đối 12 Lionel Bently, Brad Sherman (2009), Intellectual Property Law, Third edition, Oxford University Press, page 977. 13 Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới - WIPO (2005), Cẩm nang sở hữu trí tuệ (bản tiếng Việt), Cục Sở hữu trí tuệ, Hà Nội, tr. 119. 14 Nguyễn Thị Hương (2015), Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý – Kinh nghiệm của một số nước và thực tiễn tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.27. 15 Phần II Hiệp định TRIPS quy định về các tiêu chuẩn liên quan đến khả năng đạt được, phạm vi và việc sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ. 16 Khoản 4 Điều 4 Luật SHTT. 11 tượng thuộc quyền SHCN. Chỉ dẫn địa lý sẽ được bảo hộ dựa trên những quy định của pháp luật về bảo hộ quyền SHCN nói chung và những đặc trưng của CDĐL nói riêng. Dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành, việc bảo hộ CDĐL chủ yếu đề cập đến những nội dung chính sau: (i) xác lập quyền đối với CDĐL; (ii) thực hiện quyền đối với CDĐL; (iii) xác định những hành vi xâm phạm quyền; (iv) bảo vệ quyền thông qua các phương thức ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với CDĐL. Khi nghiên cứu về bảo hộ CDĐL, mỗi tác giả có những cách định nghĩa riêng về vấn đề này. Có tác giả đưa ra định nghĩa thông qua việc nghiên cứu dưới góc độ khách quan và góc độ chủ quan. Dưới góc độ khách quan, bảo hộ CDĐL là hệ thống pháp luật được ban hành, tạo cơ sở cho việc xác lập, công nhận và thực hiện quyền đối với CDĐL, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể. Dưới góc độ chủ quan, bảo hộ CDĐL là hoạt động của cơ quan nhà nước liên quan đến việc xác lập, sử dụng, khai thác và bảo vệ quyền đối với CDĐL17. Mặc dù được nghiên cứu dưới hai góc độ, tuy nhiên, thuật ngữ bảo hộ CDĐL vẫn được định nghĩa xung quanh các vấn đề về xác lập, khai thác, thực thi và bảo vệ quyền của chủ sở hữu đối với CDĐL. Ngoài ra, thuật ngữ bảo hộ còn được hiểu là phương thức để CDĐL không trở thành một tên gọi chung, không rơi vào trường hợp mất đi tính phân biệt và không đáp ứng điều kiện được bảo hộ18. Khái niệm này được quy định dựa trên những điều kiện để bảo hộ đối tượng CDĐL. Theo quy định pháp luật, CDĐL sẽ được bảo hộ khi đáp ứng được những điều kiện chung và không rơi vào trường hợp không được bảo hộ với danh nghĩa CDĐL. Nếu CDĐL đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa thì chỉ dẫn, tên gọi đó sẽ không đáp ứng điều kiện được bảo hộ theo quy định của pháp luật19. Nói cách khác, việc bảo hộ CDĐL trước hết sẽ có ý nghĩa về mặt xác lập quyền trên cơ sở quyết định của Cục SHTT về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký CDĐL cho tổ chức quản lý CDĐL. Tuy nhiên, nếu việc bảo hộ CDĐL chỉ dừng lại ở việc xác lập quyền thì việc bảo hộ có lẽ chưa thực sự đầy đủ. Trên thực tế, chủ thể quản lý, sử dụng CDĐL không thể lường trước được những hành vi xâm phạm quyền đối với CDĐL. Đôi khi vì lợi nhuận cá nhân, các chủ thể không có quyền sẵn sàng tìm mọi cách sử dụng CDĐL cho sản phẩm của mình nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy Vũ Thị Hải Yến (2008), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 10. 18 Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới – WIPO, tlđd (13), tr.121. 19 Khoản 1 Điều 80 Luật SHTT. 17 12 tín sẵn có. Họ cũng có thể sử dụng những dấu hiệu trùng hoặc tương tự với CDĐL đã được bảo hộ nhằm tạo nên sự hiểu lầm ở người tiêu dùng. Do đó, bên cạnh việc xác lập quyền, pháp luật còn phải quy định những nội dung liên quan đến các phương thức ngăn chặn, xử lý những hành vi xâm phạm. Tóm lại, bảo hộ chỉ dẫn địa lý có thể được hiểu là Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền thông qua các quy định pháp luật thực hiện việc ghi nhận, xác lập quyền cho các chủ thể đối với CDĐL, quy định những cách thức để thực thi quyền trên thực tế, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể nhằm chống lại những hành vi xâm phạm. 1.2. Ý nghĩa của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý Việc bảo hộ các đối tượng thuộc quyền SHCN nói chung và chỉ dẫn địa lý nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Vai trò của việc bảo hộ CDĐL được thể hiện rõ nhất thông qua các khía cạnh về kinh tế, văn hóa và xã hội. Những giá trị mà CDĐL mang lại có tác động trực tiếp đến các chủ thể quyền và cộng đồng, xã hội. 1.2.1. Ý nghĩa đối với chủ thể quyền Thứ nhất, CDĐL là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm gia tăng lợi nhuận của tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng CDĐL (“nhà sản xuất”). Lợi nhuận của những nhà sản xuất sẽ được đánh giá dựa trên sự chênh lệch giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất. Những sản phẩm mang CDĐL không chỉ có vị thế vững chắc trên thị trường mà còn có giá trị cao hơn so với những sản phẩm cùng loại thông thường. Thông qua một cuộc nghiên cứu điển hình về chè xanh Boseong ở Nam Triều Tiên, kể từ khi có CDĐL, giá thành chè xanh tăng lên đáng kể so với giá chè xanh cùng loại. Sự gia tăng của giá thành cùng với sự gia tăng về sản lượng (từ 20 đến 30% mỗi năm) đã dẫn đến sự phát triển của ngành và các khu vực liên quan đến chè20. Tại Việt Nam, giá thành sản phẩm sau khi được bảo hộ CDĐL cũng có xu hướng tăng lên đáng kể, từ 50% đến 100%. Qua khảo sát tại vùng cam Quỳ Hợp, từ khi được bảo hộ CDĐL, giá thành bán ra từ 55.000 đồng đến 60.000 đồng, tăng hơn 70% so với giá bán thông thường từ 40.000 đồng đến 45.000 đồng. Không chỉ cam Qùy Hợp, các sản phẩm khác cũng được tăng giá thành sau khi CDĐL được bảo hộ: cam Cao Phong Jeongwook Suh, Alan MacPherson (2007), “The impact of geographical indication on the revitalisation of a regional economy: a case study of ‘Boseong’ green tea”, The Geographical Journal, Vol 39 No 4, page 524. 20 13 giá bán tăng 50%, nước mắm Phú Quốc tăng từ 30% đến 50%, chuối ngự Đại Hoàng tăng từ 130% đến 150%21. Bên cạnh việc gia tăng giá thành sản phẩm, CDĐL còn có tác động tích cực đến kinh phí sản xuất của các nhà sản xuất. Sau khi CDĐL được bảo hộ, các nhà sản xuất không phải mất quá nhiều kinh phí để đưa sản phẩm ra thị trường. Mỗi sản phẩm sẽ có những danh tiếng, chất lượng nhất định do điều kiện địa lý tương ứng với CDĐL quyết định. Danh tiếng, chất lượng sản phẩm sẽ là yếu tố tác động trực tiếp đến người tiêu dùng, giúp họ dễ dàng nhận biết và tự tìm đến sản phẩm. Do đó, nhà sản xuất không cần phải dành nhiều thời gian và chi phí vào giai đoạn tiếp thị sản phẩm đến người tiêu dùng. Như vậy, sự kết hợp giữa việc gia tăng giá thành và hạn chế kinh phí sản xuất đồng nghĩa với một nguồn lợi nhuận được tạo ra cho các nhà sản xuất từ việc sử dụng sản phẩm mang CDĐL. Thứ hai, CDĐL không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích cho người sản xuất mà còn góp phần bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Như đã đề cập ở trên, danh tiếng, chất lượng hay uy tín của sản phẩm sẽ do điều kiện địa lý tương ứng với CDĐL quyết định. Khi CDĐL được bảo hộ đồng nghĩa với việc sản phẩm mang CDĐL đó đã được Nhà nước công nhận về chất lượng. Thông qua CDĐL, người tiêu dùng hoàn toàn có thể đặt niềm tin vào chất lượng của sản phẩm. Bên cạnh đó, bảo hộ CDĐL còn có vai trò ngăn chặn, chống lại các hành vi xâm phạm trên thực tế. Việc sử dụng CDĐL thuộc những trường hợp được quy định là hành vi xâm phạm quyền đều sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, quyền và lợi ích của người tiêu dùng sẽ được đảm bảo khi lựa chọn các sản phẩm mang CDĐL trên thị trường. Với niềm tin vào chất lượng, uy tín, số lượng người tiêu dùng lựa chọn sử dụng sản phẩm mang CDĐL ngày càng tăng. Qua kết quả khảo sát tại Liên minh châu Âu (“EU”) năm 1996 và 1999, số lượng người tiêu dùng sử dụng sản phẩm mang CDĐL tăng từ 11% đến 20% trong vòng ba năm. Hơn thế nữa, 43% người tiêu dùng ở EU cho biết họ sẵn sàng trả giá cao hơn 10% cho một sản phẩm mang CDĐL22. Sự gia tăng số lượng người tiêu dùng cũng là một trong các yếu tố thúc đẩy lợi nhuận của những nhà sản xuất nói riêng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung. Bảo Anh, “Nâng chất cho đặc sản vùng miền nhờ chỉ dẫn địa lý”, http://hpa.hanoi.gov.vn/thuong-mai/tintuc/tin-trong-nuoc/nang-chat-cho-dac-san-vung-mien-nho-chi-dan-dia-ly-a10468, truy cập ngày 22/4/2021. 22 Ulrike Grote (2009), “Environmental Labeling, Protected Geographical Indications and the Interests of Developing Countries”, The Estey Centre Journal of International Law and Trade Policy, Vol 10 Issue 1, page 104. 21 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan