Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kiến trúc xây dựng Khảo sát sự biến đổi ý nghĩa của từ ngữ hán việt từ từ điển việt bồ la (1651) đế...

Tài liệu Khảo sát sự biến đổi ý nghĩa của từ ngữ hán việt từ từ điển việt bồ la (1651) đến từ điển tiếng việt (2000)

.PDF
95
75
57

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TR Ư Ờ N G ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NH ÂN VÃN ************ BÙI THỊ HÀI KHẢO SÁT Sự BI€N *>ổl V NGHĨA củn Từ NGỬ HÁN VlệT TỪ TỪ ĐIỂN VlệT B ồ in ( 16 5 1) f>€N Từ l>l€N t iế n g v iệ t Chuyên ngành: Lí luận M ã số (2000) ngôn ngữ : 5 .0 4 .0 8 LUẬN VĂN THẠC s ĩ NGỮVẢN [•Đ Ạ I H ỌC c a , - • ỊtrÚNGÍA1' 1 ; “■ " ỵ - m /z $ í ! ■' ị L__— — —— NGƯỜf HtíỏNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Trần Trí Dõi Hà Nội - 2001 MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: MỘT VÀI VÂN ĐỂ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỂ TÀI 1. Quá trình tiếp xúc ngôn ngữ - văn hóa Hán V iệt và sự hình thành lớp từ ngữ Hán V iệt 1.1. T iếp xú c ngôn ngữ là m ột quy luật khách quan của m ọi ngôn ngũ' 1.2. Các điều k iện thuận lợi ch o sự tiếp xúc của tiếng V iệt với tiến g Hán 1.3. Các giai đoạn tiếp xúc của tiếng V iệt với tiếng Hán 1.4. Sự hình thành và đặc điểm của lớp từ ngữ Hán V iệt 1.5. Về cách đ ọc Hán V iệt, yếu tố g ố c Hán và yếu tố Hán V iệt 2. Nhận diện lớp từ ngữ Hán V iệt trong tiếng V iệt và giớ i hạn vấn đề n gh iên cứu 2.1. Các cách tiếp cận và các quan niệm khác nhau về từ ngữ Hán V iệt 2.2. Nhận d iện lớp từ ngữ Hán V iệt và giớ i hạn vấn đề ngh iên cứu của luận văn CHƯƠNG 2: BỨC TRANH CHUNG VỂ CÁC TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG T ừ ĐIỂN VIỆT B ổ LA 1651 (ĐỐI CHIÊU VỚI T ừ ĐIỂN TIẾNG VIỆT 2000) 2.1. Vài lời giải thích ch o tư liệu 2.1. ỉ N hững cái khó của v iệ c xử lí đề tài 2 .1 .2 . Cách xác định và xử lí các từ ngữ Hán V iệt của luận văn 2.2. 29 D anh sách c á o đ ơ n vị từ vựng Hán V iệt trong Từ điển V BL đối ch iếu với từ điển TV 2 0 0 0 và kiểm chứng bằng từ điển Y T H V 33 2 .2 .1 . N h óm I: Các đơn vị từ vựng Hán V iệt có trong VBL mà k h ôn g có trong TV 2 0 0 0 33 2 .2 .2 . N hóm II: Các đơn vị từ vựng Hán V iệt tương ứng n ghĩa 1:1 (ch ỉ có m ột n ghĩa duy nhất) 38 2 .2 .3 . N hóm III: Các đơn vị từ vựng Hán V iệt tương ứng nghĩa 1: > 2 51 CHƯƠNG 3: MỘT s ố ĐẶC ĐlỂM VỂ s ự PHÁT TRIỂN c ủ a c á c TỪ NGỮ HÁN VIỆT TƯ TƯ ĐlỂN v iệ t B ổ LA ĐẾN TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT 2000 61 3.1. Khảo sát và m iêu tả 61 3 .1 .1 . N h óm I: Các đơn vị chỉ có trong VBL mà k hôn g có trong TV 2 0 0 0 3 .1 .2 . N h óm II: Các đơn vị tương ứng nghĩa 61 1:1 3 .1 .3 . N hóm III: Các đơn vị tương ứng nghĩa 1: > 2 62 68 3 .1 .4 . N hững biến đổi về hình thức ngữ âm và chính tả của các đơn vị Hán V iệt nói trên 78 3.2. M ột vài nhận xét 82 3 .2 .1 . Về m ặt nội dung hay ý n gh ĩa của từ ngữ 82 3 .2 .2 . V ề mặt hình thức của từ ngữ 83 KẾT LUẬN 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VÃN TV 2 0 0 0 Từ điển tiếng V iệt của V iện N gôn ngữ học, N xb Đ à N ẵng, 20 0 0 . VBL Từ điển V iệt Bồ La của A lexandre de R h odes, N xb KHXH, Hà N ội 1991. b. b ó n g (n g h ĩa bóng) chm . ch u y ên m ôn cn. cũng nói cv . cũng v iết d. danh từ hay danh ngữ hoặc tổ hợp tương đương đ. đại từ hay tổ hợp đại từ đg. động từ hay động ngữ hoặc tổ hợp tương đương id. ít dùng k. kết từ hay tổ hợp kết từ kc. kiểu cách kng. khẩu ngữ ng. nghĩa p- phụ từ ph. phương ngữ t. tính từ thgt. thông tục tr. trợ từ hay tổ hợp trợ từ trtr. trang trọng v ch . văn chương X. xem yt. yếu tố cấu tạo từ 1 MỞ ĐẨU 1. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỂ Trong lịch sử hình thành và phát triển của ngôn ngữ tiếng V iệt, có một cuộc tiếp xúc ngôn ngữ - văn hóa vừa lâu dài về thời gian, vừa gần gũi về không gian... đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tiếng Việt: đó là tiếp xúc ngôn ngữ văn hóa Hán V iệt. Theo đó, trong tiếng V iệt đã xuất hiện lớp từ ngữ gốc Hán tồn tại, phát triển và giao hoà cùng với các từ ngữ thuần V iệt từ đó cho tới ngày nay. Sức sống của các từ ngữ gốc Hán này mạnh đến nỗi, ngày nay chúng là m ột bộ phận chiếm tỉ lệ khá lớn và không thể thiếu được trong đời sống của tiếng V iệt nói chung. Chính vì bộ phận từ vựng này quan trọng như vậy, cho nên, từ trước tới nay nhiều nhà V iệt ngữ học đã để tâm nghiên cứu chúng trên nhiều bình diện khác nhau, từ những hướng liếp cận khác nhau. Có thể kể ra m ột số xu hướng chính như sau: 1. Đa số các công trình nghiên cứu nhằm vào bình diện từ vựng - ngữ nghĩa của lớp từ ngữ g ố c Hán nói chung hoặc chỉ riêng lớp từ ngữ Hán Việt. Các công trình này gồm một số ít ]à các giáo trình từ vựng - ngữ nghĩa học, còn lại là các bài tạp chí hoặc kỉ yếu khoa học chuyên ngành, v ề giáo trình và sách chuyên khảo, có thể kể những tác giả sau: N guyễn Văn Tu (1976); Đ ỗ Hữu Châu (1981); N guyễn Thiện Giáp (1985). Phan N gọc (1998). v ề các bài tạp chí và kỉ yếu khoa học chuyên ngành có: H oàng Văn Hành, Hồ Lê, N guyễn Văn Thạc (1968), Phan Văn Các, Trương Chính, Quang Đạm , Lại Cao N gu yện , N guyễn Thị Tân, Bùi Đức Tịnh, N guyễn Văn Tu (1981); N guyễn Vãn K hang (1988), (1992), (1994); N .v . Stankevich (1991), Lê Anh H iền (2000); N guyễn Đ ức Tồn (2001), v.v. 2. M ột vài công trình của các nhà nghiên cứu trong nước nhằm vào bình diện n°ũủm lịch 5 7 ? của từ ngữ Hán V iệt mà điển hình là các cuốn sách 2 chuyên khảo và bài báo của các tác giả N guyễn Tài c ẩ n (1979); Vương Lộc (1978), (1985); H oàng Dũng (1991), v.v. N goài ra, còn phải kể đến m ột vài luận văn tốt nghiệp của sinh viên ngành ngôn ngữ học gần đây cũng bước đầu tiếp cận nghiên cứu m ột trong hai bình diện trên của từ ngữ gốc Hán, như các luận văn của Bùi Thư Trang (1998); N gu yễn Thị Thu N guyệt (1999) v.v. Các công trình nói trên chủ yếu khảo sát lớp từ ngữ gốc Hán nói chung hoặc từ ngữ Hán Yiệl hoặc Hán cổ, Hán Việt Việt hóa nói riêng, theo hai bình diện đã trình bày trên, trong đời sống tiếng V iệt. Trong số các côn s trình trên hầu như chưa có cỏ n s trình nào khảo sát từ ngữ Hán V iệt trong m ột tác phẩm cụ thể, đặc hiệl là m ột cuốn từ điển tiếng V iệt của thế kỉ XVII như là V iệt Bồ La. Đ áy cũng chính là lí do quan trọng nhất để chúng tôi chọn đề tài này. 2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM v ụ , Đ ố i TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN c ứ u CỦA LUẬN VĂN M ục đích của luận vãn nàv là chi’ ra m ột cách khái quát diện mạo và sự phái triển về ngữ nghĩa của một bộ phận từ ngữ Hán V iệt ở thế kỉ XVII được thu thập trong từ điển V iệl Bổ La cho tới ngày nay. Đ ể thực hiện được mục đích trên, luận vãn có nhiệm vụ phải nhậìi diện và xác đinh cho được một danh sách các đơn vị từ vựng được gọi là Hán Việt trong từ điển nói trên, sau đó miều lả và chỉ ra được những biến đổi và phát triển về nội dung ý nghĩa của chúne. Đ ối tượng n sh iên cứu của luận văn là các đơn vị Hán - V iệt trong Từ điển V iệt Bồ La. Phạm vi nghiên cứu ỏ' đây ]à bình diện từ vựng - ngữ nghĩa, của các đơn vị Hán V iệt đó, xét trong quá trình phát triển tới ngày nay. N goài ra. m ột số biến đổi về hình thức, nếu có được đề cập, là để bổ sun? thêm cho phần nội dung ngữ nghĩa. Thực ra, đây là một đề tài khá lớn đòi hỏi rất nhiều công sức. trong khi, bản thân tầm của m ột luận văn thạc sĩ như chúne lôi chỉ có giới hạn nhất định. Đ ó là m ộl mâu thuẫn lớn giữa đòi hỏi của đề tài và nsười thực hiện đề tài. V ì thế, trong 3 khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ đối chiếu các đơn vị Hán V iệt trong từ điển V iệt Bồ La, là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên, ra đời vào thế kỉ XVII (1 6 5 1 ), với chính chúng, trong m ột cuốn từ điển tiếng V iệt mới nhất là Từ điển tiếng Việt, của tập thể tác giả Viện N gôn ngữ học xuất bản năm 20 0 0 (sau đây, xin gọi tắt là Từ điển tiếng Việt 2000). N gay trong nội dung này, chúng tôi cũng chỉ dừng lại ở việc miêu tả và khảo sát theo bình diện từ vựng - ngữ nghĩa các đơn vị Hán Việt trong hai từ điển nói trên, chứ không có điều kiện khảo sát các đơn vị đó trong sử dụng. Cụ thể, mỗi đơn vị Hán Việt xác định được trong Từ điển Việt Bồ La, theo danh sách sẽ được phân loại và đối chiếu với chính nó trong Từ điển tiếng Việt 2 0 0 0 để thực hiện các m ục đích và nhiệm vụ mà luận văn đã nêu trên. 3. Ý NGHĨA CỦA ĐỂ TÀI LUẬN VÃN Thực hiện các m ục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn hi vọng được góp m ột phần nhỏ bé vào công việc nghiên cứu lớp từ g ố c Hán nói chung đang tồn tại và hành chức trong vốn từ tiếng V iệt, nhất là, phần nào giúp cho v iệc xác định diện m ạo của bộ phận từ Hán - Việt và những biến đổi lịch đại của chúng. Qua đó, có thể hiểu rõ hơn vai trò của các từ ngữ này trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, nhằm góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Thông qua những khảo sát cụ thể, luận vãn sẽ cung cấp phần nào bằng chứng về những biến đổi ngữ âm lịch sử và chữ viết của tiếng Việt mà các nhà nghiên cứu đi trước đã từng kiến giải. 4. NGỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u Như đã nói, luận văn sẽ được tiến hành trên tư liệu là các mục từ được xác định là Hán Việt trong Từ điển Việt Bồ La (từ điển gốc) và chính các mục từ đó trong Từ điển tiếng Việt 200 0 (từ điển đích). Các mục từ trong từ điển gốc được thu thập trước và chúng quyết định số lượng m ục từ trong danh sách m ục từ. Tuy nhiên, vì m ục từ trong từ điển gốc rất không nhất quán về mặt ngôn ngữ học (vấn đề này sẽ được nói rõ ở đầu chương 2), cho nên, các mục 4 từ trong từ điển đích (là m ột từ điển chuẩn ngôn ngữ học) sẽ là các m ục từ chuẩn của các từ ngữ Hán Việt đang xét. V ì dung lượng của luận văn, danh sách này chỉ ghi các m ục từ và từ loại, sô' lượng các nghĩa chứ không ghi phần định nghĩa. Các m iêu tả, phân tích, lí giải cụ thể đều phải dựa vào nguyên văn các lời định nghĩa trọn vẹn trong hai cuốn từ điển nói trên. Phương pháp nghiên cứu chính của luận văn là m iêu tả, phân tích và đối chiếu về mặt định tính và định lượng của tư liệu để đi đến các kết luận cụ thể. 5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VÃN Luận vãn gồm các phần và các chương chính như sau: MỞ ĐẦU Chương ]: MỘT VÀI VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI. Chương 2: BỨC TRANH CHUNG VỂ CÁC TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG TỪ ĐIỂN VIỆT BỒ LA (ĐỐI CHIỂU VỚI TỪ ĐlỂN t i ế n g v i ệ t 2000 ). Chương 3: MỘT s ố ĐẶC ĐIỂM VỀ s ự BIẾN Đ ổi Ý NGHĨA CỦA CÁC TỪ NGỮ HÁN VIỆT TỪ TỪ ĐlỂN v i ệ t B ồ LA ĐẾN TỪ ĐlỂN TIẾNG VIỆT 2000). KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 Chương 1 MỘT VÀI VẤN ĐỂ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỂ TÀI 1. Quá trình tiếp xúc ngôn ngữ - văn hóa Hán - Việt và sự hình thành lớp từ ngữ Hán - Việt 1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ là một quy luật khách quan của mọi ngôn ngữ Trong quá trình hoạt động và phát triển của m ỗi ngôn ngữ, sự tiếp xúc và vay mượn từ vựng của nó đối với các ngôn ngữ khác để làm giàu thêm cho mình là m ột quy luật tất yếu. Tiếng V iệt và tiếng Hán cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các công trình nghiên cứu về lịch sử tiếng V iệt, từ Hán - V iệt và song ngữ đã minh chứng cho quy luật này. Sự tiếp xúc của tiếng V iệt với tiếng Hán không phải là một quá trình ngắn ngủi, đơn giản mà là m ột quá trình lâu dài và phức tạp, nhiều chiều, đòi hỏi những nghiên cứu công phu. Tiếng Hán, từ lâu, đã được thừa nhận là một ngôn ngữ có ảnh hưởng sâu rộng ở Đ ông Nam Á và nói chung hầu hết châu Á, đối với các nước như V iệt Nam , Thái Lan, Lào, M ông c ổ , Nhật Bản, Triều Tiên, Xinhgapo, M alaixia v.v... nhưng không phải vì thế mà sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Hán và các ngôn ngữ khác chỉ xảy ra có m ột chiều, bắt đầu từ Hán. Các nhà nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc Hán - V iệt đã chỉ ra rằng sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ bao g iờ cũng xảy ra theo cả hai chiều, có đi có lại, tuy nhiên, có chiều yếu có chiều mạnh, trong sự tương hỗ lẫn nhau. Bởi vì, "ngôn ngữ cũng như các nền văn minh khác, bản thân 11Ó không lự túc" (E.Sapir). 1.2. Các điều kiện thuận lợi cho sự tiếp xúc của tiếng Việt với tiếng Hán Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ nói chung, các nhà ngôn ngữ học thường nêu ra hàng loạt các nhân tố ngoài ngôn ngữ như thương m ại, quân sự, chiến tranh, địa lí, v.v... Qua trình tiếp xúc Hán V iệt cũng không phải là m ội ngoại lệ. Tuy nhiên, có thể thấy, ở đây nổi lên một số nhân tố chính như sau: 6 1.2.1. V ề mặt chính trị: Từ khi Triệu Đà xâm lược (179 tr.CN) đến khi N gô Quyền đại thắng quân Nam Hán giành độc lập cho nước nhà (939), nước ta bị phong kiến Trung Q uốc đô hộ hơn 1000 năm. Trong suốt thời gian đó, nhiều cuộc khởi nghĩa của dân ta nổi lên một thời gian rồi lại bị dập tắt và nước ta vẫn nằm trong vòng cương toả của phong kiến Trung Hoa. Nhìn chung, bộ m áy cai trị của người Hán ở Việt Nam vần luôn vận hành theo m ột hướng, cho dù chính quyền ở Trung Quốc lúc thịnh, lúc suy. Đ ó là m ột bộ máy thống trị kiểu Hán, được thiết k ế ngày càng chặt chẽ từ trung ương xuống tận địa phương để cai trị nhân dân ta. Từ thời Đ ông Hán, người Hán nắm chính quyền chặt hon trước. Bắt đầu từ chính sách của Mã Viện, chính quyền cấp huyện lọt hẳn vào tay quan lại người Hán. Sau chiến tranh Nam Bắc triều, bộ m áy thống trị của người Hán ngày càng thắt chặt. Sang đến đời Đường, bộ m áy này được thiết k ế xuống tận xã. Theo An Nam chí nạuyện, Cao Biền đi đến đâu lập hương ấp đến đấy, riêng Biền đã lập được 159 hương cả thảy (q l.tr.60). V iệc hoàn thiện và thắt chặt bộ m áy chính quyền kiểu Hán nói trên là bước đi quan trọng của người Hán trong việc đô hộ nước ta và cũng là nhân tố đầu tiên ch o quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Hán - Việt. Thậm chí, sau này, ngay cả khi nước nhà giành được độc lập, cơ cấu bộ m áy hành chính của nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn theo m ô hình của nhà nước phong kiến kiểu Hán ở Trung Q uốc. 1.2.2. Vê mặt xã hội: ở thời kì đô hộ nước ta, do sự thiết lập chính quyền ngày càng chặt chẽ như trên, người Hán đã dần dần thâm nhập vào hầu hết các hoạt động quan trọng của đời sống và xã hội Việt Nam . Trong xã hội, ngoài tầng lớp quan lại, còn có m ột lực lượng đông đảo khác là các "kiều nhân" Hán, theo cách gọi của Tẩn 77ỉW (q.l00, lOa). Họ là những người Hán sang Việt Nam thuộc đủ thành phần, vì nhiều lí do khác nhau: sang theo người nhà, sang lánh nạn, sang làm ãn v.v. Tầng lớp "kiều nhân" nàv tập hợp thành một lực lượng đông đảo và có thế lực trone xã hội thời bấy eiờ. Bên cạnh đó, binh lính người Hán luôn là m ột lực lượng hùnc hậu tron 2 xã hội. N goài ra, còn m ột số lượng đáng kể người Hán sang Việt Nam theo chính sách di dân của chính quyền trung ương Trung Quốc. Các cư dân người Hán này thường ở lẫn với người Việt và cùng tham gia m ọi hoạt động xã hội với người Việt. Khi nước nhà giành được độc lập, các cuộc xâm lược của phong kiến Trung Q uốc vẫn tiếp diễn. Triều đình phong kiến Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của m ô hình nhà nước phong kiến Trung Quốc. Tất cả các điều kiện xã hội trên đã tạo thành m ột nhân tố quan trọng cho sự tiếp xúc chật chẽ, sâu sắc và lâu dài giữa hai ngôn ngữ V iệt - Hán. 1.2.3. Vê' mặt văn hoá: Cả khi bị đô hộ cũng như khi đã giành được độc lập, ở nước ta luôn có sự truyền bá chữ Hán, văn hoá Hán ra khắp vùng và sự hình thành một tầng lớp quý tộc người Việt để thực thi sự truyền bá đó. Sau khi Triệu Đ à vừa xâm chiếm xong Âu Lạc, xã hội Âu Lạc đã chuyển biến theo con đường phong kiến hoá kiểu Hán. Chính điều này đã tạo điều kiện cho việc tiếp thu văn hoá Hán và chữ Hán, làm cho xã hội Việt Nam ảnh hưởng ngày càng sâu sắc nền vãn hóa đó. Càng về sau này, bọn phong kiến thống trị Trung Q uốc càng thi hành chính sách đồng hoá dân ta mạnh mẽ hơn. Trong tầng lớp quý tộc Việt Nam , dần dần xuất hiện những người có học thức. Người Hán thi hành chính sách hai mật: một mặt m ở trường dạy chữ Hán, mặt khác, vẫn kìm hãm, hạn ch ế việc học hành của người Việt. Phổ biến chữ Hán cũng tức ]à phổ biến N ho giáo, cũng như Đ ạo giáo, Phật giáo và ngược lại chính sự truyền bá các đạo này đã làm cho chữ Hán ngày càng được phổ biến sâu rộng ở nước ta. Đ ến đời Tuỳ Đường, giai cấp phong kiến Việt Nam đã tương đối có thế lực. Lúc này ch ế độ khoa cử được đẩy mạnh và con cái các nhà có thế lực nhiều người học hành, đỗ đạt và được bổ làm các chức quan to. N hiều người có tài văn chương, chữ nghĩa. N hiều vị cao tăng Việt Nam được m òi sang tận kinh đô Trung Q uốc để giảng kinh ch o vua Đường. Nhiều vị nhờ tinh thông cả chữ Hán lẫn chữ Phạn đã dịch kinh Phật từ Phạn văn ra Hán vãn. Đ ến thời kì này, vãn hóa Hán nói chung và ngôn ngữ (viết) Hán nói riêng, đã có một ảnh hưởng sâu rộng trên toàn cõi V iệt N am , đặc biệt 8 là tại các trung tâm của chính quyền phong kiến. Đây là nhân tố quan trọng thứ ba của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Hán - V iệt nói trên. 1.3. Các giai đoạn tiếp xúc của tiếng Việt với tiếng Hán Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán - V iệt không chỉ xảy ra trong thời kì Bắc thuộc ở nước ta mà còn tiếp diễn trong nhiều thế kỉ tiếp theo nữa. "Khi nói đến sự tiếp xúc với tiếng Hán, trước nay chúng ta thường chỉ tập trung nói đến sự tiếp xúc quy mô, lâu dài trong ihời gian từ đời Triệu Đà và nhất là từ đời nhà Hán đến cuối đời nhà Đường. Chúng ta hầu như không nghĩ đến khả năng vẫn có thể có những đợt tiếp xúc khác, sau khi Việt Nam đã giành được độc lập. Thực ra, sau thế kỉ X, khả nãng đó vẫn còn" (N guyễn Tài c ẩ n , 1979). N ếu như thế ki’ X được các nhà sử học coi như cái m ốc để phán đôi lịch sử dân tộc, một nửa Bắc thuộc, còn nứa kia là độc lập lâu dài, thì các nhà ngôn ngữ học cũng có thể coi đây là cái m ốc để phân đôi hai giai đoạn tiếp xúc ngôn ngữ Hán - Việt. Giai đoạn đầu là giai đoạn tiếp xúc một cách tự nhiên giữa tiếng V iệt với tiếng Hán của đạo quân xâm lược với tư cách là công cụ đồng hoá nhân dân ta. Trong suốt thời kì Bắc thuộc, chữ Hán được dùng trong ngôn ngữ hành chính của nhà nước quan liêu, trong nhà chùa, trong việc thờ cúng, sáng tác văn chương, Irong ghi chép hàng ngày. Tuy nhiên, tiếng Hán ở V iệt Nam thời kì này chỉ được coi như m ột thứ ngoại ngữ mà người V iệt Nam cần học chứ nó không đồng hoá nổi tiếng V iệt. Theo m ột n sh iên cứu gần đây nhất, tác giả Vương Lộc (1985) cho biết, chỉ có 401 yếu tố từ vựng Hán V iệt cổ đơn tiết trong tiếng Việt. N ói về song ngữ, đây là trạng thái "song ngữ bất bình đẳng , song chủ yếu là tình trạng song ngữ tự nhiên trong khẩu ngữ của những người V iệt có biết nói tiếng Hán song ngữ" (H oàng Tuệ 1996, tr. 72). Giai đoạn hai là giai đoạn tiếp xúc m ột cách có ý thức của tiếng V iệt đối với tiếng Hán, m ột ngôn ngữ của những tri thức về các kiểu mẫu tổ chức nhà nước và chính quyền, những tri thức về kinh tế văn hoá và tư tưởng phong kiến điển hình. "Chính vào lúc sự tiếp xúc ngôn n sữ không bị ràng buộc bởi yêu cầu chính trị iheo quan hệ chinh phục, nó lại 9 đi sâu vào ngôn ngữ. Sự vay mượn lúc này đã đóng vai trò của chính ngôn ngữ đi vay, không phải là sự cưỡng ép" (Phan N gọc, 1985). Đ ây chính là cái lí do để tiếng Hán ở V iệt Nam thời kì này đã tách ra khỏi tiếng Hán ở Trung Quốc và phát triển theo con đường riêng của mình, theo quy luật riêng của tiếng V iệt và cách sử dụng riêng của người V iệt. Đ iều đáng lưu ý là, thời kì này, m ặc dù V iệt Nam đã giành được độc lập nhưng ưu thế và chức năng của tiếng Hán vẫn còn khá quan trọng. Tiếng Hán (vãn tự) vẫn được dùng làm ngôn ngữ chính thức của nhà nước phong kiến, trong hành chính, giáo dục, khoa cử, sáng tác văn học, văn hoá, tế lễ, là thứ ngôn ngữ bác học bên cạnh tiếng V iệt, tiếng N ôm là ngôn ngữ bình dân được dùng trong giao tiếp đời thường. N ói về song ngữ, thì đây vẫn là trạng thái "song ngữ bất bỉnh đẳng, song đã là trạng thái song ngữ văn hoá, chủ yếu qua sách Hán, văn chương Hán" (H oàng Tuệ, 1996, tr.73). 1.4. Sự hình thành và đặc điểm của lớp từ ngữ Hán Việt Kết quả là, hai giai đoạn tiếp xúc trên đã đem lại cho kho từ vựng tiếng Việt m ột khối lượng từ ngữ Hán - V iệl khổng lồ, mà theo sô' liệu của một số nhà nghiên cứu, chiếm tới 60% tổng số các đơn vị từ vựng trong tiếng V iệt. Theo N guyễn Văn Khang (1 9 9 4) các từ ngữ Hán - V iệt này có đậc điểm là: (1) Chúng nhập vào tiếng V iệt không phải cùng lúc mà trong suốt một thời gian dài với các mức độ khác nhau, lúc rời rạc, ]ẻ tẻ, lúc ồ ạt, có tính hệ thống. (2) Chúng được nhập vào bằng các con đường khác nhau và từ các nguồn khác nhau (từ tiếng phổ thông hoặc từ phương ngữ Hán; từ khẩu ngữ hoặc từ sách vở) (3) Chúng bị V iệt hoá theo những mức độ khác nhau. Chính các đặc điểm trên đã làm cho lớp từ Hán - V iệt vừa đa dạng, phong phú lại vừa phức tạp, khó xử lí trong nhiều tình huống cụ thể. Sự đa dạng và phức tạp đó thể hiện trên cả ba hình diện: ngữ ảm, ngữ nghĩa và cấu lạo từ. N hư vậy, sự xuất hiện của từ ngữ Hán - V iệt trong vốn từ tiếng V iệt là 10 một hệ quả tất yếu của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ lâu dài của tiếng V iệt với tiếng Hán, đồng thời là của quá trình song ngữ Hán - Việt, "từ song ngữ bất bình đẳng đến song ngữ cân bằng" (Hoàng Tuệ, 1996). 1.5. Vê cách đọc Hán - Việt, yếu tố gốc Hán và yếu tô'Hán - Việt Nói đến từ Hán - V iệt, không thể không nói đến cách đọc Hán - Việt, yếu lô'gốc Hán và yếu tố Hán Việt. Cách đọc Hán - Việt là sản phẩm của sự tiếp xúc giữa tiếng V iệt với tiếng Hán và nền vãn tự Hán xảy ra vào đời Đường, theo hệ thống ngữ âm tiếng Hán mà cụ thể là hệ thống Đường âm dạy ở Giao Châu (khoảng TK VIII-IX). Theo GS N guyễn Tài c ẩ n (1979), "nói đến cách đọc Hán - Việt là nói đến cái vỏ ngữ âm mà người V iệt Nam gán cho hệ thống vãn lự Hán, bất luận những chữ đó là gì". V í dụ: những chữ vốn ghi những tiếng Hán đã du nhập và được dùng trong tiếng V iệt như: tuyết, học, cao, lìiv v.v... hoặc những chữ không liên quan gì đến tiếng V iệt như: chẩm, giá, ma, v.v... Yếu íỏ' gốc Hán ]à những yếu tố vốn của tiếng Hán nhưng nay đã được du nhập vào tiếng V iệt, bất luận đó là yếu tô' như ihế nào. V í dụ: quốc, gia, sơn, lìuiỷ, v.v... hay những yếu tố như: mùa, gần, mì chính, v.v... vốn là do vụ, cận, vị tinh , v.v... mà ra. Yếìt lô'HÚII - Việt là một bộ phận nàm trong yếu tô gấc Hán nhưng irực liếp liên quan đến cách đọc Hán - V iệt, hay nói cụ thể, đó là vếu tố gốc Hán đã được đọc theo âm Hán - V iệt và ghi bằng chữ quốc ngữ hiện hành. Có thể hình dung rõ hơn những điều vừa trình bày trong sơ đồ mà GS N guyễn Tài c ẩ n đã trình bày như sau: Các yếu tô' gố c Hán trong tiếng V iệ i 11 a) Khu vực I là những chữ có thể đọc theo cách đọc Hán - V iệt nhưng chỉ liên quan đến tiếng Hán, không có trong tiếng V iệt. V í dụ: chẩm, giá, ma , v.v... b) Khu vực II là những chữ người V iệt mượn từ tiếng Hán nhưng không trực tiếp liên quan đến cách đọc Hán - V iệt. Có thể kể ra ba loại khác nhau: - Những chữ vào tiếng V iệt trước khi có cách đọc Hán - V iệt như mùa, mùi, buồng, buồm, v.v. - Những chữ vào từ đời Đường cùng với cách đọc Hán - V iệt nhưng sau có cách đọc khác Hán - V iệt như: gan, gần, vốn, ván v.v. - Những chữ vào tiếng V iệt thông qua m ột phương ngữ tiếng Hán như: mì chính, ca la thấu, vần thắn, xá xíu, v.v. c) Khu vực III là những chữ mượn từ tiếng Hán thông qua cách đọc Hán - Việt nên được gọi là các yếu tố Hán Việt. Các yếu tố Hán - V iệt này có thể chia làm 2 loại: loại là từ, có thể dùng độc lập như: tuyết, học, dân, số, đoàn, toán, v.v. và loại không phải là từ, không thể dùng độc lập, chỉ làcác yếu tố cấu tạo từ như: quốc, gia, sơn, thuỷ, giang, v.v. Sơ đồ Irên có thể cho ta hình dunu toàn cảnh những gì có liên quan đến từ ngữ Hán - V iệt trong vốn từ tiếng V iệt hiện nay, nói chung và vấn đề mà luận văn đang quan tâm nghiên cứu, nói riêng. 2. Nhận diện lớp từ ngữ Hán - Việt trong tiếng Việt và giói hạnvấn đề ngh iên cứu 2.1. Các cách tiếp cận và các quan niệm khác nhau về từ ngữ Hán - Việt V ề vấn đề này, từ trước đến nay, đã có khá nhiều tác giả bàn tới trong các bài viết hoặc sách chuyên khảo của họ. Tham khảo các công trình của các tác giả đi trước, chúng tôi thấy m ỗi tác giả có cách tiếp cận khác nhau và có 12 những quan niệm không giốn g nhau về lớp từ ngữ Hán - V iệt này. Sau đây, chúng tôi sẽ tổng kết các ý kiến đó, trước khi đưa ra quan điểm và những ý kiến của m ình để nhận diện lớp từ ngữ đặc biệt này. Nhìn chung, có thể chia các ý kiến của các tác giả đi trước thành 5 nhóm khác nhau như sau: 2.1.1. Nhóm A : gồm các tác giả N guyễn Văn Thạc, N guyễn Văn Tu, N guyễn Tài c ẩ n , Đ ỗ Hữu Châu, Phan Văn Các, Thế Long và N guyễn Thiện Giáp. N hóm này nhận diện từ ngữ Hán - Việt thông qua việc phân nhóm chúng trong tiếng Việt. Sau đây là các ý kiến của các tác giả cụ thể: N gu yễn Văn Thạc (1 9 6 8) cho rằng, có thể chia những từ mà tiếng Việt đã mượn của tiếng Hán thành ba nhóm: nhóm Hán - Việt cổ , nhóm Hán - Việt và nhóm từ mượn qua tiếng địa phương của tiếng Hán ở vùng giáp giới biên giới V iệt N am . Tất cả họp lại thành lớp từ mượn tiếng Hán trong tiếng Việt hiện đại. Theo N guyễn Văn Tu (1976) tương ứng với lịch sử nước ta hai lần bị phong kiến Trung Q uốc thống trị hàng ngàn nãm, tiếng Hán cũng vào nước ta theo hai thời kì: thời kì thứ nhất, theo con đường khẩu ngũ' tự nhiên (đời Hán) và thời kì thứ hai, theo con đường cả khẩu ngữ lẫn sách vở (đời Đường). Những từ Hán vào nước ta đều chịu sự chi phối của quy luật ngữ âm tiếng Việt, vì thế, chúng biến đổi về mặt ngữ âm. D o đó, có thể chia các từ Hán vào tiếng Việt làm 3 loại: (a) Từ Hán cổ là những từ vào từ trước đời Đường, tức là trong thời kì Triệu Đ à và nhà Hán thống trị nước ta. Những từ này đã ăn sâu vào khẩu ngữ tiếng V iệt, hoàn toàn không giữ lại hình dáng của tiếng Hán nữa và chúng hiện được coi là nhũng từ thuần Việt. Chẳng hạn: chè, xe, hè, ngói, chìm v.v. là các từ đọc theo âm Hán cổ mà theo âm Hán - Việt hiện nay tương ứng là các từ trà, xa, hạ, ngoã, trâm v.v. (b) Từ ẹốc Hán mượn của đời Đường-, là những từ g ố c Hán cần thiết cho việc giao tế cho lúc đó, nhất là trong ngón ngữ viết, thường aọi là từ Hán - 13 Việt. Tuy có số lượng lớn nhưng những từ này vào tiếng V iệt đều chịu sự chi phối của tiếng V iệt và biến đổi về ngữ âm, ngữ nghĩa và cấu tạo theo quy luật nội bộ của tiếng V iệt. Chẳng hạn: khoa cử, văn chương, tú tài, cử nhân, tiến sĩ, ch ế độ, chiếm hữu, xung đột, bá quyền, chiến trường, thành trì, cáo trạng v.v. (c) Từ gốc Hán đ ã Việt hoá: là những từ ra đời sau khi ta đã mượn toàn bộ hệ thống từ g ố c Hán và chúng cũng được dùng phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày. Đ ây là những từ đã V iệt hoá về ngữ âm từ những từ g ố c Hán. Chẳng hạn các từ như: gương (kính), gác (các), gang (cang), vạch (hoạch), vốn (bổn), ván (bản), vá (bổ), vỡ (phá), sức (lực), xanh (thanh), đời (đại), v.v. Tác giả N guyễn Tài c ẩ n (1979), khi nghiên cứu quá trình hình thành cách đọc Hán V iệt, đã chia các yếu tố g ố c Hán có trong tiếng V iệt làm 3 loại, theo ba khu vực: khu vực I, là những chữ, tuy được đọc theo âm Hán - V iệt nhưng chi’ có trong tiếng Hán, không có trong tiếng Việt; khu vực II là các yếu tố gốc Hán trong tiếng V iệt nhưng không liên quan trực tiếp đến cách đọc Hán Việt; còn khu vực III là các yếu tố gốc Hán được đọc theo âm Hán - V iệt gọi là các yếu tố Hán - Việt (đã nói 0 m ục 1.5.). Theo Đ ỗ Hữu Châu (1981), các từ Hán xâm nhập vào tiếng V iệt theo hai thời kì. Thời kì thứ nhất là trước đời Đường, các từ Hán được phát âm theo hệ thống ngữ âm Hán cổ, do vậy, chúng hoà lẫn vào các từ thuần V iệt, rất khó nhận biết. Thời kì thứ hai là vào đời Đường, gồm hai bộ phận: - Các từ Hán V iệt đã bị V iệt hoá, như: gương (kính), gan (can), gang (cang), ghi (kí), vạ (hoạ), dừng (đình), dao (đao), sen (liên), vạch (hoạch), vốn (bổn), ván (bản), sức (lực), buồng (phòng), giường (sàng), giấy (chỉ), giêng (chính). - Đa sô các yếu tố g ố c Hán còn lại vẫn giữ cách phát âm cũ, ý nghĩa cũ, chưa được V iệt hoá, còn m ang đậm màu sắc ngoại lai. Đ áy mới thực sự là các vếu tố Hán Việt. Chúng chỉ đóng vai trò là các hình vị cấu tạo từ trong tiếng 14 Việt. V í dụ: ái (yêu), ám (không lộ rõ), ấu (trẻ nhỏ), bản (vốn, gốc), bán (nửa), bảo (gìn giữ), bảo (quý giá), dị (khác), ho ả (lửa), thuỷ (nước), v.v. Phan Văn Các (1981) quan niệm rằng "chỉ nên coi là đơn vị gốc Hán những yếu tố d ã thực sự đi vào tiếng Việt". D o vậy, theo tác giả này, cần phân biệt rõ hai khái niệm , hai loại từ ngữ có liên quan là từ gốc Hán và từ mượn Hán. Từ gốc Hán là những từ đã được biến đổi ở: NGỮÂM: 1. Phụ âm đầu: gan < can; gác < các; với < bái v.v. 2. Phần vần: a dua < a du; bằng < bình; ép < áp v.v. 3. Thanh điệu: loài < loại; liều < liêu; cám (ơn) < cảm (ơn) v.v. 4. Phụ âm đầu và vần: bùa < phù; buồn < phiền; buồng < phòng v.v. 5. Phụ âm đầu và thanh điệu: gấm < cẩm; gần < cận; goá < quả v.v. 6. Vần và thanh điệu: báu < bảo; beo < báo; ngờ< nghi v.v. 7. Phụ ám đầu, vần và thanh điệu: buồng < phòng; chém < trảm; gươm < kiếm v.v. NGỮPHÁP: 8. Những từ đơn tiết và đơn tiết hóa như: áo, bàn, bảng, báo, bát , bút, quần, áo (đơn tiết) và trạng (đơn tiết hoá) v.v. 9. N hững đơn vị có thể kết hợp với những đem vị thuần Việt như: áo (áo xống), bạc (bạc bẽo) v.v. 10. Những cụm vị từ cố định có từ thuần Việt hoặc V iệt hoá: máu Trương Phi, trám trận trăm thắng v.v. Từ mượn Hán ]à những đơn vị từ vựng còn mang cái vỏ âm Hán bác học (âm Hán - Việt) mà chưa có bộ phận nào được Việt hoá. Ví dụ: khoái chá , đ ể khánq, cầu ơn/ cẩu an, hổ trợ! hộ trợ v.v. T h ế Long (1 9 8 4 ) cho rằng từ gốc Hán được mượn vào tiếng Việt và được 15 V iệt hoá về nhiều mặt: ngữ âm, ngữ nghĩa, kết cấu, khả năng kết hợp cú pháp. Theo đó, lớp từ này được chia thành hai bộ phận: 1- Bộ phận từ Hán cổ vào tiếng V iệt từ trước đời Đ ường, chủ yếu qua con đường khẩu ngữ, nay đã được V iệt hoá hoàn toàn trở thành từ thuần V iệt. 2- Bộ phận lớn hơn là bộ phận từ vựng tiếng Hán hiện đại vào tiếng Việt theo con đường ngôn ngữ viết, được đọc toàn bộ bằng âm Hán - V iệt, được V iệt hoá hoàn toàn về mặt ngữ âm. V í dụ: phì nhiêu, sơ bộ, thị lực, quán triệt, v.v. Theo N guyễn Thiện Giáp (1985), vì người ta có thể đọc tất cả các chữ Hán (xưa và nay) theo âm Hán - V iệt nên cần phân biệt lừ gốc Hán trong liếng Việt với các từ Hán đọc theo âm Việt. Chỉ được coi là từ V iệt g ố c Hán những từ Hán nào thực sự nhập vào hệ thống từ vựng tiếng V iệt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ nháp tiếng V iệt. Theo tác giả trên, các từ gốc Hán trong tiếng Việt gồm hai bộ phận chính như sau: a) Các từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Hán - V iệt, gọi tắt ]à các từ Hán - Việt, bao gồm : + Những từ ngữ Hán - V iệi được tiếp nhận từ đời Đường đến ngày nay, gồm: - N hững từ tiếng V iệt trực tiếp tiếp nhận từ tiếng Hán. Loại này chiếm đa số, thuộc đủ m ọi lĩnh vực. V í dụ: c h ế độ, triều đình, giám sát, công nghiệp, nông nghiệp, văn chương, chiến trường, anh hùng, nguyên cá o , cáo trạng, bệnh nhân, bệnh viện, v.v. - N hững từ tiếng V iệt tiếp nhận của các ngôn ngữ khác, thông qua tiếng Hán. V í dụ: câu lạc bộ (Anh), kinh tế, trường hợp (Nhật). + N hững từ Hán V iệt được cấu tạo ở V iệt Nam. Đ ây là những từ mà tiếng V iệt sử dụng các yếu tố g ố c Hán làm chất liệu để tạo ta các từm ới. Những từ này không có trong tiếng Hán. Nhữne từ loại này gồm : 16 - Những đơn vị do các yếu tố g ố c Hán kết hợp tạo thành. V í dụ: an trí, tiểu đoàn, đại đội, thiếu tá v.v. - Những đơn vị do m ột yếu tô' gốc Hán + một yếu tô' thuần V iệt tạo thành. V í dụ: binh lính, tàu hoả, tàu thuỷ, súng trường, cướp đoạt, đói khổ v.v. b) Các từ ngữ g ố c Hán không đọc theo âm Hán - V iệt. Loại này ít hơn loại trên nhiều, bao gồm: + Những từ Hán vào V iệt Nam trước đời Đường, gọi là lừ Hán cổ. Tuy nhiên, đến đời Đường, những từ Hán này lại nhập vào V iệt Nam một lần nữa và được đọc theo âm Hán Việt. Thành thử, ở V iệt Nam tồn tại những cặp từ gốc Hán cùng g ốc, đồng nghĩa nhưng có cách đ ọc khác nhau. V í dụ: HÁN CỔ (HÁN VIỆT) cải - (giới) cởi - (giải) cả - (giá) chén - (trân) chém - (trảm) chứa - (trữ) buồng - (phòng) buồn - (phiền) mạng - (m ệnh) xe - (xa) chè - (trà) v.v. + Những từ Hán Việt được Việt hoá: Gồm những từ vốn là các lừ Hán - Việt khi nhập vào hệ thống từ vựng của tiếng V iệt, do chịu sự chi phối của quy luật ngữ âm của tiếng V iệt, đã biến đổi diện m ạo ngữ ám , không còn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan