A. MỞ ĐẦU
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một chế định quan trọng của BLTTHS.
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Kháng nghị của Viện kiểm
sát cùng với kháng cáo của một số người tham gia tố tụng là cơ sở, tiền đề cho hoạt
động xét xử phúc thẩm. Pháp luật tố tụng hình sự ngày một hoàn thiện, trình độ
chuyên môn của những người tiến hành tố tụng ngày càng nâng cao.Tuy nhiên, trên
thực tế, vẫn còn tồn tại những bất cập của pháp luật tố tụng hình sự, những hạn chế
về trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng dẫn đến việc kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm vẫn chưa đạt được kết quả mong đợi. Để tìm hiểu vấn đề này,
trong bài tập học kì, em xin lựa chọn đề tài: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
trong tố tụng hình sự”.
Do hiểu biết còn hạn chế, bài làm của em không thể tránh khỏi những thiếu sót,
em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo để bài làm của em thêm hoàn
thiện. Em xin chân thành cảm ơn.
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
Kháng nghị là quyền được quy định duy nhất cho Viện kiểm sát. Quyền này
xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát là công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự. Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân
dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật”.
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là “quyền của Viện kiểm sát cùng cấp với
Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
của Viện kiểm sát đó, thực hiện dưới hình thức, trong thời hạn và theo thủ tục do
pháp luật quy định, phản đối bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
do thiếu căn cứ, không phù hợp với pháp luật và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét
xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình
sự”.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM.
1. Đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Điều 230 BLTTHS 2003 quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm: “Xét xử
phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định
sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật
bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Điều luật đã gián tiếp quy định đối tượng của kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm là bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp
luật. Ngoài ra, đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm cũng được gián tiếp
1
quy định tại điều 232 BLTTHS 2003: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Giáo
trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội khẳng định đối
tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là “đối tượng của kháng cáo, kháng
nghị phúc thẩm là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật”.
Như vậy, có thể suy ra đối tượng của kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm.
Nếu như pháp luật tố tụng hình sự Pháp quy định hạn chế đối tượng của kháng
nghị phúc thẩm là “hình phạt phải đạt một mức độ mào đó thì mới có thể là đối
tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm” thì theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, tất cả các bản án sơ thẩm đều có thể là đối tượng của kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, không kể nội dung bản án, quyết định là gì.
Các quyết định của tòa án cấp sơ thẩm là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm
bao gồm quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án (khoản 2 điều 239 BLTTHS 2003,
mục 2.1 phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP); quyết định về việc áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh (khoản 2 điều 316 BLTTHS 2003, mục 2.2 phần I Nghị
quyết số 05/2005/NQ-HĐTP); quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ (khoản 5 điều
40 Luật tương trợ tư pháp); quyết định về việc miễn, giảm thời hạn chấp hành hình
phạt hoặc rút ngắn thời gian thử thách của án treo (mục 13 phần IV Nghị quyết số
02/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn
thi hành một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của
tòa án” của BLTTHS).
Các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không phải là đối tượng của kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm gồm: quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, quyết định về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo, quyết định
hoãn phiên tòa, quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng.
2. Chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Trong pháp luật tố tụng hình sự, chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm được
quy định tại điều 232 BLTTHS: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Việc quy
định chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm là Viện kiểm sát cùng cấp và Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp là quy định hoàn toàn phù hợp với chức năng của Viện
kiểm sát. Đồng thời, khi trao cho cả hai Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc
thẩm sẽ đảm bảo được bản án, quyết định của Tòa án được giám sát chặt chẽ hơn,
cũng như đảm bảo được hoạt động kháng nghị phúc thẩm đạt được hiệu quả.
Người có thẩm quyền quyết định việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp (điều 36 BLTTHS 2003). Điều
32 quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự ban
hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng
VKSNDTC hướng dẫn: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện có
2
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật của Tòa án cấp huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp
tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện. Viện trưởng
VKSNDTC ủy quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh.
Chỉ trong thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã ra bản án,
quyết định sơ thẩm mới có quyền kháng nghị. Vì vậy, trong thực tế xảy ra trường
hợp cả Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp cùng kháng nghị đối với cùng một bản án hoặc quyết dịnh
sơ thẩm. Nếu nội dung hai kháng nghị này mâu thuẫn với nhau (Viện kiểm sát cấp
phúc thẩm kháng nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong khi đó Viện kiểm sát cấp
sơ thẩm kháng nghị tăng mức hình phạt đối với bị cáo), Viện kiểm sát cấp dưới
không rút kháng nghị của mình, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp không rút kháng
nghị của mình hoặc không hủy kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới thì Tòa án
cấp phúc thẩm chỉ chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để tiến
hành xét xử. Nếu hai bản kháng nghị có nội dung bổ sung cho nhau (cả hai Viện
kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên cùng đưa ra kháng nghị tăng hoặc giảm
hình phạt cho bị cáo) thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ chấp nhận cả hai kháng nghị đó để
tiến hành xét xử.
3. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Khoản 1 điều 33 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử hình sự hướng dẫn:
“Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm khi có một trong các căn cứ sau:
a. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy
đủ;
b. Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp
với các tình tiết khách quan của vụ án;
c. Có vi phạm trong việc áp dụng BLHS;
d. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi
phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng”.
Theo điều luật, căn cứ kháng nghị phúc thẩm gồm:
Thứ nhất, việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy
đủ: Việc điều tra, xét hỏi tại tòa phiến diện là việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa
không khách quan, không toàn diện, mọi tình tiết của vụ án chưa được làm sáng tỏ
một cách đầy đủ, khách quan. Biểu hiện của sự phiến diện là chỉ chú ý đến việc xét
hỏi những chứng cứ buộc tội mà không chú ý đến những tình tiết gỡ tội cho bị cáo,
chỉ tập trung vào thẩm vấn những tình tiết tăng nặng hoặc ngược lại. Việc điều tra,
3
xét hỏi tại phiên tòa không đầy đủ là hoạt động điều tra tại phiên tòa còn thiếu nhiều
tình tiết mà theo quy định của pháp luật thì chưa đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội
hay không,…
Thứ hai, kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với
các tình tiết khách quan của vụ án: Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ
thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án là kết luận trong bản án,
quyết định không phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã điều tra, xác minh tại phiên
tòa. Ngoài ra, việc kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với tình tiết
khách quan của vụ án còn có thể là trường hợp bị cáo trong quá trình điều tra, xét
hỏi trước đó và tại phiên tòa không chịu thành khẩn khai báo nhưng Hội đồng xét xử
lại áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” (điểm p
khoản 1 điều 46 BLHS) đối với bị cáo.
Thứ ba, có vi phạm trong việc áp dụng BLHS
Thứ tư, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi
phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng
4. Hình thức, thủ tục kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Theo khoản 2 điều 233 BLTTHS 2003: “Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị bằng văn bản, có nêu rõ lý do. Kháng nghị
được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm”. Khoản 1 điều 34 Quy chế công tác thực hàn
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự cũng quy định rõ: “Quyết định
kháng nghị phải nêu rõ và cụ thể những vi phạm pháp luật hoặc về áp dụng thủ tục
tố tụng và nêu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án theo đúng quy
định của pháp luật”. Như vậy, quyết định kháng nghị phải gửi đến Tòa án đã xử sơ
thẩm, không phụ thuộc chủ thể kháng nghị là Viện kiểm sát cùng cấp hay Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp và trong quyết định kháng nghị bắt buộc phải nêu lý do kháng
nghị.
5. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Thời hạn là một phần hết sức quan trọng đối với hoạt động kháng nghị của Viện
kiểm sát . Thời hạn kháng nghị phúc thẩm cũng là một trong những căn cứ để Tòa
án chấp nhận hay không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát. Thời hạn kháng
nghị của Viện kiểm sát được quy định tại khoản 1 điều 234 BLTTHS 2003: “Thời
hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án”. Điều luật này chỉ quy định
thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ thẩm mà không áp dụng cho quyết định sơ
thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát đối với quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm quy định tại khoản 1 điều 239 BLTTHS như sau: “Thời hạn kháng nghị đối
với các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày,
của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết
định”.
4
Theo quy định tại khoản 1 điều 234 BLTTHS 2003, thời hạn kháng nghị được
tính kể từ ngày tuyên án, đồng thời theo quy định tại khoản 1 điều 239 BLTTHS
2003 thì thời hạn kháng nghị được tính kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Như vậy,
ngày đầu tiên của thời hạn kháng nghị được xác định là ngày tiếp theo của ngày Tòa
án tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu ngày cuối của thời hạn kháng nghị là ngày nghỉ,
ngày lễ, tết thì ngày cuối cùng của thời hạn kháng nghị được tính là ngày làm việc
tiếp theo của ngày làm việc đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn là
24 giờ cùng ngày đó (điểm 4.1 mục 4 phần I Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP).
Pháp luật tố tụng hiện hành không quy định về việc kháng nghị quá hạn, khác
với kháng cáo có quy định kháng cáo quá hạn. Chính vì vậy, mọi trường hợp kháng
nghị quá hạn là không hợp pháp và không được chấp nhận.
6. Thông báo về việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Thông báo về việc kháng nghị là việc Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo về việc
Viện kiểm sát kháng nghị và nội dung kháng nghị đến những chủ thể nhất định trong
một thời hạn nhất định. Trong pháp luật tố tụng hình sự, vấn đề thông báo về việc
kháng nghị được quy định tại điều 236 BLTTHS. Theo quy định tại khoản 1, khi
nhận được kháng nghị thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo bằng văn bản cho
những người tham gia tố tụng biết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được
kháng nghị. Như vậy, điều luật xác định chủ thể có trách nhiệm thông báo kháng
nghị là Tòa án cấp sơ thẩm, chủ thể được thông báo kháng nghị là những người tham
gia tố tụng; hình thức thông báo bằng văn bản; thời hạn thông báo là bảy ngày. Việc
quy định thời hạn thông báo kháng nghị là một điểm mới so với BLTTHS 1988, nó
có ý nghĩa tích cực trong hoạt động tiến hành tố tụng nhằm xác định rõ giới hạn phải
thực hiện các hoạt động tố tụng, đảm bảo việc thực hiện các hoạt động tố tụng nhanh
chóng, kịp thời.
Việc quy định chủ thể có trách nhiệm thông báo kháng nghị là Viện kiểm sát đã
xét xử sơ thẩm là hợp lý vì Tòa án cấp sơ thẩm là chủ thể đã ra bản án hoặc quyết
định sơ thẩm, nhận kháng nghị và thực hiện việc chuyển hồ sơ vụ án và kháng nghị
lên Tòa án phúc thẩm nên việc thông báo kháng nghị vừa thuận tiện, vừa đảm bảo
chính xác. Vấn đề này được quy định cụ thể tại điểm 6.3 mục 6 phần I nghị quyết số
05/2005/NQ-HĐTP: “Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị bản án hoặc
quyết định sơ thẩm mà đã gửi kháng nghị cho bị cáo và đương sự có liên quan đến
kháng nghị, thì Toà án cấp sơ thẩm không phải thông báo cho họ. Nếu Viện kiểm sát
gửi cho Toà án cấp sơ thẩm các bản kháng nghị để gửi cho bị cáo và đương sự có
liên quan đến kháng nghị, thì Toà án cấp sơ thẩm gửi kháng nghị đó cho họ thay
cho việc thông báo. Nếu Viện kiểm sát chỉ gửi kháng nghị cho Toà án cấp sơ thẩm,
thì Toà án cấp sơ thẩm thông báo việc kháng nghị cho bị cáo và đương sự bằng văn
bản”. Như vậy, việc thông báo không nhất thiết phải do Tòa án thực hiện, việc thông
báo có thể do Viện kiểm sát đã kháng nghị thực hiện.
7. Hậu quả của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
5
Khoản 1 điều 237 BLTTHS 2003 quy định hậu quả pháp lý đối với việc kháng
nghị các bản án mà chưa quy định hậu quả pháp lý của việc kháng nghị các quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm. Việc kháng nghị của Viện kiểm sát đối với bản án của
Tòa án cấp sơ thẩm sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý thuộc một trong hai trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: nếu Viện kiểm sát kháng nghị toàn bộ bản án thì toàn bộ
bản án không được đưa ra thi hành.
Trường hợp thứ hai: nếu Viện kiểm sát chỉ kháng nghị một phần bản án thì chỉ
phần bản án bị kháng nghị chưa có hiệu lực pháp luật, phần còn lại phát sinh hiệu
lực pháp luật sau khi hết thời hạn kháng nghị. Tuy nhiên, khoản 2 điều 249
BLTTHS 2003 quy định: “Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình
phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo
cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị”. Quy
định này thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta.
Không phải trong mọi trường hợp, khi có kháng nghị của Viện kiểm sát sẽ dẫn
đến việc một phần hoặc toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành, mà trong các
trường hợp được quy định tại khoản 2 điều 255 BLTTHS 2003 thì dù có kháng nghị
của Viện kiểm sát thì bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật vẫn
được thi hành ngay sau khi tuyên án như: bị cáo bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm
quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội,…Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối
với quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Tòa án không làm ảnh
hưởng tới hiệu lực thi hành quyết định này (khoản 3 điều 316 BLTTHS)
Ngoài ra, kháng nghị của Viện kiểm sát còn dẫn tới hậu quả Tòa án cấp sơ
thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng nghị cho Tòa án phúc thẩm trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày hết hạn kháng nghị. Việc gửi hồ sơ vụ án và kháng nghị cho Tòa án
phúc thẩm là cần thiết và phải được thực hiện một cách nhanh chóng.
8. Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
a. Bổ sung, thay đổi kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Theo quy định tại khoản 1 điều 238 BLTTHS 2003 thì việc bổ sung, thay đổi
kháng nghị phúc thẩm được thực hiện trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Việc thay đổi, bổ sung kháng
nghị của Viện kiểm sát được quy định tại điểm 7.1 mục 7 phần I nghị quyết số
05/2005: “a) Trong trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định
tại Điều 234 của BLTTHS, thì người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có
quyền bổ sung, thay đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị đối với phần hoặc toàn bộ
bản án mà mình có quyền kháng cáo, kháng nghị theo hướng có lợi hoặc không có
lợi cho bị cáo.
Trong trường hợp người kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ
kháng cáo, kháng nghị nhưng sau đó có kháng cáo, kháng nghị lại mà vẫn còn trong
6
thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo
thủ tục chung.
b) Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều
234 của BLTTHS, thì trước khi bắt đầu hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng
cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi nội dung kháng cáo,
kháng nghị, nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”.
Như vậy, trước khi hết thời hạn kháng nghị (trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa
phúc thẩm), Viện kiểm sát có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị theo nguyên tắc
“không làm xấu đi tình trạng của bị cáo”. Hiểu điều luật này là, Viện kiểm sát đã
kháng nghị theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo so với quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm thì không được bổ sung hoặc thay đổi theo hướng tăng nặng cho bị cáo, nếu đã
kháng nghị theo hướng tăng nặng thì không được bổ sung hình phạt khác hoặc thay
đổi bằng loại hình phạt khác nặng hơn.
b. Rút kháng nghị phúc thẩm.
Cùng với việc quy định cho Viện kiểm sát có quyền kháng nghị thì BLTTHS
2003 cũng quy định cho Viện kiểm sát có quyền rút kháng nghị đó. Theo điều 238
BLTTHS 2003, sau khi kháng nghị Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền rút một
phần hoặc toàn bộ kháng nghị đó trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm.
Mặc dù điều luật không quy định rõ chủ thể có thẩm quyền rút kháng nghị nhưng có
thể hiểu là Viện kiểm sát đã kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của
Viện kiểm sát đó có quyền rút kháng nghị phúc thẩm là khoảng thời gian được tính
như việc bổ sung, thay đổi kháng nghị.
Trong trường hợp, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước khi bắt đầu hoặc
tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ (khoản 2 điều 238
BLTTHS 2003).
Quy định về việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị tại điều 238 BLTTHS 2003
tạo điều kiện để Viện kiểm sát có thẩm quyền đề đạt yêu cầu của mình cũng như kịp
thời thay đổi những nội dung kháng nghị chưa thỏa đáng góp phần hạn chế chi phí tố
tụng, giảm số lượng án cấp phúc thẩm phải xét xử lại. Tuy nhiên, quy định về bổ
sung, thay đổi, rút kháng nghị tại điều 238 BLTTHS 2003 chưa cụ thể dẫn đến nhiều
cách hiểu và các cách áp dụng khác nhau.
III.
THỰC TIỄN THỰC HIỆN VIỆC KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC
PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
Một số tiến bộ đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm:
-. Số lượng kháng nghị phúc thẩm tăng lên: Từ 1/6/2008 đến 31/5/2010, các đơn vị
trong toàn Ngành đã kháng nghị phúc thẩm đối với 2384 vụ án hình sự, tính trung
bình 1 năm là 1192 vụ. Số lượng kháng nghị phúc thẩm này cao hơn đáng kể so với
7
thời điểm trước nếu như năm 2005 là 921 kháng nghị, năm 2006 là 1013 và năm
2007 là 988 kháng nghị. Bên cạnh đó, tình trạng có những “điểm trống” về kháng
nghị cũng dần được khắc phục. Một điểm nữa đáng được ghi nhận là số kháng nghị
trên cấp đã tăng lên rõ rệt. Riêng năm 2009 và 6 tháng đầu năm 2010, các Viện phúc
thẩm 1, 2, 3 và các Viện kiểm sát cấp Tỉnh đã ban hành được 479 kháng nghị phúc
thẩm trên cấp. Một số đơn vị như các Viện phúc thẩm 1, 2, 3 và Phòng 3 ở nhiều
Viện kiểm sát cấp tỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Hải Dương,…đã trực
tiếp hoặc tham mưu ban hành được số kháng nghị phúc thẩm trên cấp tăng gấp nhiều
lần những năm trước.
-. Chất lượng kháng nghị phúc thẩm tăng lên: Hiện nay, nhìn chung các bản kháng
nghị phúc thẩm đã phát hiện đúng vi phạm; kháng nghị đã chính xác hơn; cách viết
kháng nghị tốt hơn; lập luận rõ ràng, chặt chẽ hơn; viện dẫn chính xác hơn các căn
cứ pháp lý; về hình thức đã đảm bảo theo quy định, ít thiếu sót hơn. Do chất lượng
kháng nghị được nâng lên, nên số kháng nghị được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo
vệ và số kháng nghị được Tòa án chấp nhận cũng tăng lên rõ rệt. Trong 3 năm 20012003 trung bình cấp phúc thẩm bảo vệ kháng nghị đối với 67% số bị cáo có kháng
nghị phúc thẩm, trong ba năm tiếp theo từ 2004-2006 là 77,2%. Từ năm 2008-2010,
tỷ lệ này đã tăng lên 89,2%. Số lượng kháng nghị phúc thẩm trên cấp thời gian qua
không những tăng về số lượng mà đa số có chất lượng rất tốt. Kháng nghị phúc thẩm
của các Viện phúc thẩm 1, 2, 3 thường được Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận với
tỷ lệ khá cao, nhiều thời điểm đạt tỷ lệ 100%. Trong thời điểm từ 1/7/2008 đến
31/5/2010, phòng 3 Viện kiểm sát TP. Hồ Chí Minh kháng nghị trên cấp 30/34 bị
cáo, qua xét xử Tòa án chấp nhận 87,5%; kháng nghị phúc thẩm trên cấp của Viện
kiểm sát tỉnh Hưng Yên được Tòa án chấp nhận 100%;…
Một số thiếu sót tồn tại trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự:
Ở nhiều nơi, Viện kiểm sát lại lúng túng trong việc xác định vi phạm cần kháng
nghị phúc thẩm nên gặp trường hợp vi phạm lặt vặt, chỉ cần rút kinh nghiệm là đủ,
Viện kiểm sát vẫn kháng nghị, về sau rất khó bảo vệ quan điểm tại phiên phúc thẩm.
Thậm chí nhiều vụ tòa sơ thẩm đã xử đúng, Viện kiểm sát lại đánh giá sai nên kháng
nghị không chính xác.
Số lượng án kháng nghị chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số án cấp phúc thẩm thụ lý,
xét xử (trong khi đó lượng án cải sửa do kháng cáo chiếm tỷ lệ cao từ 15% đến 20%
số vụ án xét xử phúc thẩm). Một số vụ án có sai sót hoặc bị huỷ án, cải sửa án nhưng
không được xem xét để kháng nghị. Một số vụ án Kiểm sát viên được phân công
thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ, hậu
quả hành vi phạm tội, dư luận xã hội và yêu cầu nhiệm vụ chính trị địa phương nên
đề nghị mức hình phạt không sát đúng, hoặc chưa thực hiện nghiêm quy chế nghiệp
vụ cũng như công tác kiểm sát bản án do đó có nhiều bản án sai sót, xét xử không
8
nghiêm minh, ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Một số vụ
án Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm hình sự chưa nắm vững các quy định của pháp luật dân sự, chưa chú trọng
trọng trong việc đề xuất phần dân sự nên không phát hiện được những vi phạm của
Toà án để kháng nghị kịp thời. Một số Viện kiểm sát trong nhiều năm liền không có
kháng nghị phúc thẩm hình sự
Hình thức và nội dung kháng nghị còn một số tồn tại, thiếu sót: Một số kháng
nghị không đảm bảo đúng theo mẫu quy định của VKSND tối cao; ký hiệu văn bản
không thống nhất; dùng từ thiếu chặt chẽ hoặc không đúng về mặt pháp lý; nội dung
kháng nghị chưa đi sâu phân tích đánh giá tính chất, mức độ hậu quả của hành vi
phạm tội, mà đề cập một cách chung chung; đề nghị không cho bị cáo hưởng án treo
không có căn cứ, tính thuyết phục không cao...
IV. KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM.
1. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Hiện nay, BLTTHS 2003 chưa quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Tuy nhiên, để thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm đảm bảo tính có căn cứ và tính
thống nhất VKSNDTC đã ban hành Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày
17/9/2007 của Viện trưởng VKSNDTC, trong đó khoản 1 điều 33 đã quy định về
căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự. Để các căn cứ này có cơ sở pháp lý rõ ràng,
tạo điều kiện thực hiện cho việc kháng nghị phúc thẩm trong thực tiễn, cần bổ sung
một điều luật quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự giống như điều 273,
điều 291 BLTTHS 2003 trên các cơ sở các căn cứ được quy định tại khoản 1 điều 33
Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Theo em, có
thể bổ sung điều luật về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự như sau:
“ Điều…Những căn cứ kháng nghị phúc thẩm:
Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ;
2. Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các
tình tiết khách quan của vụ án;
3. Có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự;
4. Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm
nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.”
Đồng thời, cũng cần ban hành một văn bản hướng dẫn cụ thể về cách hiểu các
căn cứ kháng nghị trong phúc thẩm tố tụng hình sự đã được quy định nhằm áp dụng
thống nhất các quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm tố tụng hình sự, tránh tình
9
trạng kháng nghị tràn lan không cần thiết hoặc bỏ sót những vi phạm mà không
kháng nghị phúc thẩm.
2. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm.
BLTTHS năm 2003 quy định về thời hạn kháng nghị trong phúc thẩm hình sự là
hợp lý, bên canh đó Nghị quyết 05/2005/NĐ-HĐTP tại mục 4 phần I hướng dẫn về
điều 234 BLTTHS năm 2003 đã hướng dẫn rất cụ thể và chi tiết thời điểm bắt đầu và
thời điểm kết thúc của thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Theo quy định tại khoản 1 điều 234 BLTTHS 2003: “Thời hạn kháng nghị của
Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba
mươi ngày, kể từ ngày tuyên án”. Đồng thời, điều 299 BLTTHS quy định “trong
thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho
bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp…”. Việc quy định đồng thời hai quy định tại hai điều
luật trên tồn tại những điểm chưa hợp lý. Việc quy định thời hạn giao bản án ảnh
hưởng rất lớn đến việc thực hiện quyền kháng nghị của Viện kiểm sát, ảnh hưởng
đến việc đảm bảo thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát. Để giải quyết
vấn đề này, có thể đưa ra một số hướng giải quyết như sau: Thứ nhất, kéo dài thời
hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và của Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp. Thứ hai, thay đổi quy định về cách tính thời điểm bắt đầu thời
hạn kháng nghị phúc thẩm, quy định thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị là
“kể từ ngày nhận được bản án” thay vì “kể từ ngày tuyên án” như hiện nay. Thứ ba,
rút ngắn thời hạn gửi bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi
bản án cho Viện kiểm sát trong thời hạn 5 ngày thay cho thời hạn 10 ngày như hiện
nay kể từ ngày tuyên án. Cách giải quyết theo hướng thứ nhất và hướng thứ hai là
không khả thi. Việc kéo dài thời hạn kháng nghị phúc thẩm cũng như thay đổi cách
xác định thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị như trên sẽ kéo dài thời gian
giải quyết vụ án, chi phí tốn kém, kéo dài thời gian bản án bắt đầu có hiệu lực pháp
luật, ảnh hưởng đến việc thi hành bản án hoặc quyết định. Vì vậy, hướng giải quyết
thứ ba là rút thời hạn giao bản án của Tòa án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát là một
giải pháp hợp lý và khả thi hơn cả. Bởi, thực tế xét xử hiện nay khá phổ biến tình
trạng bản án tuyên tại phiên tòa là bản án được dự thảo sẵn, sau khi kết thúc phiên
tòa Thẩm phán- chủ tọa phiên tòa có sự “sửa chữa” về hình thức và nội dung, do đó
mà không quá mất nhiều thời gian. Mặt khác, mỗi Thẩm phán đều có thư ký giúp
việc từ khi chuẩn bị mở phiên tòa, tại phiên tòa và sau phiên tòa, nên việc giao bản
án sau phiên tòa càng thuận lợi hơn. Đồng thời, việc đó góp phần giúp tăng cường
trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm, giúp cho vụ án được giải quyết nhanh chóng.
Do đó, theo quan điểm của cá nhân, em nghĩ nên sửa đổi đoạn 1 điều 299 BLTTHS
năm 2003 theo hướng sau: “Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án
cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa”.
3. Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
10
Theo quy định tại điều 232 BLTTHS 2003, thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm thuộc về Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Quy
định như vậy dẫn đến hai bất cập, đó là: -. Không xác định được trách nhiệm chính,
chủ yếu trong việc phát hiện sai sót của các bản án, quyết định sơ thẩm để kháng
nghị kịp thời là của Viện kiểm sát cùng cấp hay Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. -.
Quy định này dẫn đến tình trạng cả Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp cùng kháng nghị về cùng một bản án, quyết định sơ thẩm. Trong suốt
quá trình điều tra vụ án, mặc dù Viện kiểm sát cấp trên có nhận báo cáo của Viện
kiểm sát cấp dưới nhưng những thông tin đó về cơ bản cũng chỉ là những thông tin
để Viện kiểm sát theo dõi, chỉ đạo chung chứ Viện kiểm sát cấp trên không đủ
người, không đủ thời gian để chỉ đạo các hoạt động kiểm sát điều tra, truy tố. Mặt
khác, Viện kiểm sát cùng cấp là cơ quan tiến hành tố tụng ngay khi khởi tố vụ án và
tham gia cho tới khi kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm nên Viện kiểm sát cùng cấp
nắm bắt được bản chất vụ việc và đánh giá được tính đúng đắn, hợp pháp hay không
của bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Vì vậy, nên quy định trách nhiệm chính trong
việc phát hiện kịp thời bản án, quyết định sơ thẩm trái pháp luật là của Viện kiểm sát
cùng cấp với Tòa án xét xử sơ thẩm, cụ thể là Kiểm sát viên trực tiếp thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án đó. Đồng thời, cũng cần xác định trách
nhiệm của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp trong việc phát hiện những sai sót và
kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm.
Mặt khác, điều 232 BLTTHS 2003 quy định chủ thể có quyền kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm là Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Quy định như vậy là không rõ ràng. Điều luật nên sửa đổi như sau: “Viện kiểm sát
cùng cấp với Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp của Viện kiểm sát đó có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ
thẩm”.
4. Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm.
Điều 230 BLTTHS 2003 quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm: “Xét xử
phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định
sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật
bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. BLTTHS 2003 chưa có quy định về đối tượng của
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Điều này gây khó khăn cho việc xác định chính
xác đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự.
Theo quy định của điều 239 BLTTHS 2003, thì Viện kiểm sát có thể kháng
nghị đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, tuy nhiên không có quy định xác
định rõ đó là những quy định nào. Để có cách áp dụng thống nhất cần sửa đổi quy
định tại điều 239 BLTTHS theo hướng xác định cụ thể quyết định sơ thẩm nào có
thể được kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
5. Trách nhiệm thông báo kháng nghị của Tòa án.
11
Điều 236 BLTTHS 2003 quy định “Tòa án cấp sơ thẩm” có trách nhiệm
thông báo kháng nghị. Quy định này chưa thật chính xác, dễ gây hiểu lầm vì tòa án
cấp sơ thẩm gồm có tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án nhân dân cấp huyện. Vì vậy,
nên xác định rõ “Tòa án đã xét xử sơ thẩm” mới có trách nhiệm thông báo kháng
nghị cho những người tham gia tố tụng biết.
Mặt khác, người tham gia tố tụng có phạm vi rất rộng, vậy nên quy định tòa án
có trách nhiệm thông báo kháng nghị cho những người tham gia tố tụng tại điều 236
BLTTHS chưa hợp lý. Theo em, Tòa án chỉ cần thông báo cho bị cáo, người có
quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị phúc thẩm. Vì thế, có thể sửa đổi
khoản 1 điều 236 BLTTHS 2003 với nội dung như sau: “Việc kháng nghị phải được
Tòa án xét xử sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho bị cáo và những người có quyền
và nghĩa vụ liên quan tới kháng nghị biết trong thời hạn bảy ngày”.
6. Bổ sung, thay đổi và rút kháng nghị phúc thẩm.
Thứ nhất, việc bổ sung, thay đổi kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình
trạng của bị cáo; có thể rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị được Viện kiểm sát
thực hiện trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm (khoản 1 điều 238
BLTTHS 2003). Vậy hiểu thế nào là “trước khi bắt đầu” hoặc “tại phiên tòa”?
Hiện nay còn nhiều cách hiểu khác nhau. “Trước khi bắt đầu” có thể là ngay tại
phiên tòa trước khi bắt đầu xét xử nhưng cũng có thể hiểu là một giai đoạn từ khi có
kháng nghị đến khi bắt đầu phiên tòa. Còn quy định “tại phiên tòa” có thể hiểu là
bất kỳ thời điểm nào trong phiên tòa trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Do đó, cần
sửa đổi, bổ sung quy định chính xác, rõ rang và chặt chẽ hơn.
Thứ hai, cần hiểu và áp dụng quy định “Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi
kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của vị cáo” như thế nào cho
đúng? Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của bị cáo, quy định này cho phép Viện kiểm
sát bổ sung, thay đổi kháng nghị kể cả khi hết thời hạn nếu sự thay đổi đó không làm
xấu hơn tình trạng của bị cáo so với kháng nghị cũ. Vậy nếu trong thời hạn kháng
nghị vẫn còn thì Viện kiểm sát có quyền có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị theo
hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo không? Điều này là hoàn toàn có thể bởi
đây là thời hạn luật định cho họ có toàn quyền quyết định đối với nội dung kháng
nghị của mình do đó Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị theo bất
kỳ hướng nào mà không bi ràng buộc bởi nguyên tắc “không làm xấu hơn tình trạng
của bị cáo”. Nếu thời hạn kháng nghị đã hết thì lúc này Viện kiểm sát muốn bổ
sung, thay đổi kháng nghị phải tuân theo nguyên tắc “không làm xấu hơn tình trạng
của bị cáo” để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa.
Từ những phân tích trên, có thể sửa đổi khoản 1 điều 238 BLTTHS như sau:
“Từ khi có kháng nghị đến trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
trước khi Hội đồng xét xử nghị án, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền bổ
sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị; khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị việc
12
bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị không được làm xấu hơn tình trạng của bị
cáo; có thể rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị”.
Ngoài ra, BLTTHS 2003 cũng chưa quy định về việc triệu tập những người có
liên quan mới xuất hiện khi kháng nghị phúc thẩm được sửa đổi, bổ sung. Đây là
một khiếm khuyết mà pháp luật chưa đề cập tới. Trường hợp việc sửa đổi, bổ sung
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được tiến hành trong thời hạn thì sau khi chấp
nhận kháng nghị bổ sung, Tòa án cấp phúc thẩm có thể thông báo kháng nghị tới
những người liên quan. Nhưng trong trường hợp khi đã hết thời hạn kháng nghị, đặc
biệt là tại phiên tòa phúc thẩm mà Viện kiểm sát có sửa đổi, bổ sung kháng nghị dẫn
đến việc mở rộng phạm vi người có liên quan thì vấn đề này pháp luật chưa quy
định. Nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp những người tham gia tố tụng, tạo
điều kiện cho họ tham gia phiên tòa phúc thẩm để bảo vệ quyền lợi của mình thì cần
phải quy định thêm về việc triệu tập những người có liên quan đến kháng nghị. Vì
thế, có thể quy định thêm một khoản 3 vào điều 238 BLTTHS 2003 với nội dung
như sau: “Nếu việc sửa đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị dẫn đến việc phải triệu
tập thêm những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được sửa đổi, bổ
sung thì phải triệu tập những người đó tham gia phiên tòa, trong trường hợp cần
thiết thì phải hoãn phiên tòa”.
V. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ.
Một là, nâng cao năng lực, trình độ của các kiểm sát viên làm nhiệm vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Đây là yếu tố hết sức quan trọng cho việc
đảm bảo phát hiện nhanh chóng vi phạm của Tòa án ngay tại phiên tòa sơ thẩm và
sau khi tuyên án làm cơ sở cho việc quyết định kháng nghị. Kiểm sát viên được giao
nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ phải chuẩn bị nội dung tham vấn, dự kiến các tình huống
có thể xảy ra tại phiên tòa phúc thẩm để xác định nội dung tranh luận. Đối với các
vụ án phức tạp, kiểm sát viên phải chú ý xem xét hiện trường, nếu cần thỉ tổ chức
đối chất, phúc cung để làm rõ các tình tiết mà kiểm sát viên băn khoăn. Khi phát
hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng mà thời hạn kháng nghị
phúc thẩm đã hết thì phải báo cáo ngay lên Viện kiểm sát cấp trên để xem xét theo
thẩm quyền. Ngoài ra, để nâng cao trình độ, năng lực, mỗi kiểm sát viên phải tự
nghiên cứu, học hỏi, nắm vững các căn cứ pháp luật, các văn bản hướng dẫn pháp
luật, qua thực tiễn công tác để đúc rút kinh nghiệm. Bên cạnh đó, có thể tổ chức các
buổi tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng,…để cập nhật và nâng cao kiến thức cho đội ngũ
kiểm sát viên làm công tác này. Thực tế cho thấy, ở những vụ án mà kiểm sát viên
có năng lực, trình độ nghiệp vụ chuyên sâu, có ý thức, trách nhiệm nghề nghiệp, có
sự đầu tư nghiên cứu thận trọng và khách quan, phát hiện bổ sung kịp thời những
thiếu sót vi phạm về chứng cứ, về tố tụng thì ít có sai sót xảy ra.
13
Hai là, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản giải thích, hướng dẫn
áp dụng BLHS, BLTTHS và các quy định của pháp luật có liên quan. Ngoài ra, có
thể tuyển tập các bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm có tính phổ biến và được coi là
chuẩn mực về pháp lý trong cả nước để in thành sách, phổ biến phạm vi cả nước làm
tài liệu tham khảo cho các cơ quan tư pháp.
Ba là, tổ chức thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử tại phiên tòa cũng như sau phiên tòa nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm của bản
án sơ thẩm để kháng nghị. Tập trung kháng nghị các bản án có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng, các bản án áp dụng điều khoản của Bộ luật không chính xác,
các bản án có mức xử phạt chênh lệch đáng kể giữa quan điểm truy tố của Viện
kiểm sát và quyết định trong bản án của Tòa án. Đối với các trường hợp, Tòa án xét
xử khác với quan điểm Viện kiểm sát truy tố và bảo vệ tại phiên tòa, phải kịp thời
xem xét rút kinh nghiệm. Nếu thấy việc truy tố là đúng thì phải kiên quyết sử dụng
quyền năng kháng nghị phúc thẩm để bảo vệ quan điểm truy tố.
Tư là, khi ban hành kháng nghị phải chú ý đảm bảo chặt chẽ từ hình thức đến
nội dung và đúng thủ tục, thời hạn pháp luật quy định. Hình thức kháng nghị phải
thực hiện đúng mẫu quy định (mẫu số 138 ban hành kèm theo Quyết định số
960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng VKSNDTC). Nội dung
kháng nghị phải bám sát vào căn cứ để kháng nghị như án sơ thẩm có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, áp dụng không đúng điều khoản của BLHS, BLTTHS
và các văn bản pháp luật có liên quan,…Kháng nghị phải phân tích rõ vi phạm của
bản án sơ thẩm, đối chiếu với các quy định cụ thể của điều luật và các văn bản
hướng dẫn thực hiện. Đối với vụ án có nhiều bị cáo bị kháng nghị phải phân tích vai
trò tham gia thực hiện tội phạm và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân
của từng bị cáo, đánh giá một cách toàn diện các căn cứ, cơ sở quyết định hình phạt
để đề xuất việc xử lý đối với từng trường hợp cụ thể. Nội dung kháng nghị không
nên đề cập chung chung, không phân tích rõ căn cứ làm cơ sở của kháng nghị.
Năm là, tăng cường mối quan hệ giữa hai cấp Kiểm sát và sự chỉ đạo của Viện
kiểm sát cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới trong công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự. Viện kiểm sát hai cấp cần tăng cường việc phối hợp trao đổi thông tin,
báo cáo về các trường hợp cần cần kháng nghị phúc thẩm. Viện kiểm sát cấp trên
phải thường xuyên rút kinh nghiệm về những thiếu sót, hạn chế của từng kháng nghị
phúc thẩm không được Tòa án chấp nhận hoặc rút kháng nghị.
Sáu là, nâng cao phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp đối với kiểm sát
viên, thẩm phán. Thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm thông qua các vụ án cụ thể
trong từng đơn vị, trong toàn ngành. Đặc biệt là Viện kiểm sát chủ động phối hợp
cùng với Tòa án để rút kinh nghiệm chung về các vụ án có kháng nghị.
Bảy là, tiếp tục tăng cường nguồn nhân lực về con người cũng như về cơ sở
vật chất, kinh phí, trang thiết bị, phương tiện làm việc phục vụ cho công tác thực
14
hành công tố và kiểm sát xét xử hình sự để đáp ứng yều cầu cải cách tư pháp hiện
nay.
C. KẾT LUẬN.
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam là một chế
định có vai trò quan trọng đối với những người tham gia tố ụng và toàn xã hội. Hiện
nay, pháp luật tố tụng ngày càng được hoàn thiện hơn, những quyết định kháng nghị
phúc thẩm đã đảm bảo chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế bất
cập; vì vậy cần sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị, đảm bảo
hoạt động này đạt được mục đích, ý nghĩa trên thực tế.
Tổng hợp việc sửa đổi, bổ sung điều luật về kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong tố tụng hình sự:
Bổ sung điều luật về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự như sau:
“ Điều…Những căn cứ kháng nghị phúc thẩm:
Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ;
2. Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các
tình tiết khách quan của vụ án;
3. Có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự;
4. Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm
nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.”
Sửa đổi đoạn 1 điều 299 BLTTHS năm 2003 theo hướng sau: “Trong thời hạn
năm ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo,
Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa”.
Sửa đổi điều 232 BLTTHS 2003:“Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã ra bản
án hoặc quyết định sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát đó
có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm”.
Sửa đổi khoản 1 điều 236 BLTTHS 2003 với nội dung như sau: “Việc kháng
nghị phải được Tòa án xét xử sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho bị cáo và những
người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới kháng nghị biết trong thời hạn bảy ngày”.
Sửa đổi khoản 1 điều 238 BLTTHS như sau: “Từ khi có kháng nghị đến trước
khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm trước khi Hội đồng xét xử nghị
án, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo,
kháng nghị; khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị việc bổ sung, thay đổi kháng
15
cáo, kháng nghị không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; có thể rút một phần
hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị”.
Quy định thêm một khoản 3 vào điều 238 BLTTHS 2003 với nội dung như sau:
“Nếu việc sửa đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị dẫn đến việc phải triệu tập thêm
những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được sửa đổi, bổ sung thì phải
triệu tập những người đó tham gia phiên tòa, trong trường hợp cần thiết thì phải
hoãn phiên tòa”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam- trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
3. Nghị quyết số 05/2005/NĐ-HĐTP của TANDTC ngày 8/12/2005 hướng dẫn thi
hành một số quy định trong phần thứ tư “xét xử phúc thẩm” của BLTTHS.
4. Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự ban hành theo quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện
trưởng VKSNDTC.
5. “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”- Trần
Tuấn Anh, khóa luận tốt nghiệp, 2010.
6. “Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân”- Phạm Hồng Hải, tạp chí Kiểm sát số
22/2005, tr.20-23.
7. “Một số vấn đề rút ra qua công tác giải quyết án có kháng nghị phúc thẩm hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc”- Lê Thanh
Hùng, tạp chí Kiểm sát số 22/2005, tr.7-12.
8. “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự”Đỗ Văn Đương, tạp chí Kiểm sát số 22/2005.
9. “Những giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
cấp quận, huyện”, tạp chí kiểm sát số 22/2005.
10. “Nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân”- Dương Thanh Biểu, tạp chí Kiểm sát số
4/2008, tr.3-10.
11. “Những vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật về kháng nghị phúc
thẩm hình sự”- Trần Văn Trung, tạp chí Kiểm sát số 4/2008, tr.27-31.
16
12. “Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự”- khóa luận tốt nghiệp.
13. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002
14. “Những kết quả đạt được qua hai năm thực hiện Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTCVPT1 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác
kháng nghị phúc thẩm hình sự”- Nguyễn Hoài Nam, tạp chí Kiểm sát số 16/2010, tr.
9-15.
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................1
B. NỘI DUNG....................................................................................................1
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC
PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................................1
II. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM.......................1
1. Đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.....................................1
2. Chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm...............................2
3. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.................................................3
4. Hình thức, thủ tục kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm..............................4
5. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm..............................................4
6. Thông báo về việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm..............................5
7. Hậu quả của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.......................................5
8. Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm........................6
III. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VIỆC KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC
PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................................7
IV. KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC
THẨM..................................................................................................................9
1. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự.........................................................9
2. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm.................................................................10
3. Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm......................................10
17
4. Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm.........................................................11
5. Trách nhiệm thông báo kháng nghị của Tòa án........................................11
6. Bổ sung, thay đổi và rút kháng nghị phúc thẩm........................................12
V. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................................................13
C. KẾT LUẬN.................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................16
18
- Xem thêm -