Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...

Tài liệu Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

.DOC
93
1
118

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...................................................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự........................................................................................... 6 1.1.1. Khái niệm biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.......................6 1.1.2. Đặc điểm của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.................8 1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 10 1.2. Cơ sở quy định biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.............11 1.2.1. Cơ sở lý luận........................................................................................... 11 1.2.2. Cơ sở thực tiễn........................................................................................ 13 1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự . 14 1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa..................................... 14 1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.............................................................................................. 16 1.3.3. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân.....17 1.4. Phân biệt biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự với biện pháp kê biên tài sản trong các ngành luật khác........................................................ 18 Kết luận Chƣơng 1............................................................................................... 24 CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN................................................................................... 25 2.1. Sơ lƣợc lịch sử các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp kê biên tài sản..................................................................................................... 25 2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp kê biên tài sản.................................................................................................................. 27 2.2.1. Thẩm quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự....27 2.2.2. Đối tượng bị kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.................................29 2.2.3. Tài sản bị kê biên và phạm vi kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.......32 2.2.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 34 2.2.5. Các trường hợp hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 39 Kết luận Chƣơng 2............................................................................................... 41 CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN.............................................................. 43 3.1. Khái quát tình hình áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự......................................................................................................................... 43 3.2. Những hạn chế, vƣớng mắc khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự................................................................................................... 46 3.2.1. Về thẩm quyền kê biên tài sản trong tố tụng hình sự..............................46 3.2.3. Về đối tượng bị kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.............................48 3.2.3. Về phạm vi kê biên tài sản trong tố tụng hình sự....................................51 3.2.4. Về quản lý tài sản kê biên trong tố tụng hình sự..................................... 54 3.2.5. Về thủ tục kê biên tài sản trong tố tụng hình sự...................................... 57 3.2.6. Về hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.....................58 3.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về kê biên tài sản trong tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng............................................................. 60 3.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.............................................................................................................. 60 3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự...................................................................................................... 62 Kết luận Chƣơng 3............................................................................................... 66 KẾT LUẬN............................................................................................................ 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 1 PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, để bảo đảm cho các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế. Kê biên tài sản (KBTS) là một trong những biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm cho việc thi hành án về phạt tiền, tịch thu tài sản, hoặc bồi thường thiệt hại được thuận lợi. Việc kê biên tài sản có thể được tiến hành trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để kê khai, ghi lại từng loại tài sản, giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản; nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, phá hủy tài sản, đảm bảo cho việc xét xử, thi hành bản án và các quyết định của cơ quan nhà nước được thuận lợi, đúng pháp luật. Trong thời gian vừa qua, việc KBTS để đảm bảo thi hành án đóng vai trò là biện pháp cưỡng chế đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng biện pháp này trên thực tế đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; đảm bảo tính hiệu quả của các quyết định tố tụng. Có thể nói các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kê biên tài sản nhằm hạn chế việc bị can, bị cáo và người thân của họ có hành vi tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà nước, gây khó khăn cho công tác thi hành án sau này. Đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân với mục đích cuối cùng là bảo đảm hiệu lực thi hành trên thực tế các bản án quyết định của Tòa án. Tuy nhiên quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp này vẫn còn hạn chế như: thẩm quyền, thời hạn, thủ tục, trình tự ban hành, giám sát cũng như quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền áp dụng. Do đó, việc nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nhằm chỉ ra những bất cập và đưa ra kiến nghị hoàn thiện đối với biện pháp cưỡng chế này là việc làm hết sức cần thiết. Chính vì lý do đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thông qua quá trình tìm hiểu, tác giả nhận thấy liên quan trực tiếp đến biện pháp kê biên tài sản đã có một số công trình nghiên cứu sau đây: 2 - Thứ nhất, Biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự của ThS. Nguyễn Mai Bộ do NXB Tư pháp, xuất bản năm 2004. Đây là cuốn sách chuyên khảo viết về các biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biên tài sản. Biện pháp kê biên tài sản được tác giả phân tích và đánh giá qua góc độ pháp luật: đối tượng kê biên, tài sản kê biên, thẩm quyền kê biên và xử lý tài sản kê biên theo BLTTHS. Ấn phẩm này đã có những đánh giá pháp lý chuyên sâu về biện pháp kê biên tài sản trong bộ luật tố tụng hình sự tuy nhiên lại chưa hề có sự đánh giá, phân tích trên cơ sở thực tiễn. Mặt khác, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong BLTTHS năm 2015 đã có nhiều quy định khác so với BLTTHS năm 2003 vì vậy cần những đánh giá, phân tích phù hợp hơn ở thời điểm hiện tại dựa trên những đánh giá, phân tích sau quá trình áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự trên thực tiễn. - Thứ hai, sách chuyên khảo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, Nxb Hồng Đức. Đây là giáo trình phục vụ việc giảng dạy, học tập của giáo viên và sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật, vì vậy công trình nghiên cứu bình luận chuyên sâu về các quy định của BLTTHS năm 2015, trong đó có các quy định về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, nội dung của tác phẩm chỉ dừng lại các điều luật trong BLTTHS năm 2015 chứ chưa phân tích, đánh giá, bình luận một cách toàn diện các quy định về biện pháp kê biên tài sản trong lịch sử pháp lý về biện pháp kê biên tài sản, các nghị định có liên quan cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế này. Trên tinh thần tiếp thu các kết quả nghiên cứu trong tác phẩm này, tác giả sẽ tiếp tục phát triển, mở rộng, phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, chi tiết hơn các quy định của pháp luật có liên quan về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. - Thứ ba, bài viết “Một số vấn đề về kê biên tài sản trong vụ án hình sự” của tác giả Hoàng Văn Mạnh và Hứa Thị Mai Hương đăng trên tạo chí Kiểm sát, số 11/2020. Đây là một bài viết liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài. Tuy nhiên, bài viết chỉ mới đi sâu phân tích bất cập trong các quy định pháp luật về các loại tài sản không được kê biên, thẩm quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản chứ chưa đánh giá một cách toàn diện toàn bộ quá trình thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Luận văn sẽ kế thừa kết quả nghiên cứu trong bài viết này và tiếp tục mở rộng, phát triển để nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. 3 - Thứ tư, Kê biên tài sản trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần Nguyệt Thu, năm 2018. Đây là công trình trực tiếp nghiên cứu về kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Tác giả Trần Nguyệt Thu đã có những phân tích, đánh giá đi sâu vào quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện biện pháp này. Tuy nhiên, luận văn còn chưa đi sâu nghiên cứu về: các loại tài sản được kê biên, tài sản không được kê biên, về thẩm quyền thi hành lệnh kê biên, về vấn đề bảo quản tài sản kê biên, về vấn đề quyền của người bảo quản tài sản… Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của tác phẩm trên, tác giả sẽ nghiên cứu, bổ sung và kiến nghị để hoàn thiện biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến các biện pháp cưỡng chế nói chung, biện pháp kê biên tài sản nói riêng nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn chuyên sâu về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Vì vậy, dựa trên cơ sở những kiến thức của các công trình khoa học nêu trên, việc nghiên cứu chuyên sâu về áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự là cần thiết, không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu chính của luận văn là những hạn chế trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp kê biên tài sản và thực tiễn áp dụng; từ đó đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu đã xác định ở trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Phân tích, làm rõ một số vấn đề mang tính chất lý luận về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự; - Làm rõ những vấn đề pháp lý về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự; - Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và xác định nguyên nhân. 4 - Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự và bảo đảm thực hiện. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự với đặc điểm là một trong các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn chỉ phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tập trung vào BLTTHS năm 2015, về biện pháp kê biên tài sản xoay quanh các vấn đề như: Thẩm quyền, đối tượng, thủ tục áp dụng và hủy bỏ việc áp dụng. Luận văn không nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Về không gian và thời gian: Luận văn khảo sát thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản trên phạm vi cả nước giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, phỏng vấn chuyên gia và phương pháp nghiên cứu án điển hình. Thứ nhất, phương pháp phân tích và tổng hợp là hai phương pháp chủ đạo, được sử dụng để phân tích các vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật liên quan đến biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt nội dung của mỗi chương và đưa ra kết luận chung cho toàn luận văn. Thứ hai, phương pháp so sánh: được sử dụng để đánh giá các quy định pháp luật về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự qua các thời kỳ. Thứ ba, phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp các quy định pháp luật có liên quan cũng như các số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản làm cơ sở dữ liệu để phân tích, đánh giá một cách toàn diện các vấn đề pháp lý và thực tiễn về kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Thứ tư, phương pháp phỏng vấn chuyên gia: được sử dụng để thu thập ý kiến đánh giá của các chuyên gia, đặc biệt là các chủ thể có thẩm quyền áp dụng 5 biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để đánh giá công tác áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Thứ năm, phương pháp nghiên cứu án điển hình: Được sử dụng để đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong Chương 3 của luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Do đó, nội dung của luận văn đáp ứng được điều kiện về tính mới cũng như có khả năng ứng dụng cao. Những kiến nghị của luận văn hy vọng sẽ đem lại kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật, góp phần bảo đảm cho hiệu quả khi áp dụng kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho sinh viên và những ai quan tâm đến vấn đề này. Mặt khác, với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường nguyên tắc pháp quyền trong quản lý nhà nước và cải cách hoạt động tư pháp hình sự thì luận văn sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm công việc thực tiễn như lực lượng công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương: Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp kê biên tài sản Chƣơng 3. Thực tiễn và áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện. 6 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, để bảo đảm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế: áp giải, 1 dẫn giải, kê biên tài sản (KBTS), phong tỏa tài khoản . Trong đó, biện pháp KBTS đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa bị can, bị cáo gây khó khăn cho hoạt động thi hành án hình sự. Nghiên cứu quy định của pháp luật có thể thấy vấn đề KBTS đã được quy định khá phổ biến trong các lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, khoản 6 Điều 114 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định “KBTS đang tranh chấp” là một biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo quản chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, khoản 3 Điều 71 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định “KBTS của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ” là một biện pháp để cưỡng chế thi hành án. Trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính, KBTS được quy định là một biện pháp cưỡng chế hành chính để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt với tên gọi “KBTS có giá trị tương 2 ứng với số tiền phạt để bán đấu giá” . Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 128 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) lại quy định KBTS là một biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt 1 Điều 126 BLTTHS năm 2015. 2 Điều 86 Luật XLVPHC năm 2012. 7 hại hoặc được áp dụng với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại. Mặc dù KBTS đã được nhiều ngành luật, trong đó có luật tố tụng hình sự quy định khá rõ ràng, tuy nhiên nghiên cứu một cách kỹ lưỡng thì không thấy có một quy định nào giải thích thuật ngữ “KBTS” là gì. Thiếu sót này đã gây ra nhiều khó khăn trong việc giải thích và vận dụng các quy định pháp luật có liên quan trong thực tiễn. Ở góc độ ngôn ngữ, theo định nghĩa của Giáo sư Nguyễn Lân trong Từ điển Từ và ngữ Việt Nam thì “kê biên” (kê: tính toán, biên: chép theo thứ tự) là việc 3 ghi lại mọi thứ theo thứ tự . Theo cách giải thích này, thuật ngữ kê biên chỉ mới được xem xét ở góc độ ghi ghép, kê khai tài sản một cách thông thường chứ chưa nêu ra được đặc trưng, bản chất của hoạt động kê biên dưới góc độ pháp lý. Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học, “kê biên” là kê ra danh mục tài sản có liên quan đến hành vi tội phạm để chờ xử lý theo pháp luật. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Đại học Luật Hà Nội thì giải thích “kê biên” là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy để đảm bảo cho việc 4 xét xử và thi hành án . Cách giải thích trong các thuật ngữ này bên cạnh thể hiện hình thức của việc kê biên đã đề cập đến tính chất pháp lý của hoạt động này. Tuy nhiên, các thuật ngữ này chỉ đề cập thuật ngữ “kê biên” dưới góc độ pháp luật hình sự mà chưa bao quát được các lĩnh vực pháp luật khác như thi hành án dân sự, xử lý vi phạm hành chính. Về mặt thuật ngữ, Từ điển Tiếng việt phổ thông định nghĩa “tài sản” là của 5 cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu . Theo Đại từ điển tiếng 6 Việt, “tài sản” là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng . Theo giải thích của Từ điển Bách khoa toàn thư, “KBTS” là một trong những biện 7 pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với tài sản của người vi phạm pháp luật . So với các giải thích nêu trên, cách giải thích này có tính bao quát nhất bởi không chỉ thể hiện về mặt hình thức mà còn thể hiện tính chất pháp lý cũng như sự bao quát các lĩnh vực pháp luật của hoạt động KBTS. 3 Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.913. 4 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân dân, tr.199. 5 Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb phương Đông, tr.811. 6 Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, tr.1483. 7 Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam - Tập 2, Nxb Từ điển bách khoa, tr. 467. 8 Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm KBTS trong luật tố tụng hình sự như sau:“KBTS trong tố tụng hình sự một trong những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự đối với tài sản của bị can, bị cáo phạm những tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm b i thường thiệt hại thông qua việc các cơ quan có thẩm quyền thực hiện kê khai, ghi lại từng loại tài sản, giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản, nghiêm cấm việc tẩu tán, phá hủy nhằm bảo đảm cho việc xét xử, thi hành án và việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhất định”. KBTS của bị can, bị cáo là việc tạm thời cấm giao dịch, chuyển đổi, định đoạt hoặc dịch chuyển tài sản của họ. Đây là biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với cá nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc để đảm bảo bồi thường thiệt hại. Khi KBTS, chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc phải bồi thường thiệt hại. Điều này có nghĩa các cơ quan có thẩm quyền sẽ kê biên đủ để phục vụ cho hoạt động thi hành án sau này dựa trên phán quyết của Tòa án về hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại để hạn chế tình trạng lạm dụng kê biên, tùy tiện khi kê biên ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo và những người có liên quan đến tài sản bị kê biên. 1.1.2. Đặc điểm của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự Từ khái niệm về biện pháp KBTS đã được trình bày ở trên, có thể đưa ra các đặc điểm của biện pháp này như sau: Thứ nhất, KBTS là một biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự. Cưỡng chế trong tố tụng hình sự là tổng thể các biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định, được cơ quan, người được trao quyền áp dụng theo thủ tục tố tụng hình sự, có nội dung hạn chế quyền tài sản của bị can, bị cáo buộc các chủ thể đó phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý những hành 8 vi vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội . KBTS là một trong những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 128 BLTTHS năm 2015. Biện pháp này được các chủ thể có thẩm quyền áp dụng để cưỡng chế đối với tài sản của bị can, bị cáo để buộc họ phải thi hành án hình sự. Thứ hai, đối tượng bị áp dụng biện pháp KBTS là bị can, bị cáo phạm các tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo 8Hoàng Thị Minh Sơn (2009) (chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 9 đảm bồi thường thiệt hại; pháp nhân bị khởi tố, truy tố xét xử về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền, bồi thường thiệt hại. Các bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS không quy định hình phạt tiền hoặc không bị tịch thu tài sản hoặc không buộc phải bồi thường thiệt hại thì không phải đối tượng áp dụng của biện pháp này. Bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng không thuộc đối tượng áp dụng của biện pháp này. Thứ ba, biện pháp KBTS được áp dụng với tài sản của bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, bồi thường thiệt hại. Hay hiểu cách khác, để việc thi hành án được thuận lợi, biện pháp KBTS áp dụng đối với đối tượng là tài sản của người phải thi hành án. Tài sản đó có thể đang do người phải thi hành án hoặc do người khác chiếm giữ. KBTS được áp dụng nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và đảm bảo sự bền vững trong các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Khi Tòa án ra bản án có hiệu lực thi hành, các tài sản đã kê biên trước đó có thể được dùng làm tài sản để thi hành án. Thứ tư, tài sản bị kê biên phải có giá trị tương đương với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại. Để hạn chế tình trạng các chủ thể có thẩm quyền kê biên một cách tùy tiện các tài sản của chủ thể vi phạm gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp đối với tài sản của họ thì khoản 3 Điều 128 BLTTHS năm 2015 quy định các chủ thể có thẩm quyền chỉ được KBTS của bị can, bị cáo tương ứng với số tiền đã ghi trong bản án. Đây là quy định hợp lý thể hiện sự tương xứng giữa tính chất của biện pháp cưỡng chế với nghĩa vụ mà chủ thể vi phạm phải thực hiện bởi lẽ mục đích của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự là để bảo đảm bản án hình sự được thi hành chứ không phải gây ra các thiệt hại cho bị can, bị cáo. Tuy nhiên, việc xác định tài sản nào có giá trị tương ứng với số tiền phạt là điều không hề đơn giản, thậm chí gây ra không ít khó khăn cho quá trình tổ chức áp dụng biện pháp cưỡng chế này, những bất cập về nội dung này sẽ được tác giả phân tích cụ thể trong nội dung của Chương 2. Thứ năm, chủ thể có thẩm quyền kê biên tài sản được quy định trong BLTTHS năm 2015. KBTS là một hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, khi áp dụng các biện pháp này, chủ thể có thẩm quyền nhân danh quyền lực của Nhà nước để ban hành các quyết định đơn phương buộc chủ thể vi phạm phải chấp hành. Với bản chất là hoạt động thực thi quyền lực của Nhà nước nên việc áp dụng biện pháp cưỡng chế 10 này phải do các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện. Theo đó, thẩm quyền áp dụng biện pháp KBTS được quy định tại khoản 2 Điều 128 Bộ luật BLTTHS năm 2015: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này (người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam): Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Thứ sáu, biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự được áp dụng theo trình tự, thủ tục chặt chẽ quy định bởi pháp luật tố tụng hình sự. Biện pháp KBTS được áp dụng theo thủ tục tố tụng hình sự bởi các lý do sau: (i) các quy định về biện pháp biện pháp KBTS được quy định một cách rõ ràng, chặt chẽ trong BLTTHS; (ii) chủ thể áp dụng nhân danh quyền lực nhà nước để thực hiện biện pháp cưỡng chế nhằm giúp cho việc thi hành các bản án, phán quyết có hiệu lực của Tòa án. Đây là đặc điểm quan trọng nhằm phân biệt biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự với biện pháp KBTS trong tố tụng dân sự và biện pháp KBTS có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá trong thủ tục hành chính. 1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự Một là, biện pháp KBTS được áp dụng để đảm bảo thi hành án hình sự. KBTS nhằm đảm bảo việc thi hành án, thu hồi tài sản đối với người phạm các tội phạm có quy định hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc phải bồi thường thiệt hại. Biện pháp KBTS nhằm đảm bảo các bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng không thể cấu giấu, tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản. Thực tiễn từ trước tới nay cho thấy, nhiều trường hợp bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành hoặc nếu có được thi hành thì việc thi hành đó cũng không triệt để, thậm chí để bảo đảm cho việc thi hành bản án hình sự, nhiều trường hợp đã bị hoặc phải tạm giữ tang vật, phương tiện có giá trị tương đối lớn nhưng bị can, bị cáo phải có địa chỉ rõ ràng được cơ quan có thẩm quyền thông báo nhiều lần đề nghị thi hành án song họ cũng không thi hành án hình sự. Tình hình đó dẫn đến làm giảm hiệu quả, hiệu lực của việc thi hành án hình sự của Nhà nước, tạo tâm lý coi thường pháp luật. Do đó, biện pháp KBTS được áp dụng như là một giải pháp để đảm bảo thi hành một cách hiệu quả các bản án hình sự trên thực tế. 11 Hai là, áp dụng biện pháp KBTS để cưỡng chế thi hành án hình sự là biểu hiện sự thượng tôn của pháp luật, đặc biệt trong quá trình Nhà nước ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Khi bản án hình sự được thi hành trong thực tiễn sẽ đảm bảo công bằng trong việc áp dụng các chế tài hình sự, đồng thời 9 ngăn ngừa tội phạm tiếp theo xảy ra . Việc bảo đảm thi hành bản án hình sự cũng là phương tiện đảm bảo cho việc thực hiện quyền lực nhà nước, hướng đến bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Ba là, KBTS còn có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS, các bị can, bị cáo, người quản lý tài sản sẽ nghiêm chỉnh chấp hành, ngăn chặn được hành vi cất giấu, tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản. Cũng đồng thời tạo cho người dân có ý thức tự nguyện chấp hành, thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án sau này. Việc tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của những người trên khi các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp KBTS sẽ tác động tích cực đến ý thức của đại bộ phận người dân, giảm được các thiệt hại về tài sản cho nhà nước, cho nhân dân, giảm các chi phí và thời gian trong quá trình tiến hành tố tụng. 1.2. Cơ sở quy định biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 1.2.1. Cơ sở lý luận Thứ nhất, KBTS là một trong những biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm cho việc thi hành án về phạt tiền, tịch thu tài sản, hoặc bồi thường thiệt hại được thuận lợi. Việc KBTS có thể được tiến hành trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS để kê khai, ghi lại từng loại tài sản, giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản; nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, phá hủy tài sản, đảm bảo cho việc xét xử, thi hành bản án và các quyết định của cơ quan nhà nước được thuận lợi, đúng pháp luật. Hoạt động KBTS có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ gìn kỷ cương phép nước, bảo đảm pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp và các lợi ích được thực thi trên thực tế Điều 106 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Chính vì vậy, cần xây dựng 9Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 12 và hoàn thiện biện pháp KBTS để đảm bảo cho việc xét xử, thi hành bản án và quyết định của các cơ quan nhà nước và thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của bên thứ ba thiệt hại. Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện biện pháp cưỡng chế KBTS nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người và quyền công dân. Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền sở hữu tư nhân…được pháp luật bảo hộ”. Biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự với tư cách là một biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của con người, của công dân, vì vậy cần phải có quy định chặt chẽ về việc áp dụng, thực hiện và giám sát, kiểm tra đối với hoạt động KBTS. Tiếp đến, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Quy định mang tính nguyên tắc này là cơ sở để BLTTHS năm 2015 ghi nhận chế định biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự. Khi thực hiện biện pháp KBTS, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước, kiểm soát lẫn nhau. Điều này phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực 10 hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” . Bên cạnh đó là quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc về cơ quan VKS, điều này đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện có đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khi Tòa án ra bản án có hiệu lực thi hành, các tài sản đã kê biên trước đó có thể được dùng làm tài sản để thi hành án. Biện pháp KBTS nhằm đảm bảo các bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng không thể cất giấu, tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS nhằm đảm bảo các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng có hiệu lực trên thực tế và phải được các cá nhân, tổ chức tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành. Thông qua kết quả KBTS, công tác xét xử được củng cố, Bản án, Quyết định được đảm bảo thi hành trong thực tế, đồng thời thông qua việc áp dụng các biện pháp thi hành án, nếu có sai sót trong Bản án, Quyết định được thi hành, VKS và cơ quan Thi hành án sẽ có những kiến nghị thích hợp, giúp cho Bản án, Quyết định của Tòa án chính xác 10 Hiến pháp năm 2013. 13 hơn; Hội đồng xét xử có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng của Bản án, Quyết định. Quá trình tố tụng là một quá trình diễn ra phức tạp, kéo dài, tiêu tốn nhiều nguồn lực nên cần phải đảm bảo mang lại hiệu quả cao cho xã hội. Việc có áp dụng biện pháp KBTS sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự và thực hiện các biện pháp thi hành án, thu hồi tài sản. Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự trong tình hình hiện nay là rất cần thiết, nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập bảo đảm phục vụ có hiệu quả công tác xét xử và thi hành án. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 NQ/TW, ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các Nghị quyết này đã thể hiện một tư tưởng hoàn toàn mới, trong đó định hướng xây dựng một hệ thống tố tụng hình sự coi trọng việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nâng cao hiệu quả của việc xét xử và thi hành án hình sự. Thể chế hóa các quan điểm của Đảng và Nhà nước, biện pháp KBTS được sửa đổi, bổ sung qua các BLTTHS năm 1988, 2003, 2015 đã góp phần hoàn thiện quy định pháp luật. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn Việc ghi nhận biện pháp cưỡng chế KBTS với tư cách là biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015 là một yêu cầu, đòi hỏi khách quan của thực tiễn. Nếu không có biện pháp KBTS thì việc thi hành án về phạt tiền, tịch thu tài sản, hoặc bồi thường thiệt hại sẽ gặp nhiều khó khăn khi trong quá trình xét xử, thi hành án, bị can, bị cáo cố ý tẩu tán tài sản nhằm không phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Hiện nay biện pháp KBTS đã được pháp luật tố tụng hình sự quy định khá rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng biện pháp này trên thực tế đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu quả của các quyết định tố tụng. Có thể nói các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về KBTS nhằm hạn chế việc bị can, bị cáo và người thân của họ có hành vi tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà nước, gây khó khăn cho công tác thi hành án sau này. Đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân với mục đích cuối cùng là bảo đảm hiệu lực thi hành trên thực tế các bản án quyết định của Tòa án. Mặc dù vậy, khi áp dụng các quy 14 định về KBTS trong tố tụng hình sự vào thực tế đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc, do nhiều nguyên nhân khác nhau như: Pháp luật tố tụng hình sự quy định chưa rõ ràng về tài sản kê biên “tương ứng” với mức phạt tiền, tịch thu và bồi thường thiệt hại gây khó khăn trong việc xác định phần tài sản kê biên; Việc KBTS trong khối tài sản sở hữu chung giữa bị can, bị cáo với những người khác hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Nếu áp dụng, sẽ xâm phạm đến quyền tài sản của người khác, dẫn đến khiếu nại gây khó khăn khi thực hiện KBTS… Cơ quan tiến hành tố tụng ngại khó, ngại khổ khi xác minh tài sản của bị can, bị cáo nên không áp dụng biện pháp KBTS. Bên cạnh đó, áp dụng biện pháp KBTS phải tiến hành nhiều trình tự, thủ tục giám định thiệt hại theo quy định pháp luật rất mất thời gian, nhiều chi phí ảnh hưởng đến thời hạn tiến hành tố tụng nên thực tế CQĐT chưa chú trọng xác minh và áp dụng các biện pháp KBTS trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án. Chính vì vậy, những hạn chế, thiếu xót trên của pháp luật đã làm cho việc áp dụng biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự hiện nay còn nhiều khó khăn. 1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự Thuật ngữ “nguyên tắc” có nguồn gốc từ tiếng Latin: Principium (nguyên lý) và có nghĩa là tư tưởng đầu tiên, tư tưởng chỉ đạo trong khoa học, hiện tượng hoặc quá trình. Nguyên lý đó cũng được áp dụng để nghiên cứu pháp luật nói chung và các chế định của nó nói riêng. Việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự cần phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc cơ bản sau đây: - Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa - Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người - Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân Đây là những nguyên tắc chủ đạo và xuyên suốt cần được tuân thủ triệt để và chặt chẽ để hiệu quả cao nhất khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. 1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc quan trọng và cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nói đến pháp chế là nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công 15 dân. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa tại Điều 7 BLTTHS năm 2015, quy định nguyên tắc kê biên tài sản trong tố tụng hình sự: “Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền con người, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật. Tư tưởng cơ bản bao trùm của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là khi thực hiện biện pháp KBTS cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật hình sự. Trong quá trình thực hiện biện pháp KBTS thì pháp luật cần được tuân thủ chặt chẽ, đó là: Hiến pháp, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự… Tuân thủ pháp luật là điều kiện cơ bản và quan trọng nhất để bảo đảm việc áp dụng một cách đúng đắn, chính xác và thống nhất các quy định pháp luật. Trên cơ sở quy định về biện pháp KBTS, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện hoạt động quản lý nhà nước, không cho phép các cơ quan này thực hiện quản lý nhà nước một cách chủ quan, tùy tiện mà phải dựa vào pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc pháp chế. Việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật là điều kiện cần thiết và quan trọng để bảo đảm sự tôn trọng các quyền tự do và dân chủ của công dân. Để nguyên tắc pháp chế được thực hiện và vận hành trong thực tế cần đòi hỏi các điều kiện sau: Thứ nhất, hệ thống pháp luật cần hoàn chỉnh và đồng bộ. Pháp luật có hệ thống và đồng bộ thì việc tuân thủ pháp luật mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả cao cho công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân. Sự lạc hậu, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đặc biệt về biện pháp KBTS sẽ tạo điều kiện và kẽ hở cho tiêu cực, cho hành vi vi phạm pháp luật xuất hiện, dẫn đến không thể thực thi nguyên tắc pháp chế một cách nghiêm chỉnh. Thứ hai, cần tăng cường kiểm tra, giám sát để việc thực hiện biện pháp KBTS đúng luật và thống nhất. Nếu không có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên thì việc thực hiện các quy định về KBTS trong tố tụng hình sự dễ rơi vào tình trạng tùy tiện, không nhất quán, là cơ sở của những tiêu cực và hành vi vi phạm pháp luật, 16 vi phạm quyền con người. Chính vì vậy, sự kiểm tra, giám sát thường xuyên là cơ sở để việc thực hiện biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự đúng luật và thống nhất trên thực tế. Thứ ba, thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giúp cho quyền lợi của những chủ thể phải KBTS được bảo đảm. Hoạt động thực thi biện pháp KBTS đã hạn chế quyền con người của những chủ thể bị KBTS vì thế những quyền cơ bản của con người, của công dân dễ bị xâm hại. Bảo đảm quyền được khiếu nại, tố cáo của những chủ thể này trong việc thực hiện biện pháp KBTS giúp họ bảo vệ tốt hơn chính quyền lợi của bản thân mình. Thứ tư, trong quá trình thực hiện biện pháp KBTS các cơ quan tiến hành tố tụng cần tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng để hạn chế việc xâm phạm và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. Như vậy, hoạt động KBTS phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế, đây là quan điểm cần được quán triệt sâu sắc trong quá trình tổ chức và hoạt động tố tụng hình sự nói chung, thi hành biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự nói riêng. Mọi vi phạm pháp luật khi thực hiện KBTS từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến KBTS phải bị xử lý kịp thời. 1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân Nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền công dân được quy định tại Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 với nội dung “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã được hiến pháp và pháp luật công nhận” và được thừa nhận trong Hiến pháp năm 2013 đã trở thành một nguyên tắc xuyên suốt của tư tưởng Nhà nước pháp quyền về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền công dân. Điều 8 BLTTHS năm 2015, quy định nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những 17 biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết”. Để thực hiện nguyên tắc này trên thực tế thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần triệt để tôn trọng và không được hạn chế hoặc xâm hại một cách trái pháp luật các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật bảo hộ. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, biện pháp KBTS chỉ áp dụng với bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy định hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại, áp dụng với pháp nhân mà BLHS quy định phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, biện pháp cưỡng chế KBTS không bắt buộc chủ thể có thẩm quyền phải áp dụng với mọi bị can, bị cáo phạm tội như trên cũng không bắt buộc mọi pháp nhân mà BLHS quy định phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại. Hay hiểu bằng cách khác, biện pháp cưỡng chế KBTS mang tính lựa chọn, chỉ áp dụng trong những trường hợp cần thiết, dựa trên những căn cứ luật định. Tính lựa chọn ở đây được hiểu là khi tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm giải quyết vụ án hình sự cụ thể, những người có thẩm quyền phải xem xét cẩn thận về việc có nên áp dụng hay không áp dụng biện pháp KBTS. Ngoài ra, đối với biện pháp KBTS đã được áp dụng, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của biện pháp KBTS trong vụ án đó để kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi khi xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa. KBTS của bị can, bị cáo là việc tạm thời cấm giao dịch, chuyển đổi, định đoạt hoặc dịch chuyển tài sản của họ. Khi KBTS, chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc phải bồi thường thiệt hại, có nghĩa là mức đủ để phục vụ cho hoạt động thi hành án sau này dựa trên phán quyết của Tòa án về hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại, điều này sẽ tránh được tình trạng lạm dụng kê biên, tùy tiện khi kê biên ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo và những người có liên quan đến tài sản bị kê biên. 1.3.3. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân Bảo vệ quyền sở hữu là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi Nhà nước. Quyền sở hữu được Nhà nước bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật hình sự, pháp luật hành chính, pháp luật dân sự... mà mục tiêu là nhằm bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 và Điều 11 BLTTHS năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu tư nhân … được pháp luật bảo hộ”. Theo quy định của pháp luật dân sự, quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan