MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ BIỆN PHÁP HỦY BỎ HỢP ĐỒNG TRƢỚC
THỜI HẠN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN NĂM 1980 .. 7
1.1. Khái quát về vi phạm dự đoán trƣớc và biện pháp hủy bỏ hợp đồng
trƣớc thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo Công ƣớc Viên năm 1980...................7
1.1.1 Khái niệm vi phạm dự đoán trước................................................................7
1.1.2 Đặc điểm vi phạm dự đoán trước............................................................... 10
1.1.2.1 Thời điểm xảy ra vi phạm........................................................................ 10
1.1.2.2 Phạm vi nghĩa vụ bị vi phạm................................................................... 12
1.1.2.3 Quyền áp dụng biện pháp khắc phục đối với hành vi vi phạm................13
1.1.3 Khái niệm biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ
theo Công ước Viên năm 1980............................................................................ 15
1.1.4 Đặc điểm của biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa
vụ theo Công ước Viên năm 1980....................................................................... 17
1.1.4.1 Thời điểm áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện
nghĩa vụ.............................................................................................................. 17
1.1.4.2 Căn cứ áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn không mang
tính chất “tuyệt đối”........................................................................................... 18
1.1.4.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh ngay lập tức khi hợp đồng bị
hủy bỏ................................................................................................................. 19
1.2 Phân biệt biện pháp hủy bỏ hợp đồng trƣớc thời hạn thực hiện nghĩa vụ
với biện pháp tạm ngừng thực hiện hợp đồng.................................................... 21
1.2.1 Khả năng xảy ra vi phạm dự đoán trước.................................................... 21
1.2.2 Phạm vi nghĩa vụ bị vi phạm...................................................................... 23
1.2.3 Nghĩa vụ thông báo.................................................................................... 24
Kết luận Chƣơng 1.............................................................................................. 26
CHƢƠNG 2: CĂN CỨ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
TRƢỚC THỜI HẠN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN
NĂM 1980 – KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM................................................. 27
2.1. Căn cứ áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trƣớc thời hạn thực hiện
nghĩa vụ theo Công ƣớc Viên năm 1980............................................................. 27
2.1.1 Khả năng một bên sẽ có hành vi vi phạm cơ bản....................................... 27
2.1.1.1 Khái quát về vi phạm cơ bản................................................................... 27
2.1.1.2 Tính chất “rõ ràng” của vi phạm cơ bản đối với hợp đồng giao hàng
một lần................................................................................................................ 30
2.1.1.3 Tính chất “rõ ràng” của vi phạm cơ bản đối với hợp đồng giao hàng
từng phần............................................................................................................ 33
2.1.2 Căn cứ một bên tuyên bố sẽ không thực hiện hợp đồng.............................34
2.2. Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng
trƣớc thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam............................38
2.2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước
thời hạn thực hiện nghĩa vụ................................................................................. 38
2.2.2 Thực tiễn áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện
nghĩa vụ tại Việt Nam......................................................................................... 41
2.2.3 Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về biện pháp hủy bỏ hợp đồng
trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ từ kinh nghiệm của Công ước Viên năm 198046
2.2.3.1 Sự phù hợp của quy định vi phạm dự đoán trước và biện pháp hủy bỏ
hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam................46
2.2.3.2 Một số đề xuất cụ thể hoàn thiện pháp luật Việt Nam về biện pháp hủy
bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ.................................................. 48
Kết luận Chƣơng 2.............................................................................................. 50
CHƢƠNG 3: NGHĨA VỤ THÔNG BÁO VÀ HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA BIỆN
PHÁP HỦY BỎ HỢP ĐỒNG TRƢỚC THỜI HẠN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
THEO CÔNG ƢỚC VIÊN NĂM 1980 – KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ... 51
3.1 Nghĩa vụ thông báo khi áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trƣớc thời
hạn thực hiện nghĩa vụ theo Công ƣớc Viên năm 1980....................................51
3.1.1 Thời hạn thông báo.................................................................................... 52
3.1.2 Hình thức thông báo................................................................................... 53
3.1.3 Nội dung thông báo.................................................................................... 55
3.1.3.1 Ý định hủy bỏ hợp đồng........................................................................... 55
3.1.3.2 Sự cho phép bên kia cung cấp bảo đảm đầy đủ về khả năng thực hiện
nghĩa vụ.............................................................................................................. 56
3.1.4 Hiệu lực của thông báo.............................................................................. 59
3.2 Hệ quả pháp lý của biện pháp hủy bỏ hợp đồng trƣớc thời hạn thực hiện
nghĩa vụ theo Công ƣớc Viên năm 1980............................................................. 62
3.2.1 Hiệu lực của hợp đồng............................................................................... 62
3.2.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại............................................................... 63
3.2.3 Nghĩa vụ giảm thiểu tổn thất...................................................................... 64
3.2.4 Hệ quả pháp lý của việc áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời
hạn không có căn cứ........................................................................................... 66
3.3 Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ thông báo và hệ
quả pháp lý khi áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trƣớc thời hạn thực
hiện nghĩa vụ từ kinh nghiệm của Công ƣớc Viên năm 1980........................68
3.3.1 Quy định về nghĩa vụ thông báo khi áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng
trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ....................................................................... 68
3.3.2 Quy định về hệ quả pháp lý khi áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước
thời hạn thực hiện nghĩa vụ................................................................................. 71
Kết luận Chƣơng 3.............................................................................................. 72
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Luật Thương mại 2005 được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
14/6/2005 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế Luật Thương mại
năm 1997. Trải qua hơn 15 năm, Luật Thương mại 2005 đã góp phần to lớn vào sự
ổn định và phát triển của hoạt động thương mại, điều chỉnh, khắc phục những hạn
chế, thiếu sót của Luật Thương mại 1997. Cùng với sự phát triển của xã hội, đặc
biệt là trong lĩnh vực thương mại, các hoạt động của thương nhân ngày càng đa
dạng, phong phú. Một trong những yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động thương
mại là hợp đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, không phải lúc nào các bên cũng đều
nghiêm túc thực hiện những nghĩa vụ đã thỏa thuận. Do đó, pháp luật trao cho các
chủ thể trong hợp đồng, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm có quyền áp
dụng các biện pháp, chế tài khác nhau nhằm đảm bảo quyền lợi của mình. Trong
thực tế, việc nhận diện hành vi vi phạm của một bên đôi khi không dễ dàng, cụ thể
là khi một bên có căn cứ cho rằng bên kia không có khả năng trong việc thực hiện
nghĩa vụ của mình khi đến hạn – tức là trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ, bên đó có
quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng và yêu cầu cung cấp bảo đảm đầy đủ, hoặc
thậm chí hủy bỏ hợp đồng hay không?
Với mục tiêu thống nhất luật pháp quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa,
Công ước của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước
Viên năm 1980) là một thành tựu to lớn trong việc nỗ lực hài hòa hóa các hệ thống
luật trên thế giới. Ngày 18/12/2015, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 84 của
Công ước Viên năm 1980 và Công ước chính thức có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày
01/01/2017. Đây là một bước tiến vượt bậc trong quá trình hội nhập quốc tế sâu
rộng của Việt Nam, tạo sự thuận lợi cho các thương nhân trong nước tiếp cận với
một nguồn pháp luật tiến bộ và được áp dụng rộng rãi, đặc biệt là các nước có nền
kinh tế phát triển bậc nhất thế giới. Những quy định tiến bộ và hài hòa của Công
ước Viên năm 1980 đã được các nước thành viên vận dụng và đem lại những lợi ích
to lớn trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
Đối với vấn đề xác định hành vi vi phạm hợp đồng dự đoán trước, tại Chương
V Mục I Công ước Viên năm 1980 đã quy định về vi phạm dự đoán trước và hợp
đồng giao hàng từng phần. Theo đó, tại Điều 71, Điều 72 và Điều 73 Công ước
2
Viên năm 1980 đã cho một bên có quyền lựa chọn áp dụng biện pháp tạm ngừng
thực hiện hợp đồng hoặc biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa
vụ để giảm thiểu tối đa các thiệt hại của mình do bên kia có khả năng vi phạm cơ
bản nghĩa vụ hợp đồng khi đến thời hạn thực hiện.
Nhằm làm rõ những quy định của Công ước Viên năm 1980 về biện pháp hủy
bỏ hợp đồng trước thời hạn, và có cái nhìn tổng thể giữa pháp luật Việt Nam với
Công ước Viên năm 1980. Tác giả chọn đề tài “Hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn
thực hiện nghĩa vụ theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình là cần thiết và phù hợp với
chuyên ngành đào tạo.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Vi phạm dự đoán trước và hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ
là một đề tài gây nhiều tranh luận trong giới học thuật bởi những vấn đề vượt ra
ngoài các nguyên tắc của pháp luật truyền thống. Chính vì vậy, đã có nhiều công
trình, bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu về vi phạm dự đoán trước và hủy bỏ hợp
đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ, cụ thể như sau:
- Tác giả G. H. Treitel và Edwin Peel (2015), The Law of Contract (fourteenth
edition). Cuốn sách chuyên khảo đã trình bày lịch sử hình thành của học thuyết vi
phạm dự đoán trước và phân tích về quyền chấp nhận hoặc từ chối đối với vi phạm
dự đoán trước của bên bị vi phạm.
- Tác giả Robert E. Scott, Jody S. Kraus (2013), Contract Law and Theory
(fifth edition). Cuốn sách chuyên khảo đã phân tích một số bản án áp dụng khái
niệm vi phạm dự đoán trước và biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện
nghĩa vụ.
- Tác giả John O. Honnold (1999), Uniform Law for International Sales under
the 1980 United Nations Convention (3rd edition). Cuốn sách đã trình bày chi tiết
lịch sử hình thành các Điều 71, 72 và 73 CISG. Đồng thời, cuốn sách cũng phân tích
những nội dung cơ bản của các điều khoản này.
- Tác giả Trevor Bennett (1987), Bianca-Bonell Commentary on the
International Sales Law. Cuốn sách đã giới thiệu và phân tích lịch sử hình thành
Điều 72 CISG và so sánh với Điều 71 CISG. Từ đó, tác giả làm rõ về khái niệm vi
phạm dự đoán trước và các biện pháp áp dụng tương ứng với mức độ hành vi vi
phạm.
3
Ngoài ra còn có nhiều cuốn sách, bài nghiên cứu cũng viết về nội dung này,
như: Marnah Stuff (1997), Essential Contract Law (second edition); M. Gilbey
Strub (1989), The Convention on the International Sale of Goods: Anticipatory
repudiation provisions and developing countries; Reza Beheshti (2018),
Anticipatory breach of contract and the necessity of adequate assurance under
English law and Uniform Commercial Code; Keith A. Rowley, A Brief History of
Anticipatory Repudiation in American Contract Law;…
- Tác giả Đặng Huỳnh Thiên Vy và Nguyễn Xuân Mỹ Hiền (2017), “Một số
vấn đề về hủy hợp đồng do vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa
vụ”, Tài liệu hội thảo “Nghiên cứu Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế - Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết này đã trình bày về khái
niệm vi phạm dự đoán trước và điều kiện để áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng
trước thời hạn. Đồng thời, bài viết cũng bình luận một số bản án, án lệ áp dụng Điều
72 Công ước Viên năm 1980.
Luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ liên quan đến nội dung quy định về hủy bỏ
hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ như sau:
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Võ Sỹ Mạnh, “Vi
phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ, người hướng dẫn khoa học: GS.TS.NGƯT Mai Hồng Quỳ.
Luận án đã nêu ra một số vấn đề về vi phạm dự đoán trước và biện pháp hủy bỏ hợp
đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Đồng thời, tác giả cũng đã chỉ ra một số
vướng mắc, bất cập của pháp luật Việt Nam khi chưa quy định nội dung này và kiến
nghị pháp luật Việt Nam cần quy định về chế tài này trong Luật Thương mại. Tuy
nhiên, do phạm vi nghiên cứu của luận án là vi phạm cơ bản nên tác giả không tập
trung phân tích chi tiết về khái niệm vi phạm dự đoán trước, cũng như chế tài áp
dụng. Tác giả chỉ gợi mở vấn đề và trích dẫn nguồn tài liệu tham khảo nước ngoài
mà chưa tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Phạm Thị Trong, “Vi
phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ - Sự cần thiết phải điều
chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, người hướng dẫn
khoa học: TS. Dương Anh Sơn. Luận văn đã phân tích và làm rõ khái niệm vi phạm
dự đoán trước và quyền áp dụng biện pháp hoãn thực hiện nghĩa vụ và hủy bỏ hợp
4
đồng. Tuy nhiên, luận văn chỉ mới tập trung phân tích lý luận các quy định trên theo
Điều 71, 72 Công ước Viên năm 1980 mà không phân tích quy định tại Điều 73
Công ước Viên năm 1980 và chưa nghiên cứu thực tiễn áp dụng.
- Ngoài ra còn có một số website cũng có vai trò đóng góp những thông tin hỗ
trợ cho việc nghiên cứu đề tài. Rất nhiều địa chỉ website thuộc sự quản lý của các
trường đại học nổi tiếng trên thế giới và các tổ chức liên chính phủ. Vì vậy mức độ
tin cậy, sự chính xác của nguồn tài liệu là rất thuyết phục.
Những công trình nghiên cứu, tài liệu khoa học trên là nguồn tư liệu quý giá
giúp tác giả có những thông tin và định hướng nghiên cứu phù hợp với mục đích
nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, một số công trình trên chỉ nghiên cứu dưới dạng
giới thiệu sơ lược và kiến nghị chung hoặc gợi mở vấn đề. Do đó, trên cơ sở kế thừa
kết quả của các công trình đã hoàn thành, tác giả sẽ trình bày một số kiến thức nhất
định về đề tài, đồng thời vận dụng khả năng nghiên cứu của bản thân đi vào phân
tích chuyên sâu về quy định hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo
Công ước Viên năm 1980.
3.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là phân tích những vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan đến các quy định về khái niệm vi phạm dự đoán trước và biện pháp
hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo Công ước Viên năm 1980
có so sánh với pháp luật Việt Nam cũng như các văn bản pháp lý quốc tế khác.
Luận văn làm rõ các quy định của Công ước Viên năm 1980 và có những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về khái niệm vi phạm dự đoán trước và biện pháp
hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Qua đó, góp phần hài hòa hóa
pháp luật Việt Nam với các văn bản pháp lý quốc tế, đặc biệt là Công ước Viên năm
1980. Mặt khác, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và dễ áp dụng cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong giao kết và thực hiện hợp đồng, cho các cơ quan giải quyết
tranh chấp của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán
hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng.
4.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung phân tích khái niệm vi phạm dự đoán trước
và biện pháp khắc phục hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo
Công ước Viên năm 1980 (Điều 71, Điều 72, Điều 73) và liên hệ với pháp luật Việt
Nam. Phạm vi của Công ước Viên năm 1980 được áp dụng với hợp đồng mua bán
5
hàng hóa quốc tế, do đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào chế tài hủy
bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý rằng phạm vi nghiên cứu của luận văn không nghiên cứu về biện pháp hủy bỏ
hợp đồng do một bên có hành vi vi phạm trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Về không gian: Luận văn phân tích thực tiễn các án lệ, bản án, phán quyết của
Tòa án và Trọng tài của các nước là thành viên Công ước Viên năm 1980. Đồng
thời, luận văn cũng đề cập và phân tích các bản án, phán quyết của Tòa án và Trọng
tài Việt Nam có nội dung liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Về thời gian: Luận văn lấy số liệu, thông tin từ năm 1988 – năm Công ước
Viên năm 1980 có hiệu lực cho đến nay.
4.2.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khoa học để thực hiện nghiên cứu như sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được áp dụng để tìm
hiểu, phân tích các khái niệm, ý nghĩa của các đối tượng nghiên cứu. Phương pháp
này được tác giả vận dụng trong xuyên suốt nội dung của luận văn.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này cung cấp cho người đọc một góc nhìn
tổng thể giữa các văn bản pháp luật từ các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm
ra những điểm giống cũng như khác nhau và có sự so sánh ưu nhược điểm của nó.
Phương pháp này được vận dụng xuyên suốt nội dung luận văn.
Phương pháp phân tích tình huống, hồ sơ vụ việc, bản án: Phương pháp này
được tác giả vận dung trong Chương 2 và Chương 3 của luận văn nhằm phân tích
thực trạng áp dụng pháp luật của các cơ quan giải quyết tranh chấp của Việt Nam và
một số quốc gia khác.
Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên, tác giả còn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học khác để làm sáng tỏ nội dung luận văn như:
phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống hóa…
5.
Ý nghĩa khoa học của đề tài
Đề tài nghiên cứu có hệ thống các vấn đề pháp lý liên quan đến khái niệm vi
phạm dự đoán trước và biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa
vụ theo Công ước Viên năm 1980. Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp các
nội dung đáng tin cậy, có giá trị tham khảo về mặt lý luận và thực tiễn cho việc áp
dụng và hoàn thiện các quy định của pháp luật thương mại Việt Nam.
6
Luận văn có giá trị tham khảo, phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu các quy
định về vi phạm dự đoán trước và biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực
hiện nghĩa vụ.
6.
Bố cục của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện
nghĩa vụ theo Công ước Viên năm 1980.
Chương 2: Căn cứ áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực
hiện nghĩa vụ theo Công ước Viên năm 1980 – kinh nghiệm cho Việt Nam.
Chương 3: Nghĩa vụ thông báo và hệ quả pháp lý của biện pháp hủy bỏ hợp
đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo Công ước Viên năm 1980 – kinh
nghiệm cho Việt Nam.
7
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ BIỆN PHÁP HỦY BỎ HỢP ĐỒNG TRƢỚC
THỜI HẠN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN NĂM 1980
1.1. Khái quát về vi phạm dự đoán trƣớc và biện pháp hủy bỏ hợp đồng trƣớc
thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo Công ƣớc Viên năm 1980
Vi phạm dự đoán trước (anticipatory breach) là một khái niệm gây nhiều tranh
cãi trong giới học thuật bởi những vấn đề vượt ra ngoài các nguyên tắc của pháp
luật truyền thống. Các quan điểm khác nhau về khái niệm “vi phạm dự đoán trước”
và các đặc điểm của loại vi phạm này sẽ được phân tích dưới đây.
1.1.1 Khái niệm vi phạm dự đoán trước
Theo từ điển Black’s Law, vi phạm là “vi phạm các nghĩa vụ hợp đồng bằng
việc không thực hiện lời hứa của chính mình, từ chối thực hiện hoặc ngăn cản việc
1
thực hiện của bên kia”. Theo Từ điển Luật học, vi phạm hợp đồng có thể hiểu là
“hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những nghĩa vụ phát sinh từ
2
hợp đồng”. Như vậy, vi phạm hợp đồng có thể được hiểu là việc không tuân theo
hoặc làm trái với các nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận với nhau. Tác giả Treitel
cho rằng “vi phạm hợp đồng xảy ra khi một bên không hoặc từ chối thực hiện
những gì anh ta có nghĩa vụ thực hiện theo hợp đồng mà không có lý do hợp pháp
3
hoặc thực hiện không đúng hoặc không có khả năng thực hiện”. Tác giả Phạm Duy
Nghĩa cho rằng “vi phạm hợp đồng là hành vi của một bên không thực hiện hoặc
4
không thực hiện đúng nghĩa vụ theo các điều kiện hợp đồng”.
Có thể nhận thấy, các định nghĩa về vi phạm hợp đồng có đặc điểm chung là
hành vi này phải xuất hiện trên thực tế và xảy ra khi đến thời hạn bên có nghĩa vụ
phải thực hiện. Cụ thể, nếu đến thời hạn ấn định cho việc thực hiện hợp đồng mà
bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì đây được
xem là một “vi phạm hợp đồng thực tế” (actual breach of contract). Việc xác định
hành vi vi phạm sẽ dễ dàng do hành vi vi phạm bộc lộ rõ trên thực tế. Trong trường
hợp chưa đến thời hạn thực hiện hợp đồng nhưng một bên có đủ căn cứ để chứng
minh bên kia sẽ không thực hiện hợp đồng khi đến hạn hoặc có những hành vi làm
1 Bryan A.Garner (2009), Black’s Law Dictionary, 9th ed., West Pub, tr.213.
2 Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp và Nxb. Từ điển Bách khoa,
Hà Nội, tr.851.
3 Fritz Enderlein & Dietrich Maskow (1992), International Sales Law: United Nations Convention on
Contracts for the International Sale of Goods, Oceana Publications, tr.389, nguồn:
https://iicl.law.pace.edu/cisg/bibliography/international-sales-law-united-nations-convention-contractsinternational-sale, truy cập lần cuối 07/6/2021.
4 Phạm Duy Nghĩa (2011), Giáo trình Luật kinh tế, Nxb Công an nhân dân, tr.373.
8
cho bên này mất niềm tin về khả năng thực hiện hợp đồng và kết luận rằng sẽ có
một sự vi phạm hợp đồng trong tương lai liệu có được xem là một hành vi vi phạm
hợp đồng? Theo lý thuyết vi phạm hợp đồng truyền thống, sự vi phạm hợp đồng
chưa xảy ra trên thực tế nên khó có thể xác định đây là một hành vi vi phạm hợp
đồng, nhưng nếu buộc phải chờ đến khi có vi phạm thực tế xảy ra thì bên bị vi phạm
không thể áp dụng các biện pháp khắc phục ngay và thiệt hại có thể sẽ lớn hơn rất
nhiều, thậm chí là không thể khắc phục được. Vì vậy, học thuyết vi phạm dự đoán
trước (anticipatory doctrine) được phát triển như một ngoại lệ của nguyên tắc này và
đặt ra khái niệm “vi phạm dự đoán trước” hay “vi phạm dự kiến” (anticipatory
breach). Đây là vấn đề vượt ra ngoài lý thuyết truyền thống về vi phạm hợp đồng, là
căn cứ để cho phép một bên có thể hủy bỏ hợp đồng và có thể yêu cầu bồi thường
thiệt hại nếu có.
5
Khái niệm “anticipatory breach” (tạm dịch: vi phạm dự đoán trước, vi phạm
trước thời hạn) được nhiều học giả đưa ra định nghĩa. Theo từ điển Black’s Law, “vi
phạm dự đoán trước là hành vi vi phạm hợp đồng gây ra bởi sự từ chối thực hiện
6
dự đoán trước của một bên khi việc thực hiện đến hạn”. Từ điển Luật Oxford định
nghĩa vi phạm hợp đồng là “việc một bên trong hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ
của mình theo hợp đồng đó hoặc dấu hiệu cho thấy họ không có ý định làm như
vậy. Một dấu hiệu cho thấy hợp đồng sẽ bị vi phạm trong tương lai được gọi là sự
từ chối hoặc vi phạm dự đoán trước và có thể được thể hiện bằng lời nói hoặc ngụ ý
7
từ hành vi”. Theo đó, từ điển Luật Oxford định nghĩa vi phạm hợp đồng bao gồm
cả vi phạm thực tế và vi phạm dự đoán trước. Theo tác giả Treitel, vi phạm dự đoán
trước được cho là xảy ra trước khi đến thời hạn thực hiện, một bên từ bỏ hợp đồng
8
hoặc không cho phép mình thực hiện hợp đồng. Tác giả David Kelly cho rằng vi
phạm hợp đồng dự đoán trước xảy ra khi một bên, trước thời hạn thực hiện hợp
9
đồng, tuyên bố rằng họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Tác giả Marnah
Stuff cũng đưa ra định nghĩa tương tự rằng một vi phạm hợp đồng dự đoán trước
5 Dương Anh Sơn, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vi phạm hợp đồng
khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, Tạp chí Nhà nước – Pháp luật tháng 04/2006, Viện Nhà nước và
Pháp luật, tr.51.
6 Bryan A.Garner, tlđd (1), tr.200.
7 Elizabeth A. Martin (2003), A Dictionary of Law (fifth edition), Oxford University Press, tr.54.
8 Dẫn theo Treitel, Edwin Peel (2015), The Law of Contract (fourteenth edition), Thomson Reuters
(Professional) UK Limited Pub and Sweet & Maxwell Pub, tr.17-074.
9 David Kelly (2002), Business Law, Cavendish Publishing, UK.
9
xảy ra khi một bên thông báo rằng bên đó không có ý định thực hiện các điều khoản
10
của hợp đồng.
Khái niệm này lần đầu tiên được quy định chặt chẽ về mặt nguyên tắc pháp lý
11
trong Hochster v De La Tour (1853). Trên cơ sở vụ kiện, Thẩm phán Lord
Campbell đã khái quát và phát triển học thuyết vi phạm dự đoán trước với nhiều vấn
đề gây tranh cãi trong giới học thuật một thời gian dài. Có thể khái quát học thuyết
như sau: khi một hợp đồng được giao kết cho nghĩa vụ trong tương lai sẽ tạo thành
mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Các bên đều có trách nhiệm phải
bảo đảm sẵn sàng và đầy đủ khả năng để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong
khoảng thời gian từ lúc giao kết hợp đồng đến thời hạn thực hiện hợp đồng, các bên
ngụ ý cam kết rằng không bên nào sẽ làm tổn hại đến việc thực hiện các nghĩa vụ
đó. Nếu một cam kết ngụ ý như vậy bị vi phạm, bên bị vi phạm có quyền tuyên bố
hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại ngay lập tức.
Học thuyết vi phạm dự đoán trước được phát triển và đặt ra hai vấn đề pháp lý:
(i) hành vi vi phạm hợp đồng có thể xảy ra trước thời hạn ấn định để thực hiện
nghĩa vụ hay không? và (ii) biện pháp khắc phục nào được áp dụng khi xảy ra hành
vi vi phạm dự đoán trước?
Thứ nhất, học thuyết vi phạm dự đoán trước đặt ra trách nhiệm các bên trong
hợp đồng phải tôn trọng cam kết về việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Trên cơ sở lý
12
13
thuyết về “lời hứa ngụ ý” xuất hiện trong Elderton v Emmens , Thẩm phán Lord
Campbell trong vụ kiện của Hochster đã phát triển lý thuyết về lời hứa ngụ ý thành
14
một học thuyết chung có thể áp dụng cho mọi loại hợp đồng. Ông cho rằng “khi
một hợp đồng được giao kết để thực hiện một hành động vào một ngày trong tương
10
11
Marnah Stuff (1997), Essential Contract Law (second edition), Cavendish Pub, tr.105.
Hochster v De La Tour (1853) 2 E&B 678, nguồn
https://www.bailii.org/ew/cases/EWHC/QB/1853/J72.html, truy cập lần cuối 05/3/2021.
Nội dung vụ kiện có thể tóm tắt như sau: De La Tour đã ký kết một thỏa thuận để thuê ông Hochster để làm
hướng dẫn viên du lịch và đi cùng họ ở châu Âu vào ngày 01 tháng 6 năm 1852. Vào ngày 11 tháng 5 năm
1852, De La Tour đã viết thư cho Hochster thông báo rằng họ đã thay đổi quyết định và từ chối các dịch vụ
của ông. Vào ngày 22 tháng 5 năm 1852, Hochster đã khởi kiện lên Tòa án với lí do là việc hủy hợp đồng của
De La Tour là vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. De La Tour lập luận rằng Hochster vẫn có
nghĩa vụ phải sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ khi đến thời hạn, và không thể khởi kiện mình trước ngày hợp
đồng bắt đầu (ngày 01 tháng 6 năm 1852).
12
Lý thuyết này xuất hiện ban đầu trong Elderton v Emmen liên quan đến hợp đồng dịch vụ cá
nhân, gợi ý rằng một hợp đồng bao gồm các giao ước chung bao gồm một lời hứa ngụ ý rằng không bên nào
sẽ từ chối nghĩa vụ của mình. Xem thêm: Reza Beheshti (2018), Anticipatory breach of contract and the
necessity of adequate assurance under English law and Uniform Commercial Code, Lloyd's Maritime and
Commercial Law Quarterly, 2018(Part 2), tr.279.
13
Elderton v Emmens (1848).
14
Reza Beheshti, tlđd (14), tr.279.
10
lai, có một mối quan hệ được xác lập giữa các bên trong thời gian chờ đợi bởi hợp
đồng và họ ngụ ý hứa rằng trong thời gian chờ đợi sẽ không làm bất kỳ điều gì làm
15
tổn hại đến việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng trong tương lai”. Hơn nữa, một
hợp đồng cho nghĩa vụ trong tương lai tạo thành một cam kết rằng, trong khi chờ
đợi, các bên phải bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình và không bên nào
từ chối hoặc thoái thác việc thực hiện các nghĩa vụ đó trước thời hạn.
Thứ hai, đặc điểm nổi bật nhất của học thuyết vi phạm dự đoán trước là việc
“chấp nhận” vi phạm cho phép bên bị vi phạm có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu
16
bồi thường thiệt hại ngay lập tức, trước thời hạn ấn định để thực hiện nghĩa vụ.
Mục đích của học thuyết hướng đến là có thể giúp giảm thiểu tổn thất cho cả hai
bên. Về nguyên tắc, việc hủy bỏ hợp đồng do vi phạm dự đoán trước làm phát sinh
17
nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên bị vi phạm trước khi hết thời hạn thực hiện. Xét
về mặt lợi ích kinh tế, việc một bên có quyền giải phóng khỏi một hợp đồng “đã thất
bại” sẽ khuyến khích bên đó thực hiện các biện pháp giảm thiểu thiệt hại. Trong
trường hợp như vụ Hochster v De la Tour, trên thực tế, bên bị vi phạm có khả năng
thiệt hại nhiều hơn vì họ vẫn phải luôn sẵn sàng thực hiện nếu họ không có quyền
khởi kiện ngay lập tức. Thay vì phải chờ đợi và chuẩn bị sẵn sàng vô ích, Hochster
có quyền tự do tìm kiếm một người sử dụng lao động khác để phục vụ, điều này sẽ
18
giúp giảm thiểu những thiệt hại mà anh ta phải đối mặt nếu hợp đồng bị vi phạm.
Vì vậy, học thuyết trao cho bên bị vi phạm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ngay
lập tức ở bất kỳ mức độ nào cũng tạo ra một số động lực để họ hủy bỏ hợp đồng, và
do đó, có thể giảm thiểu được các thiệt hại phát sinh.
Tóm lại, thông qua những quan điểm về học thuyết vi phạm dự đoán trước,
khái niệm vi phạm dự đoán trước có thể được hiểu như sau: “Vi phạm dự đoán
trước là hành vi vi phạm hợp đồng của một bên xảy ra trước thời hạn thực hiện
nghĩa vụ”.
1.1.2 Đặc điểm vi phạm dự đoán trước
1.1.2.1 Thời điểm xảy ra vi phạm
Một trong những đặc điểm rõ ràng nhất của vi phạm dự đoán trước là thời
điểm xảy ra vi phạm, cụ thể là trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ của một bên trong
15
16
17
Hochster v De La Tour (1853) 2 E&B 678.
18
Hochster v De La Tour (1853) 2 E&B 678.
Treitel, ttđd (10), tr.17-080.
Robert E. Scott, Jody S. Kraus (2013), Contract Law and Theory (fifth edition), Lexis Nesis
Publisher, tr.795.
11
hợp đồng. Khoảng thời gian xảy ra loại vi phạm này là từ lúc sau khi hợp đồng được
ký kết đến trước thời hạn một bên phải thực hiện nghĩa vụ. Chính đặc điểm khác
biệt này khiến vi phạm dự đoán trước trở nên phức tạp và xa lạ với giới học thuật
khi nó xuất hiện. Theo nguyên tắc của pháp luật truyền thống, một bên không thể vi
phạm nghĩa vụ cho đến khi họ không thể thực hiện nghĩa vụ đó tại thời điểm nghĩa
19
vụ đến hạn. Do đó, không có cách nào khác để vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng
bằng cách “thực tế” vi phạm nó, tức là khi đến thời hạn để thực hiện nghĩa vụ, bên
20
đó không thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong vụ Hochster v De La Tour, vi phạm
dự đoán trước xuất phát từ lời từ chối thực hiện hợp đồng của De La Tour trước
ngày hợp đồng được thực hiện. Một số học giả cho rằng: “theo logic, việc từ chối
hợp đồng không cấu thành một hành vi vi phạm hiện tại. Giả thuyết này dựa trên lý
thuyết rằng các nghĩa vụ hợp đồng chỉ phát sinh từ những lời hứa rõ ràng: trừ khi
có một lời hứa rõ ràng không hủy ngang, thì không thể có vi phạm nghĩa vụ cho đến
thời hạn thực hiện”.
21
Ngược lại, vi phạm dự đoán trước là hành vi được chỉ ra bằng lời nói hoặc
hành vi xảy ra trước thời hạn ấn định cho việc thực hiện nghĩa vụ, nghĩa vụ đó có
thể sẽ không được thực hiện. Vì thời hạn thực hiện nghĩa vụ chưa đến nên vi phạm
dự đoán trước không thể hiện dưới dạng một vi phạm xảy ra trên thực tế. Cụ thể, vi
phạm dự đoán trước mang bản chất của một “vi phạm dự đoán trong tương lai”. Cơ
sở lý luận cho việc dự đoán này nằm ở suy luận hợp lý về khả năng không thể tránh
khỏi của việc không thực hiện hợp đồng. Những gì gây ảnh hưởng không phải là
những gì đã xảy ra mà là những gì có khả năng xảy ra. Bên bị vi phạm được phép
dự đoán trên cơ sở lời nói, hành vi của bên kia rằng một vi phạm chắc chắn sẽ xảy
22
ra và do đó họ không bị ràng buộc phải đợi cho đến khi nó thực sự xảy ra. Trong
vụ Geden Operations Ltd v Dry Bulkhandy Holidays Inc, Thẩm phán Popplewell
cho rằng: “Vi phạm dự đoán trước được dùng để chỉ hành vi vi phạm của một bên
19
20
Robert E. Scott, Jody S. Kraus, tlđd (19), tr.795.
Qiao Liu (2007), Inferring future breach: towards a unifying test of anticipatory breach of
contract, The Cambridge Law Journal, Vol. 66, No. 3, Cambridge University Press, tr.593.
21
M. Gilbey Strub (1989), The Convention on the International Sale of Goods: Anticipatory
repudiation provisions and developing countries, The International and Comparative Law Quarterly, Vol. 38,
No. 3, tr.479, truy cập: http://www.jstor.org/stable/759686
22
Reza Beheshti, tlđd (14), tr.279.
12
trong hợp đồng trước thời hạn ấn định thực hiện nghĩa vụ khiến bên kia cho rằng
23
bên đó không muốn thực hiện nghĩa vụ nữa”.
Tuy nhiên, hành vi vi phạm dự đoán trước vẫn không phải là một vi phạm nhất
định, rõ ràng và phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan để một bên tin chắc
rằng khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, bên kia sẽ không thể hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Nhằm có cơ sở vững chắc để xem xét các hành
vi trong hiện tại là một vi phạm dự đoán trước, một bên phải xác định được rằng
liệu là có mối liên hệ chặt chẽ giữa lời nói hoặc hành vi hiện tại và một vi phạm
thực tế có thể xảy ra hay không. Nói cách khác, lời nói hoặc hành vi được xem xét
24
phải biểu thị rằng có đủ khả năng xảy ra vi phạm thực tế trong tương lai. Ví dụ,
bên bán bán lại hàng hóa là đối tượng của hợp đồng cho bên thứ ba khi chưa được
bên mua đồng ý đủ rõ ràng rằng một vi phạm cơ bản sẽ xảy ra. Mặc dù có thể có
những tình huống chắc chắn tuyệt đối về các vi phạm trong tương lai, nhưng việc dự
đoán chính xác bản chất và đặc điểm của các vi phạm dự đoán trước dường như khó
khăn hơn và không rõ ràng như vi phạm thực tế. Trong một số trường hợp, trước
ngày được ấn định để thực hiện nghĩa vụ, bên vi phạm có thể tự khôi phục lại khả
năng thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn, bên vi phạm có thể mua lại hàng hóa từ bên
thứ ba để giao hàng cho bên kia.
1.1.2.2 Phạm vi nghĩa vụ bị vi phạm
Như đã phân tích ở phần trên, vi phạm dự đoán trước là hành vi vi phạm hợp
đồng của một bên xảy ra trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, không phải
bất kỳ hành vi vi phạm nào xảy ra trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ cũng đều được
xem là vi phạm dự đoán trước. Ví dụ, hành vi sai sót kỹ thuật nhỏ trong việc chuẩn
bị hàng hóa đã được bên mua phát hiện và yêu cầu bên bán khắc phục không được
xem là vi phạm dự đoán trước. Khi một bên cho rằng những lời nói và hành vi của
bên kia đã đủ cơ sở để kết luận rõ ràng sẽ xảy ra vi phạm thực tế trong tương lai thì
vẫn chưa đủ để cấu thành một vi phạm dự đoán trước. Họ cần phải xem xét rằng vi
phạm thực tế “tiềm tàng” đó có cấu thành vi phạm cơ bản hay không. Nếu vi phạm
thực tế “tiềm tàng” đó đủ yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản thì ngay khi nó (vi phạm
dự đoán trước) xảy ra, bên bị vi phạm sẽ phát sinh quyền chấm dứt hợp đồng ngay
23
Geden Operations Ltd v Dry Bulkhandy Holidays Inc [2014] EWHC 885, Dẫn theo Richard Stone & James
Devenney (2015), The modern law of contract (eleventh edition), Routledge Pub., tr.464.
24
Qiao Liu, tlđd (22), tr.595.
13
25
lập tức. Ngược lại, nếu vi phạm thực tế “tiềm tàng” đó không đủ yếu tố cấu thành
vi phạm cơ bản hay vi phạm nghiêm trọng, bên đó không có quyền hủy bỏ hợp
đồng. Trong một số trường hợp, để đánh giá hành vi có “nghiêm trọng” hay “cơ
bản”, bên dự định hủy bỏ hợp đồng phải xem xét mức độ của khả năng không thực
hiện nghĩa vụ, như: sự thiếu hụt nghiêm trọng về khả năng thực hiện; mức độ tín
nhiệm; hành vi chuẩn bị hay thực hiện hợp đồng.
Trong CISG và nhiều văn bản pháp lý khác, vi phạm cơ bản hay vi phạm
nghiêm trọng là căn cứ để một bên có quyền áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng,
tương tự, vi phạm dự đoán trước cũng phải mang tính chất như một vi phạm cơ
26
bản. Hành vi vi phạm dự đoán trước phải ảnh hưởng đến các nghĩa vụ cơ bản theo
hợp đồng của bên kia. Một bên sẽ không có quyền áp dụng biện pháp khắc phục do
hành vi vi phạm dự đoán trước như tạm ngừng thực hiện hợp đồng hay hủy bỏ hợp
đồng nếu hành vi vi phạm đó không dự báo một vi phạm cơ bản sẽ xảy ra. Điều này
hạn chế một bên có thể lạm dụng các sai sót nhỏ để ép buộc bên kia thực hiện các
nghĩa vụ bổ sung. Để làm rõ hơn về nội dung này, căn cứ xác định phạm vi nghĩa vụ
bị vi phạm sẽ được trình bày chi tiết tại Chương 2 của Luận văn.
1.1.2.3 Quyền áp dụng biện pháp khắc phục đối với hành vi vi phạm
Mục tiêu của học thuyết vi phạm dự đoán trước là cho phép bên bị vi phạm
ngay lập tức có thể tuyên bố hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu
có) dựa trên vi phạm dự đoán trước. Trong trường hợp một bên có hành vi vi phạm
dự đoán trước, bên kia có quyền lựa chọn. Một là, bên bị vi phạm có thể “từ chối”
vi phạm dự đoán trước và giữ nguyên hiệu lực của hợp đồng. Hai là, bên bị vi phạm
có thể “chấp nhận” vi phạm dự đoán trước, khi đó, quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu
cầu bồi thường thiệt hại sẽ phát sinh ngay lập tức cho bên bị vi phạm.
1.1.2.3.1 Từ chối vi phạm dự đoán trước
Một bên có thể từ chối vi phạm dự đoán trước bằng cách tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ, trong trường hợp đó, khi đến thời hạn ấn định cho việc thực hiện nghĩa vụ,
vi phạm dự đoán trước sẽ được chuyển thành vi phạm thực tế nếu nó vẫn tiếp tục
diễn ra. Hay nói cách khác, việc một bên tiếp tục thực hiện hợp đồng được xem như
là bên đó bỏ qua hành vi vi phạm dự đoán trước của bên kia. Đồng thời, bên bị
vi phạm tiếp tục chờ đợi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ để xem xét liệu là bên kia
có thực sự vi phạm hay không.
25
26
Qiao Liu, tlđd (22), tr.595.
Reza Beheshti, tlđd (14), tr.278.
14
Thêm vào đó, nếu bên bị vi phạm bỏ qua hành vi vi phạm dự đoán trước của
bên kia, bên bị vi phạm vẫn phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, và bảo lưu quyền
bắt buộc thực hiện các nghĩa vụ chính của bên kia. Đồng thời, bên bị vi phạm cũng
từ bỏ quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình trên cơ sở vi
phạm dự đoán trước. Trên thực tế, việc một bên bỏ qua hành vi vi phạm dự đoán
trước của bên kia dường như giúp họ an tâm hơn so với quyết định hủy bỏ hợp đồng
trên cơ sở hành vi vi phạm dự đoán trước. Hành vi vi phạm dự đoán trước luôn chứa
đựng nhiều rủi ro. Bên bị vi phạm có thể hiểu sai các tín hiệu từ bên vi phạm trong
việc đánh giá liệu là có hành vi vi phạm dự đoán trước hay không. Hay, bên vi
phạm có thể có những biểu hiện rất mơ hồ và thường xuyên không nhất quán, khiến
bên kia nghi ngờ về việc liệu họ có thực hiện hợp đồng hay không. Điều này sẽ tạo
ra một tình huống không rõ ràng và không chắc chắn cho bên bị vi phạm. Lúc này,
quyền hủy bỏ hợp đồng (dựa trên hành vi vi phạm dự đoán trước) không có hiệu
quả trong việc hỗ trợ bên bị vi phạm gặp phải những trường hợp không chắc chắn.
27
Để làm rõ hơn, nội dung này sẽ được trình bày chi tiết trong Chương 2 của luận văn.
1.1.2.3.2 Chấp nhận vi phạm dự đoán trước
Bên bị vi phạm có thể chấp nhận vi phạm dự đoán trước, trong trường hợp đó,
vi phạm dự đoán trước cũng giống như một vi phạm cơ bản, có thể làm phát sinh
quyền hủy bỏ hợp đồng và quyền đó phát sinh ngay lập tức, tức là trước khi đến
28
thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Bên bị vi phạm có thể chấp nhận vi phạm bằng cách
gửi thông báo về ý định tuyên bố hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bên kia cung cấp bảo
đảm đầy đủ cho việc thực hiện nghĩa vụ. Nếu bên vi phạm không cung cấp được
bảo đảm đầy đủ cho việc thực hiện nghĩa vụ, bên bị vi phạm có quyền tuyên bố hủy
bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có). Tuy nhiên, khác với vi phạm
29
thực tế có thể dẫn đến hệ quả áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng khác nhau, việc
chấp nhận vi phạm dự đoán trước phải được xem như là bên vi phạm đã vi phạm
toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng. Một bên không thể chấp nhận việc vi phạm một điều
khoản trong hợp đồng (một phần hợp đồng) trong khi coi hợp đồng vẫn còn tồn tại
cho các mục đích khác.
27
30
Reza Beheshti, tlđd (14), tr.280.
28Treitel, ttđd (10), tr.17-078.
29
Tùy thuộc vào mức độ vi phạm thực tế mà có thể dẫn đến hệ quả là bên bị vi phạm có quyền hủy
bỏ một
phần hợp đồng hoặc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng.
30
Johnstone v Milling (1886) 16 Q.B.D. 460. Dẫn theo Treitel, ttđd (10), tr.17-079.
15
Đồng thời, do hệ quả khác nhau giữa từ chối và chấp nhận vi phạm dự đoán
trước là rất lớn, sự rõ ràng của hành vi chấp nhận phải được biểu hiện ra bên ngoài
một cách dứt khoát và cụ thể bằng lời nói hoặc hành động, ví dụ như gửi thông báo.
Một sự im lặng hoặc không hành động không thể rõ ràng và dứt khoát theo ý nghĩa
của quy định này. Nếu một bên không biểu hiện bất kỳ hành vi hay phản ứng nào
khi bên kia vi phạm dự đoán trước cũng gặp nhiều khó khăn trong việc chứng minh
liệu là họ đã chấp nhận vi phạm hay không. Ví dụ, nếu bên A gửi thông báo sẽ
không thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng với bên B. Điều này đủ cơ sở để
xác định một vi phạm dự đoán trước, do đó, nếu bên B chấp nhận bằng việc gửi
thông báo, hợp đồng sẽ được chấm dứt ngay lập tức. Tuy nhiên, nếu bên B không
liên lạc với bên A nhưng lại bắt đầu một số hành động như bán lại hàng hóa cho bên
thứ ba thì câu hỏi sẽ đặt ra là bên B đã chấp nhận hay từ chối vi phạm dự đoán trước
chưa; và hành vi bán lại cho bên thứ ba của bên B có đủ yếu tố để cấu thành một sự
chấp nhận rõ ràng và dứt khoát hay không.
31
Thêm vào đó, bên bị vi phạm phải chấp nhận vi phạm dự đoán trước trong thời
hạn hợp lý. Trong trường hợp khoảng thời gian từ chối và thời gian ấn định để thực
hiện là một khoảng thời gian dài, thì cũng có những ý kiến phản đối thực tế đối với
quy tắc trong Hochster v De la Tour, và những điều này đặc biệt mạnh mẽ khi một
bên tiến hành khởi kiện diễn ra trước thời gian ấn định cho việc thực hiện. Một ý
32
kiến phản đối như vậy là quy tắc có thể dẫn đến việc định lượng sai về thiệt hại.
Nội dung này sẽ được phân tích rõ trong Chương 3 của luận văn.
1.1.3 Khái niệm biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ
theo Công ước Viên năm 1980
Hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ là một trong những hệ quả
của việc chấp nhận vi phạm dự đoán trước. Trong CISG, hủy bỏ hợp đồng trước
thời hạn thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Chương V, Mục 1, Điều 72. Theo đó,
CISG quy định: “Nếu trước ngày quy định cho việc thực hiện hợp đồng mà thấy rõ
ràng rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm cơ bản đến hợp đồng, bên kia có thể
tuyên bố hủy hợp đồng”.
Mục tiêu của Điều 72 CISG là cung cấp cho bên bị vi phạm một biện pháp
khắc phục hậu quả trong trường hợp rõ ràng bên kia sẽ không thực hiện hoặc sẽ vi
31
32
Richard Stone & James Devenney, tlđd (26), tr.465.
Treitel, ttđd (10), tr.17-081.
16
33
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng khi đến hạn. Biện pháp khắc phục này dựa trên
học thuyết về vi phạm dự đoán trước, cho phép bên bị vi phạm hủy bỏ hợp đồng khi
có đủ căn cứ “rõ ràng” một vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng sẽ xảy ra mà không
phải đợi đến khi nghĩa vụ đến hạn. Trong quá trình soạn thảo CISG, ngay từ đầu,
quy định này đã không nhận được sự ủng hộ từ các học giả đến từ các nước theo hệ
thống Dân luật (Civil Law) và một số đại diện của Thế giới thứ ba phản đối Điều 71
và 72 một phần vì họ không quen với học thuyết vi phạm dự đoán trước. Khái niệm
về vi phạm dự đoán trước được bắt nguồn từ hệ thống Thông luật của Anh
(Common Law) và được áp dụng phổ biến trong các nước theo hệ thống pháp luật
34
này. Các nước theo hệ thống Dân luật thường không công nhận học thuyết này.
Nguyên nhân là do việc áp dụng chế tài này bị cho rằng đã dựa vào căn cứ mang
tính chất chủ quan của một bên, thiếu minh bạch và không công bằng đối với bên vi
35
phạm. Bởi lẽ, hành vi vi phạm nghĩa vụ khi chưa đến thời hạn thực hiện thường
không rõ ràng và thiếu cơ sở xác đáng để chứng minh rằng hành vi đó sẽ dẫn đến
một vi phạm cơ bản để bên kia có quyền áp dụng biện pháp tạm ngừng thực hiện
hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng. Đồng thời, các biện pháp khắc phục này mang tính
“trừng phạt” bên vi phạm quá nặng bằng cách thông báo (tạm ngừng thực hiện hợp
đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng), và do đó, bên vi phạm không có cơ hội đưa ra những
bảo đảm đầy đủ trước khi bên kia có thể tạm ngừng thực hiện hoặc hủy bỏ hợp
đồng. Ngay cả khi bên vi phạm cung cấp các bảo đảm đầy đủ thực hiện nghĩa vụ
ngay lập tức, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng ngắn hạn cũng có thể gây ra thiệt
hại đáng kể, chẳng hạn như vi phạm hợp đồng với bên thứ ba. Đồng thời, điều
khoản hủy bỏ hợp đồng dựa trên các tiêu chí được cho là có thể xảy ra, nên có khả
năng rất lớn bị lạm dụng bởi một bên muốn giải phóng khỏi hợp đồng bằng cách
khai thác trạng thái không ổn định của bên kia.
Đối lập với quan điểm trên, các học giả đến từ các nước theo hệ thống Thông
luật cho rằng, một bên không nên tiếp tục bị ràng buộc bởi hợp đồng khi bên kia
không thể thực hiện được nghĩa vụ cơ bản của mình, thậm chí là trước thời hạn các
bên thực hiện hợp đồng. Bảo vệ cho quan điểm trên, các học giả đã đưa ra lập luận:
“Suy cho cùng, một việc vốn dĩ đã được dự đoán chắc chắn không thể được thực
33
34
35
Fritz Enderlein & Dietrich Maskow, tlđd (5), tr.291.
M. Gilbey, tlđd (23), tr.477.
E. Tabachnik (1972), Anticipatory Breach of Contract, Current Legal Problems, Volume 25, Issue
1, tr.149, nguồn: https://doi.org/10.1093/clp/25.1.149, truy cập lần cuối 07/6/2021.
17
hiện khi đến hạn và một việc trên thực tế đã không được thực hiện khi đến hạn đều
dẫn đến hậu quả như nhau. Vì thế, lúc này, sự chấm dứt hợp đồng một cách dứt
36
khoát càng sớm càng giảm thiểu các thiệt hại phát sinh”. Thêm vào đó, xét về
mặt lợi ích kinh tế, việc một bên có quyền giải phóng khỏi một hợp đồng đã không
thể đáp ứng được các mục tiêu khi giao kết sẽ khuyến khích bên đó thực hiện các
37
biện pháp giảm thiểu thiệt hại.
Bản bình luận về Công ước Viên của Hội đồng thư ký UNCITRAL cũng đánh
giá về quy định này.
38
Căn cứ để xác định vi phạm cơ bản sẽ xảy ra có thể dựa trên
ngôn từ và hành vi của một bên khiến cho bên còn lại có sự nghi ngờ về khả năng
thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Những lí do có thể là chủ quan hoặc khách quan của
một bên, mặc dù lí do khách quan không thể làm mất quyền hủy bỏ hợp đồng của
bên kia theo Điều 72 CISG, nhưng bên không thực hiện nghĩa vụ có thể được miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo Điều 79 CISG. Hay khi bên có nghĩa vụ
không thể đưa ra sự bảo đảm chắc chắn để xoá bỏ những hoài nghi về dấu hiệu thể
hiện bên đó không thể thực hiện nghĩa vụ của bên còn lại cũng sẽ khiến cho việc
nghi ngờ một vi phạm cơ bản sẽ xảy ra trở nên rõ ràng hơn. Sự bảo đảm này, tùy
theo trường hợp cụ thể, có thể căn cứ trên mức độ uy tín của bên cam kết, lịch sử
thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng hay sự thiện chí trong việc thực hiện những nghĩa
vụ hợp đồng.
1.1.4 Đặc điểm của biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện
nghĩa vụ theo Công ước Viên năm 1980
1.1.4.1 Thời điểm áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực
hiện nghĩa vụ
Theo lý thuyết pháp luật truyền thống, một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu
đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, bên kia không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình và nghĩa vụ đó là nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng. Như vậy,
biện pháp hủy bỏ hợp đồng được áp dụng sau khi đã xuất hiện hành vi vi phạm cơ
bản của một bên. Đối lập với nguyên tắc pháp luật truyền thống, biện pháp hủy bỏ
hợp đồng theo Điều 72 CISG cho phép một bên, căn cứ vào những hành vi không
36
Keith A. Rowley (2001), “A Brief History of Anticipatory Repudiation in American Contract Law”,
University of Cincinnati Law Review 69, no. 2, xem tại: https://heinonline.org/HOL/LandingPage?
handle=hein.journals/ucinlr69&div=25&id=&page=, truy cập lần cuối 07/6/2021.
37
Reza Beheshti, tlđd (14), tr.278.
38 Secretariat Commentary Art. 72, nguồn: https://iicl.law.pace.edu/cisg/page/article-72-secretariatcommentary-closest-counterpart-official-commentary, truy cập lần cuối 26/5/2021.
- Xem thêm -