Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật việt nam và pháp luật nước ngoài...

Tài liệu Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật việt nam và pháp luật nước ngoài

.PDF
160
6
66

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẠ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẠ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI Chuyên ngành : Luật Quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS TRẦN MINH NGỌC Hà nội – 2012 MỤC LỤC MỤC LỤC ..................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN ................. 7 1.1. Khái quát về hợp đồng ............................................................................. 7 1.1.1. Khái niệm về hợp đồng ......................................................................... 7 1.1.2. Bản chất của hợp đồng ....................................................................... 11 1.1.2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên........................................... 11 1.1.2.2. Hợp đồng là sự ràng buộc pháp lý giữa các bên ............................... 12 1.1.3. Một số đặc điểm cơ bản của hợp đồng ................................................ 13 1.1.4. Một số loại hợp đồng phổ biến ........................................................... 14 1.2. Khái quát về ủy quyền ........................................................................... 18 1.2.1. Khái niệm về ủy quyền ....................................................................... 18 1.2.2. Hình thức thể hiện sự ủy quyền .......................................................... 20 1.3. Hợp đồng ủy quyền ............................................................................... 22 1.3.1. Khái niệm ........................................................................................... 22 1.3.2. Mục đích của hợp đồng ủy quyền ....................................................... 23 1.3.3. Hình thức của hợp đồng ủy quyền ...................................................... 24 CHƢƠNG 2: HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG TƢƠNG QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI ... 26 2.1. Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam ........................................ 26 2.1.1. Văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng ủy quyền .... 26 2.1.1.1. Các văn bản trực tiếp ....................................................................... 26 2.1.1.2. Các văn bản gián tiếp ....................................................................... 26 2.1.2. Các lĩnh vực sử dụng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam .... 27 2.1.2.1. Hợp đồng ủy quyền để thực hiện quyền đại diện trong tố tụng ........ 27 2.1.2.2. Hợp đồng ủy quyền để thực hiện quyền đại diện ngoài tố tụng ........ 31 2.1.3. Quy định về nội dung và hình thức của hợp đồng ủy quyền ................ 33 1 2.1.3.1. Quy định về nội dung của hợp đồng ủy quyền ................................. 33 2.1.3.2. Quy định về hình thức của hợp đồng ủy quyền ................................ 34 2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ủy quyền .................. 37 2.1.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên ủy quyền............................................... 37 2.1.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên đƣợc ủy quyền ...................................... 38 2.1.5. Thời hạn ủy quyền và chấm dứt hợp đồng ủy quyền ........................... 41 2.1.5.1. Thời hạn ủy quyền ........................................................................... 41 2.1.5.2. Chấm dứt hợp đồng ủy quyền .......................................................... 41 2.1.6. Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng ủy quyền ......................... 44 2.1.6.1. Tƣ cách chủ thể của các bên ký kết hợp đồng .................................. 46 2.1.6.2. Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức ...................................... 48 2.1.6.3. Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung ....................................... 49 2.1.6.4. Giải quyết xung đột pháp luật về thời điểm và nơi giao kết hợp đồng trong trƣờng hợp giao kết vắng mặt .............................................................. 50 2.2. Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật nƣớc ngoài ...................................... 51 2.2.1. Hệ thống Luật dân sự (Civil Law) ...................................................... 52 2.2.1.1. Pháp luật Pháp ................................................................................. 54 2.2.1.2. Pháp luật Quebec - Canada .............................................................. 58 2.2.1.3. Pháp luật Đức .................................................................................. 61 2.2.2. Hệ thống Thông Luật (Common Law) ................................................ 62 2.2.2.1. Pháp luật Anh .................................................................................. 63 2.2.2.2. Pháp luật Mỹ ................................................................................... 64 2.2.3. Pháp luật một số nƣớc Châu Á ........................................................... 69 2.2.3.1. Pháp luật Nhật Bản .......................................................................... 69 2.2.3.2. Pháp luật Hàn Quốc ......................................................................... 76 2.2.3.3. Pháp luật Trung Quốc ...................................................................... 77 2.3. So sánh và nhận xét ............................................................................... 79 2.3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam và nƣớc ngoài về nội dung, hình thức và các trƣờng hợp sử dụng hợp đồng ủy quyền ............................................ 79 2 2.3.2. Những quy định của pháp luật nƣớc ngoài có giá trị tham khảo.......... 81 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN ............................................................................ 86 3.1. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về chế định hợp đồng ủy quyền .............................................................................................. 86 3.2. Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy quyền...... 99 3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy quyền ........ 101 3.3.1. Về hình thức của hợp đồng ủy quyền ................................................ 101 3.3.2. Về vấn đề chấm dứt đại diện ủy quyền trong thực tiễn vụ án có ủy quyền... 104 3.3.3. Về vấn đề hình thức đơn khởi kiện và đơn kháng cáo trong thực tiễn vụ án có ủy quyền ........................................................................................... 105 3.3.4. Về vấn đề đại diện cho bị cáo chƣa thành niên trong thực tiễn xét xử . 106 3.3.5. Vấn đề sử dụng thuật ngữ pháp lý..................................................... 106 3.3.6. Về yêu cầu mang giấy tờ kèm theo của các cơ quan có thẩm quyền công chứng/chứng thực hợp đồng ủy quyền ........................................................ 108 3.3.7. Bổ sung thêm một số quy định mới .................................................. 109 KẾT LUẬN ................................................................................................ 111 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 113 PHỤ LỤC 1 – CÁC MẪU VĂN BẢN ỦY QUYỀN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ................................................................................................ 118 PHỤ LỤC 2 – CÁC MẪU VĂN BẢN ỦY QUYỀN THEO PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI .......................................................................................... 138 3 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong xã hội loài ngƣời để thỏa mãn các nhu cầu và lợi ích của mình thì các cá nhân, tổ chức phải xác lập các mối quan hệ với nhau. Các mối quan hệ đƣợc thể hiện thông qua sự trao đổi, thỏa thuận làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong phạm vi các mối quan hệ về dân sự, kinh tế, lao động thì sự trao đổi, thỏa thuận đƣợc coi là “giao dịch”. Dƣới góc độ pháp lý thì giao dịch nói trên luôn đƣợc thể hiện bằng hình thức “hợp đồng”. Hay nói một cách khác “hợp đồng” là một hình thức pháp lý của “giao dịch”. Có thể nói, hợp đồng là một loại giao dịch không thể thiếu của bất cứ chủ thể nào dù là cá nhân hay pháp nhân. Hợp đồng đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 có tính chất nền tảng, chứa đựng các quy định mang tính chất tiêu chuẩn mà các ngành luật khác khi có điều chỉnh mối quan hệ liên quan đến “hợp đồng” cũng phải tuân theo. Nói cách khác, khi điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến hợp đồng, các luật chuyên ngành không điều chỉnh độc lập mà nằm trong mối liên hệ với luật chung là luật dân sự. Vì lẽ đó, Bộ luật Dân sự phải đóng vai trò là Bộ luật gốc quy định về giao dịch dân sự và các hợp đồng cơ bản. Các quy định pháp luật về thƣơng mại, kinh tế chỉ là sự phát triển tiếp tục các quy định nêu trên của dân sự trong lĩnh vực thƣơng mại, kinh tế. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì có rất nhiều các loại hợp đồng cơ bản, trong đó có hợp đồng ủy quyền. Trong xã hội hiện đại, con ngƣời có nhiều nhu cầu và công việc phải làm tại nhiều địa điểm khác nhau trong một khoảng thời gian ngắn. Trong hoàn cảnh đó, phƣơng tiện tốt nhất giúp họ đạt đƣợc các nhu cầu và mục đích của mình chính là “hợp đồng ủy quyền”. Chính vì lý do đó mà tác giả luận văn chọn đề tài “Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam và theo pháp luật nƣớc ngoài” để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ. 4 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Khi lựa chọn đề tài cho luận văn của mình, tác giả luận văn có mục đích tìm hiểu và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam cũng nhƣ của một số nƣớc trên thế giới về sự phân biệt hình thức thể hiện sự ủy quyền (giấy ủy quyền/hợp đồng ủy quyền giống nhau về bản chất, khác nhau về tên gọi hay chúng là hai loại văn bản có giá trị pháp lý khác nhau), các trƣờng hợp sử dụng hợp đồng ủy quyền và việc công chứng/chứng thực có phải là điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực. Thông qua sự tìm hiểu đó, tác giả luận văn đƣa ra những nhận xét và đánh giá theo quan điểm của cá nhân về sự phù hợp hay không phù hợp của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Từ đó, tác giả luận văn đề xuất một số kiến nghị với mong muốn góp phần giải quyết các vƣớng mắc trong quá trình thực hiện các quan hệ ủy quyền; sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan để ngày một hoàn thiện hơn. 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI - Đối tượng nghiên cứu: Tác giả luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp luật có liên quan đến việc ủy quyền, hợp đồng ủy quyền của Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới. - Phạm vi nghiên cứu: Ủy quyền là một vấn đề rất rộng vì nó bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực pháp luật không chỉ dân sự mà còn trong các lĩnh vực nhƣ kinh doanh thƣơng mại, lao động, hành chính, hình sự… và ở nhiều khía cạnh tiếp cận khác nhau (có khi chỉ có luật nội dung, có khi chỉ có luật hình thức hoặc cả hai nguồn luật này đều điều chỉnh). Do vậy, luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu chủ yếu về các quy định về nội dung, hình thức của hợp đồng ủy quyền trong Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; các trƣờng hợp hay sử dụng hợp đồng ủy quyền trong thực tiễn cuộc sống và các vƣớng mắc khi sử dụng hợp đồng ủy quyền 5 tại Việt Nam hiện nay; trong tƣơng quan so sánh với pháp luật nƣớc ngoài để đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định về hợp đồng ủy quyền của pháp luật Việt Nam mà thôi. 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Quá trình nghiên cứu đề tài của luận văn tác giả đã dựa trên các quan điểm của Đảng, của Nhà nƣớc về hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp… khi nghiên cứu đề tài. 5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Với việc nghiên cứu đề tài này, tác giả luận văn đƣa ra một số kiến nghị bổ sung và sửa đổi một số quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến vấn đề ủy quyền nói chung và hợp đồng ủy quyền nói riêng. Điều đó sẽ giúp hoàn thiện pháp luật Việt Nam hơn và pháp luật Việt Nam tiến gần đến những chuẩn mực chung của pháp luật thế giới. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung của luận văn đƣợc thể hiện trong ba chƣơng với nội dung nhƣ sau: - Chƣơng 1: Lý luận chung về hợp đồng ủy quyền. - Chƣơng 2: Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam trong tƣơng quan so sánh với pháp luật nƣớc ngoài. - Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy quyền. 6 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN 1.1. Khái quát về hợp đồng 1.1.1. Khái niệm về hợp đồng Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng và là tất yếu đối với đời sống xã hội. Song, việc chuyển giao các lợi ích này không phải tự nhiên thiết lập mà chỉ đƣợc hình thành khi có hành vi có ý chí của của chủ thể, nhƣ C. Mác đã từng nói: "Tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị trƣờng và trao đổi với nhau đƣợc. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những ngƣời giữ chúng phải đối xử với nhau nhƣ những ngƣời mà ý chí nằm trong các vật đó"[5]. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới đƣợc hình thành. Một trong những phƣơng thức cơ bản để thực hiện việc trao đổi lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên, dựa trên các nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và đƣợc đặt dƣới sự bảo trợ của luật pháp. Hiện tƣợng đó đƣợc định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý là “Hợp đồng”. Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con ngƣời thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, của việc giao lƣu, buôn bán, hợp tác kinh tế, thƣơng mại, đã dẫn đến việc hình thành rất nhiều quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể khác nhau nhƣ hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động... Theo đó, hợp đồng theo nghĩa chung nhất đƣợc hiểu là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể. Khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, hợp đồng đƣợc xem là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do các bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý đƣợc dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực đƣợc đảm bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách nhiệm thực thi hợp 7 đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do hợp đồng: các bên đƣợc tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận của ngƣời khác. Theo quy định tại Điều 1378 Bộ luật Dân sự 1994 của Bang Quebec (Canada): “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Tuy có tính khái quát hơn, nhƣng định nghĩa này cũng không hoàn toàn “thoát ly” khỏi định nghĩa tại Điều 1101 Bộ luật Dân sự Pháp. Điều 1101 Bộ luật Dân sự Pháp quy định, hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều ngƣời cam kết với một hoặc nhiều ngƣời khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó [35]. Cả hai định nghĩa trên đều thể hiện rõ bản chất của hợp đồng là sự “thỏa thuận” hay “thống nhất ý chí” giữa các bên. Tuy nhiên, nội dung định nghĩa chỉ thể hiện chức năng của hợp đồng mà chƣa chỉ ra đƣợc dấu hiệu đặc trƣng thứ hai của hợp đồng: nhằm tạo ra hiệu lực ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Tại Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc 1999 quy định: “Hợp đồng theo qui định của Luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng với qui định của các luật khác”. Định nghĩa hợp đồng trong Luật Hợp đồng Trung Quốc tƣơng đối dài vì bao hàm cả các nguyên tắc khái quát trong việc giao kết thực hiện hợp đồng mà ngƣời Trung Quốc muốn nhấn mạnh, đó là nguyên tắc “bình đẳng” giữa các bên tham gia hợp đồng. Khác với quan niệm của các nƣớc theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống Common Law, ban đầu ngƣời ta xem hợp đồng nhƣ là kết quả của các cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau này, các thẩm phán ở Anh đã xem xét hợp đồng nhƣ là một nghĩa vụ đƣợc tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên. 8 Định nghĩa “hợp đồng” cũng đƣợc qui định tại Điều 1-201 Bộ luật Thƣơng mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code of United State of America, viết tắt là UCC): “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự „thỏa thuận‟ của các bên…”. Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai có nêu một định nghĩa cụ thể hơn: Hợp đồng là “một hay một tập hợp các cam kết mà nếu vi phạm những cam kết này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự cƣỡng chế cuả pháp luật, hoặc nói cách khác pháp luật công nhận việc thực hiện những cam kết này là một nghĩa vụ”. Trong Bách Khoa toàn thƣ về Pháp luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định” [34]. Định nghĩa này thể hiện rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái niệm hợp đồng và nội dung của nó cũng có tính “hội nhập” hơn với khoa học pháp lý của các quốc gia khác trên thế giới. Đã từ lâu pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bởi vì, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thƣờng, đều liên quan đến hợp đồng. Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện nay đƣợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhƣ Bộ luật Dân sự, Luật Thƣơng mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm… Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự đƣợc coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về hợp đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng đƣợc xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm. Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự đƣợc áp dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế, hợp đồng có mục đích kinh doanh hay hợp đồng nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Trên cơ sở các quy định chung về hợp đồng của Bộ luật Dân sự, tuỳ vào tính chất đặc thù của các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể có những quy định riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực đó, ví dụ nhƣ các quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá trong Luật Thƣơng mại, hợp đồng bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm… Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự đƣợc coi là các quy định chung còn các quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành đƣợc coi là các quy 9 định chuyên ngành và các quy định này đƣợc ƣu tiên áp dụng. Chính vì lẽ đó mà các chế định về hợp đồng và các vấn đề liên quan đến hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005 chiếm một vị trí nòng cốt với hơn 300 Điều trên tổng số 777 Điều. Pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay, tuy có một số hạn chế nhất định đang đƣợc các nhà làm luật tiếp tục sửa đổi, bổ sung để bắt kịp với thực tiễn xã hội nhƣng nhìn chung đƣợc xem là khá tiến bộ và phù hợp với xu hƣớng phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ hiện nay. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung các chế định về hợp đồng đã phần nào quán triệt, thể chế hoá các chủ trƣơng, chính sách về phát triển kinh tế – xã hội của nhà nƣớc, cụ thể hoá các quyền về kinh tế, dân sự của công dân đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và đáp ứng đƣợc các yêu cầu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng đã thể hiện quan điểm tăng cƣờng quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên đƣợc toàn quyền quyết định về đối tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, nội dung của hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi có vi phạm. Điều 338 Bộ luật Dân sự năm 2005 định nghĩa hợp đồng dân sự nhƣ sau: "Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự". Có thể dễ dàng thấy rằng, qui định tại Điều 388 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng gần giống nhƣ qui định của Luật hợp đồng Trung quốc 1999. Nhƣ vậy, một hợp đồng phải xuất phát từ yếu tố thoả thuận nhƣng không phải mọi thoả thuận đều là hợp đồng. Chỉ những thoả thuận làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mới tạo nên quan hệ hợp đồng. Trên thực tế, những thoả thuận mang tính cách là sự giúp đỡ vô tƣ (ví dụ, cho đi nhờ xe) hay những thoả thuận mang tính cách xã giao (nhận lời mời đi dự tiệc hay đi chơi…) đều không phải là hợp đồng [7]. Từ định nghĩa trên về hợp đồng dễ nhận thấy, hợp đồng dân sự chính là bản "giao kèo" để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên chủ thể tham gia hợp đồng. Xét về bản chất, hợp đồng đƣợc tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả của quá trình thƣơng thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa 10 thuận của các bên. Xét về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Nhƣ vậy, hợp đồng là phƣơng tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ. Có thể nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của hợp đồng và thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. 1.1.2. Bản chất của hợp đồng Nhƣ đã đƣợc thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng đƣợc tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên. 1.1.2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhƣng chung quy lại, tất cả các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng. Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng. Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào đƣợc tạo ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Theo nghĩa thông thƣờng, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn bạc”. Trên phƣơng diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật quy định các bên tham gia cùng thƣơng lƣợng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Bản chất của sự thỏa thuận của là kết quả của sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí của mỗi bên, đặt trong mối liên hệ thống nhất với sự ƣng thuận tƣơng ứng của một hoặc các bên khác, tạo thành sự đồng thuận của các bên, nhằm đạt một mục đích xác định. Trên phƣơng diện nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà còn phải có nội dung cụ thể, mục 11 đích rõ ràng, tức phải xác định đƣợc bản chất của quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục đích của hợp đồng. Hợp đồng đƣợc coi là hoàn thành, nếu các bên đã thỏa thuận đƣợc những nội dung chủ yếu. Chỉ những thỏa thuận đƣợc xác lập, thực hiện trên cơ sở sự ƣng thuận đích thực, thống nhất ý chí của các bên, phù hợp với ý chí của các bên mới là hợp đồng. Vì vậy, hợp đồng đƣợc hình thành do giả tạo, do có một bên chủ thể bị lừa dối, đe dọa, cƣỡng ép, nhầm lẫn mặc dù có sự ƣng thuận cũng không đƣợc công nhận là hợp pháp bởi vì chủ thể không thể hiện ý chí đích thực. Hay nói cách khác, thỏa thuận của hợp đồng không đạt đƣợc [64]. Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn hợp đồng. 1.1.2.2. Hợp đồng là sự ràng buộc pháp lý giữa các bên Một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên. Cũng có những thỏa thuận đặt các bên vào một quan hệ nghĩa vụ mà pháp luật định, chẳng hạn nhƣ hai bên đồng ý tự nguyện đăng ký kết hôn, thỏa thuận về việc nuôi con nuôi… Những sự thỏa thuận, đồng ý đó không phải là hợp đồng. Đây chỉ là những thỏa thuận nhằm thừa nhận một quy chế pháp định, chấp nhận thực hiện các nghĩa vụ luật định sẵn chứ không phải là hợp đồng. Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhƣng không phải sự thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc pháp lý mới đƣợc coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng. 12 1.1.3. Một số đặc điểm cơ bản của hợp đồng Từ khái niệm hợp đồng đƣa ra những đặc điểm cơ bản của hợp đổng về: chủ thể của hợp đồng, nội dung của hợp đồng, hình thức của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng và chấm dứt hợp đồng. - Chủ thể của hợp đồng: Hợp đồng bao gồm từ hai bên chủ thể trở lên. Mỗi bên trong quan hệ hợp đồng dân sự có thể có hai hoặc nhiều chủ thể tham gia. Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là một trong số các chủ thể sau: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. - Nội dung hợp đồng: Hợp đồng dân sự có các nội dung chủ yếu theo nhƣ đối tƣợng của hợp đồng (tài sản hoặc công việc đƣợc giao dịch), số lƣợng, chất lƣợng, giá cả, phƣơng thức thanh toán, thời hạn, đặc điểm, phƣơng thức thực hiện hợp đồng, quyền, nghĩa vụ của mỗi bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; thiếu một trong các nội dung chủ yếu trên đây thì hợp đồng dân sự đƣợc coi nhƣ là chƣa giao kết. - Hình thức hợp đồng: Về nguyên tắc, các bên có quyền tự do quyết định hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp ngƣời ta quy định cụ thể về hình thức của từng loại hợp đồng (khi một hợp đồng bắt buộc phải đƣợc thể hiện dƣới một hình thức nhất định). Mục đích của các quy định về hình thức hợp đồng là nhằm tạo điều kiện cho các bên tham gia giao kết hợp đồng dân sự đƣợc quyền tự do lựa chọn hình thức của hợp đồng, phù hợp với mục đích của giao dịch dân sự, hạn chế tranh chấp. Đối với một số loại hợp đồng dân sự pháp luật quy định phải đăng ký, phải công chứng/chứng thực. Mục đích của việc đăng ký, công chứng/chứng thực này không phải chỉ nhằm bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nƣớc đối với một số loại tài sản nhất định mà còn là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao kết hợp đồng dân sự. Hình thức của hợp đồng dân sự rất phong phú, đa dạng: có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản; có thể văn bản không cần hoặc cần phải có công chứng/chứng thực của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Đối với những hợp đồng mà pháp luật quy định phải đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, các bên phải hoàn tất đầy đủ những thủ tục này. Hình thức của hợp đồng dân sự chỉ là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trƣờng hợp pháp luật có quy định cụ thể, còn không thì hợp đồng không bị vô hiệu trong trƣờng hợp 13 có vi phạm về hình thức. Để phù hợp với xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và việc ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, pháp luật cũng ghi nhận hình thức của hợp đồng có thể đƣợc thể hiện thông qua phƣơng tiện điện tử dƣới hình thức thông điệp dữ liệu và hình thức này đƣợc coi là hợp đồng bằng văn bản. - Hợp đồng đƣợc giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trƣờng hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Khi hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị bắt buộc đối với các bên tham gia giao kết hợp đồng phải thực hiện. - Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: Có hiệu lực theo luật định là điều kiện về mặt chủ thể, điều kiện về mặt nội dung và điều kiện về mặt hình thức. - Chấm dứt hợp đồng Hợp đồng chấm dứt khi các bên đã hoàn thành hợp đồng. Khi các bên tham gia hợp đồng đã thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ phần mình và do vậy mỗi bên đều đã đáp ứng đƣợc quyền dân sự của mình (mục đích khi giao kết hợp đồng dân sự đã đạt đƣợc) thì hợp đồng coi nhƣ đã hoàn thành. Hợp đồng chấm dứt theo thoả thuận của các bên. Trong những trƣờng hợp bên có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện hợp đồng hoặc nếu hợp đồng đƣợc thực hiện sẽ gây ra tổn thất lớn về vật chất của một hoặc hai bên thì các bên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng đã giao kết đƣợc coi là chấm dứt tại thời điểm các bên đạt đƣợc sự thỏa thuận nói trên. Hợp đồng chấm dứt khi chủ thể giao kết hợp đồng không tồn tại tại thời điểm đó. Trƣờng hợp này hợp đồng không có một bên hoặc nhiều bên để thực hiện. Ví dụ: Ngƣời giao kết hợp đồng chết, tổ chức giải tán, chấm dứt hoạt động… 1.1.4. Một số loại hợp đồng phổ biến Nếu nhìn trên tổng thể các mối quan hệ trong xã hội, các giao dịch rất đa dạng, phụ thuộc vào mục đích, lợi ích mối quan hệ mà các chủ thể tham gia, giao dịch đó mong muốn. Từ đó để phân biệt các loại hợp đồng ngƣời ta phân ra ba nhóm (loại) hợp đồng cơ bản nhƣ sau: - Hợp đồng dân sự; 14 - Hợp đồng kinh doanh – thƣơng mại (hay là hợp đồng kinh tế); - Hợp đồng lao động: Các loại hợp đồng này có những đặc trƣng khác nhau, chủ yếu khác nhau về các đối tƣợng và chủ thể của các loại hợp đồng đó. Trong mỗi loại hợp đồng (nhóm) lại có những hình thức hợp đồng khác nhau, chủ yếu là khác nhau về đối tƣợng của hợp đồng đó [9]. Đối với hợp đồng dân sự, trong sự đa dạng về nội dung của hợp đồng cũng nhƣ phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề khác nhau mà hợp đồng có thể đƣợc phân hành từng nhóm khác nhau dựa trên những căn cứ, dấu hiệu đặc trƣng cụ thể: - Dựa vào hình thức của hợp đồng, hợp đồng đƣợc phân thành hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng bằng văn bản, hợp đồng có công chứng, chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép, hợp đồng theo mẫu… - Dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể tham gia hợp đồng, thì hợp đồng đƣợc chia thành hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Trong cách phân loại hợp đồng này, cơ sở để xác định một hợp đồng là song vụ hay hợp đồng đơn vụ chính là mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực. + Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau, hay nói cách khác mỗi bên chủ thể tham gia hợp đồng vừa là ngƣời có quyền lại vừa có nghĩa vụ. Do vậy, trong nội dung của hợp đồng này, quyền dân sự của chủ thể tham gia này đối lập tƣơng ứng với nghĩa vụ của chủ thể tham gia hợp đồng kia và ngƣợc lại. Ví dụ trong hợp đồng mua bán tài sản, thì bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. + Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ còn một bên có quyền. Điều này có nghĩa là trong hợp đồng đơn vụ, chỉ có một hay nhiều chủ thể có nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với chủ thể kia, còn một hay nhiều chủ thể kia là ngƣời có quyền nhƣng không phải thực hiện nghĩa vụ nào (ví dụ hợp đồng tặng cho tài sản). Do đó, nếu hợp đồng đƣợc giao kết dƣới hình thức viết thì chỉ cần 15 lập thành bản và giao cho bên có quyền giữ hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng nhƣ đã thoả thuận; chỉ đƣợc thực hiện trƣớc hoặc sau thời hạn nếu đƣợc bên có quyền đồng ý. - Dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng, hợp đồng đƣợc phân thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ nhƣ sau: + Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ. Theo đó, khi hợp đồng chính đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định, thi đƣơng nhiên phát sinh hiệu lực, nghĩa là phát sinh hiệu lực bắt buộc đối với các bên kể từ thời điểm giao kết. + Hợp đồng phụ là hợp đồng có hiệu lực khi có 2 điều kiện sau: thứ nhất, phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, nội dung, đối tƣợng cũng nhƣ hình thức của hợp đồng,…; thứ hai, hợp đồng chính có hiệu lực. - Dựa vào tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể tham gia hợp đồng, hợp đồng đƣợc chia thành hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù, trong đó: + Hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng mà mỗi bên chủ thể sau khi thực hiện cho bên kia một lợi ích, hay công việc nhất định sẽ nhận lại đƣợc từ bên kia một lợi ích tƣơng ứng. Tuy nhiên, không phải trong mọi trƣờng hợp, nhất thiết hai bên đều phải nhận đƣợc (đƣợc hƣởng) lợi ích vật chất thì mới đƣợc coi là đền bù tƣơng ứng. Bởi trong cuộc sống, nhu cầu của con ngƣời là rất đa dạng, phong phú, cho nên các bên tham gia hợp đồng có thể thoả thuận giao kết những hợp đồng mà một bên sẽ đƣợc hƣởng lợi ích vật chất, còn bên kia sẽ đƣợc hƣởng lợi ích tinh thần. + Hợp đồng không có đền bù là hợp đồng mà một bên thực hiện cho bên kia một lợi ích mà không nhận lại từ bên kia một lợi ích nào. Ví dụ, hợp đồng tặng cho không kèm theo bất cứ một điều kiện nào. Trong cuộc sống thƣờng nhất, không phải trong mọi trƣờng hợp các chủ thể đều sử dụng hợp đồng nhƣ một phƣơng tiện để trao đổi những lợi ích nhất định, mà đôi khi các chủ thể còn sử dụng hợp đồng làm phƣơng tiện để giúp đỡ lẫn nhau, hay nói khác đi, việc các chủ thể giao kết hợp đồng dựa trên cơ sở tình cảm, tinh thần tƣơng thân tƣơng ái, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Tiền đề của hợp đồng không có đền bù, do 16 đó là mối quan hệ sẵn có giữa các chủ thể chứ không phải là các lợi ích nhƣ trong hợp đồng có đền bù; hay nói khác đi sự chi phối của yếu tố tình cảm đã vƣợt lên trên tính chất của quy luật giá trị. - Dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các điều khoản trong nội dung của hợp đồng thì hợp đồng đƣợc chia thành hoạp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba và hợp đồng có điều kiện. + Hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và ngƣời thứ ba đƣợc hƣởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. Ngƣời thứ ba ở đây là khái niệm pháp lý chỉ ngƣời không giao kết hợp đồng nhƣng đƣợc hƣởng quyền lợi do những ngƣời giao kết mang đến cho mình. Khi thực hiện hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba thì ngƣời thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình; nếu các bên có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng thì ngƣời thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi tranh chấp đƣợc giải quyết. Bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba. Trong trƣờng hợp ngƣời thứ ba từ chối lợi ích của mình trƣớc khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ, nhƣng phải báo cho bên có quyền và hợp đồng đƣợc coi là bị huỷ bỏ, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu ngƣời thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ đƣợc xem là đã hoàn thành và bên có quyền vẫn phải thực hiện cam kết đối với bên có nghĩa vụ. Khi ngƣời thứ ba đã đồng ý hƣởng lợi ích thì dù hợp đồng chƣa đƣợc thực hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không đƣợc sửa đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ trƣờng hợp đƣợc ngƣời thứ ba đồng ý. + Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định. Sự kiện nhất định đƣợc coi là điều kiện để hợp đồng đƣợc thực hiện hay chấm dứt khi đáp ứng ba yêu cầu sau:  Sự kiện thoả thuận phải phù hợp với quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội  Sự kiện phải mang tính khách quan, xuất hiện trong tƣơng lai sau khi hợp đồng đƣợc giao kết. Việc xuất hiện sự kiện hay không xuất hiện sự kiện hoàn toàn nằm ngoài ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia hợp đồng; 17 Trong trƣờng hợp điều kiện là một công việc phải thực hiện thì đó phải là những công việc có thể thực hiện đƣợc [55]. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, việc phân loại hợp đồng có ý nghĩa nhất định, bởi qua việc phân loại hợp đồng sẽ xác định những đặc điểm chung và riêng của từng nhóm hợp đồng, và từ đó góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng [6]. 1.2. Khái quát về ủy quyền 1.2.1. Khái niệm về ủy quyền Để hiểu về ủy quyền, ta phải tìm hiểu nguồn gốc của nó, đó là chế định đại diện. Trong đời sống dân sự, phần lớn các trƣờng hợp, các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự tự mình xác lập các giao dịch. Tuy nhiên, vì nhiều lý do (ốm, bệnh, bận công việc…) cá nhân rất cần sự giúp đỡ của ngƣời khác. Ngoài ra, trong xã hội hiện đại, vai trò của tƣ vấn pháp luật để giải quyết các vấn đề pháp lý phức tạp cần có sự chuyên môn hóa cao ngày càng đƣợc coi trọng. Đó là chƣa kể nếu không có chế định đại diện thì những ngƣời không có năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi sẽ không còn cơ hội tham gia đời sống giao lƣu dân sự. Vì vậy, ý nghĩa xã hội pháp lý của chế định đại diện đƣợc thể hiện chính ở chỗ nhờ có nó mà một ngƣời có thể sử dụng tri thức, khả năng, kinh nghiệm của ngƣời đại diện và tiếp nhận kết quả từ hành vi pháp lý của ngƣời đó. Đại diện là chế định có chức năng trợ giúp xã hội, là một trong những thành quả của trí tuệ pháp lý của loài ngƣời, mang tính nhân văn, nhân đạo. Quan hệ đại diện phát sinh từ các căn cứ: - Đại diện theo pháp luật: bao gồm đại diện theo quy định của pháp luật và theo quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. - Đại diện tự nguyện: Theo hợp đồng ủy quyền. Thẩm quyền đại diện của một ngƣời đối với chủ thể khác chỉ phát sinh trên hai căn cứ đó mà không có căn cứ nào khác. Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định dựa trên các tiêu chí: Do quan hệ đặc biệt giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời đại diện mà phát sinh 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan