ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ VĂN NHẬT
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 50512
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN QUYỀN
HÀ NỘI - NĂM 2005
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................... 1
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ
NHẬP KHẨU TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ
5
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế nhập
khẩu
5
1.2 Khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu và pháp luật trị giá tính thuế nhập
khẩu
8
1.2.1 Khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu
8
1.2.2 Khái niệm pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu
15
1.3. Các điều ƣớc quốc tế về trị giá tính thuế nhập khẩu
17
1.3.1. Trị giá tính thuế nhập khẩu theo Định nghĩa Brussels
17
1.3.2. Trị giá tính thuế nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO
19
1.3.3. Quy định của hiệp định thƣơng mại Việt – Mỹ (10/2001) về trị giá tính
thuế nhập khẩu
31
1.4 Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và điều ƣớc quốc tế về trị giá tính thuế
nhập khẩu
31
Kết luận chương 1 ...................................
Chương 2:
34
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỊ GÍA TÍNH
THUẾ NHẬP KHẨU
36
2.1. Các quy định của Pháp luật Việt nam về trị giá tính thuế nhập khẩu 36
2.1.1 Trị giá tính thuế nhập khẩu theo quốc gia
37
2.1.2 Trị giá tính thuế nhập khẩu theo nguyên tắc của hiệp định thực h iện điều 7
hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại (trị giá tính thuế theo GATT)
45
2.2 Những hạn chế của pháp luật về trị giá tính thuế nhập khẩu trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
53
Kết luận chương 2...............................................................
64
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM 65
3.1 Yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế đối với pháp luật về trị giá tính thuế
nhập khẩu
65
3.2 Căn cứ cho việc hoàn thiện pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu
3.2.1 Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
69
69
3.2.2. Một vài đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng ở Việt nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế liên quan đến vấn đề hoàn thiện pháp luật về trị giá
tính thuế nhập khẩu
71
3.2.3 Lộ trình thực hiện các cam kết trong quá trình thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế
72
3.3. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế
74
3.3.1. Bảo đảm sự phù hợp của pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu với hiệp
định trị giá GATT 1994
74
3.3.2. Tăng cƣờng tính thống nhất và minh bạch của pháp luật về trị giá tính thuế
nhập khẩu
77
3.3.3 Kết hợp hoàn thiện pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu với việc thực
hiện các chức năng của hệ thống thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
79
3.4 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu 80
3.4.1. Bổ sung một số quy định nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật trị giá tính
thuế theo GATT
80
3.4.2 Sửa đổi quy định về trị giá hàng hoá nhập khẩu trong một số Luật thuế hiện
hành
83
3.4.3 Bãi bỏ các quy định về việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu theo quốc
gia
86
3.4.4 Xây dựng một số công cụ pháp lý để đấu tranh với những hành vi gian lận
trị giá
87
Kết luận chương 3..................................................................
90
KẾT LUẬN CHUNG .....................................................
92
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống xác định thuế nhập khẩu trên thế giới hiện nay là một bức tranh
đa dạng với đặc điểm chính là khá phức tạp và chƣa có sự thống nhất cao giữa
các nhóm quốc gia phát triển và đang phát triển. Để xác định thuế nhập khẩu thì
trị giá tính thuế nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng và quyết định. Trị giá
tính thuế nhập khẩu là một trong những yếu tố cơ bản của hệ thống thuế quan
hiện đại, hệ thống các nguyên tắc xác định trị giá không chỉ ảnh hƣởng tới nguồn
thu của ngân sách nhà nƣớc mà còn ảnh hƣởng đến giao lƣu thƣơng mại quốc tế.
Các quốc gia khác nhau sử dụng các phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế nhập
khẩu khác nhau, điều này gây nên sự cản trở trong giao lƣu thƣơng mại quốc tế.
Do đó xu hƣớng chung của các nƣớc là xây dựng một hệ thống xác định trị giá
tính thuế nhập khẩu thống nhất, công bằng, khách quan và phù hợp với thông lệ
thƣơng mại quốc tế. Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO là Hiệp định đáp
ứng đƣợc yêu cầu này và dần dần đang đƣợc nhiều quốc gia trên thế giới áp
dụng nhƣ một yêu cầu tất yếu trong quá trình hội nhập. Nhƣng vì nhiều lý do
khác nhau, trong đó quan trọng nhất là trình độ phát triển kinh tế và thể chế
chính trị, nhiều quốc gia vẫn chần chừ trong việc áp dụng Hiệp định.
Xác định trị giá tính thuế nhập khẩu luôn trở thành một chủ đề đƣợc quan
tâm hàng đầu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vì, một mặt, nó góp
phần giúp các cơ quan nhà nƣớc có các phƣơng pháp khắc phục các hiện tƣợng
gian lận thƣơng mại qua giá, đảm bảo thu đúng, thu đủ tiền thuế cho ngân sách
nhà nƣớc; mặt khác, nó là công cụ để bảo vệ các nhà kinh doanh trung thực bằng
việc yêu cầu cơ quan hải quan phải chấp nhận trị giá tính thuế là giá ngƣời nhập
khẩu thực sự phải thanh toán trong giao dịch, khuyến khích phát triển sản xuất
nội địa cũng nhƣ duy trì và phát triển quan hệ thƣơng mại, ngoại giao quốc tế.
Ngay từ những năm 40 của thế kỷ trƣớc việc xây dựng một cơ chế xác định trị
1
giá hải quan minh bạch, hợp lý, có thể áp dụng trên phạm vi toàn thế giới đã
đƣợc đặt ra nhƣ một yêu cầu tất yếu và đƣợc cộng đồng quốc tế nhiệt liệt ủng hộ.
Tuy nhiên, thiết lập một cơ chế pháp lý xác định giá tính thuế nhập khẩu trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt nam hiện nay là một vấn đề tƣơng đối
phức tạp nhƣng thực sự cần thiết, thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Về mặt thực tiễn, giao lƣu quốc tế về thƣơng mại và dân sự diễn ra theo
nhiều hình thức, phƣơng cách đa dạng. Chính sự đa dạng này làm nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp, không thống nhất trong việc xác định trị giá hải quan.Thứ nhất,
nhiều nhà nhập khẩu đã lợi dụng triệt để những hạn chế của pháp luật về xác
định giá tính thuế nhập khẩu hiện nay để gian lận thƣơng mại qua giá, gây thất
thu thuế cho ngân sách Nhà nƣớc. Thứ hai, quy trình, phƣơng pháp xác định trị
giá tính thuế nhập khẩu hiện nay đã bộc lộ nhiều yếu kém, không đáp ứng đƣợc
những đòi hỏi của tình hình mới, về lâu dài có thể gây cản trở cho quá trình giao
lƣu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam.
Về mặt pháp lý, pháp luật điều chỉnh việc xác định giá tính thuế nhập
khẩu là một cơ chế pháp lý khá phức tạp, chia cắt nhỏ lẻ. Bởi vì, trị giá tính thuế
nhập khẩu đƣợc xây dựng trên cơ sở của nhiều bộ phận pháp luật khác nhau nhƣ
pháp luật thuế, pháp luật hải quan, pháp luật thƣơng mại … Trong khi đó, sự tồn
tại những bất cập, kém hiệu lực và không đồng bộ của các bộ phận pháp luật này
với nhau và ngay trong bản thân trong bộ phận ấy đã dẫn tới những hạn chế nhất
định trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật xác định giá tính thuế nhập khẩu
hiện nay ở nƣớc ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt sự vận
động của hệ thống pháp luật nƣớc ta hiện nay đang tiếp cận dần với các nguyên
tắc, quy định và thông lệ của thực tiễn giao dịch thƣơng mại quốc tế cũng đã đƣa
tới các điều kiện, cơ sở và yều cầu mới cho việc đánh giá một cách toàn diện
pháp luật về xác định trị giá tính thuế nhập khẩu hiện hành. Đối với Việt nam,
một nƣớc đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế thì việc từng bƣớc
tiếp cận và áp dụng các quy định quốc tế về trị giá hải quan là bƣớc đi thích hợp.
2
Tại điều 3(4) Chƣơng I Hiệp định thƣơng mại Việt nam-Hoa Kỳ, Việt nam đã
cam kết thực hiện các quy định của Hiệp định về việc Thi hành Điều 7 của
GATT 1994 trong vòng 2 năm kể từ khi hiệp định Thƣơng mại Việt nam Hoa kỳ
có hiệu lực (tức là đầu năm 2004). Tất nhiên khi Việt nam gia nhập WTO thì
phải có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ hiệp định về việc thi hành Điều 7 của GATT
1994. Do đó, Việc thực thi Hiệp định về việc Thi hành Điều 7 của GATT 1994
không còn là sự lựa chọn mà là một nghĩa vụ quốc tế của Việt nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Vì những lý do trên, là một cán bộ hải quan tôi chọn đề tài “Hoàn thiện
pháp luật Việt nam về trị giá tính thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế ” làm luận văn thạc sĩ luật.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá cơ chế xác định giá tính thuế nhập khẩu theo pháp
luật hiện hành, làm rõ những nội dung cần hoàn thiện để thiết lập và vận hành cơ
chế xác định giá tính thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật giá tính thuế nhập khẩu
và các yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với cơ chế xác định giá
tính thuế nhập khẩu
- Làm rõ thực trạng pháp luật hiện hành đối với việc vận hành cơ chế xác
định giá tính thuế nhập khẩu, tính tƣơng thích của pháp luật trong nƣớc về trị giá
tính thuế nhập khẩu với chuẩn mực quốc tế
- Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về trị giá tính thuế nhập
khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
*Đối tƣợng nghiên cứu:
3
- Các văn bản pháp luật liên quan đến cơ chế xác định giá tính thuế nhập
khẩu; các văn bản của các cơ quan chức năng liên quan đến xác định giá tính
thuế nhập khẩu;
- Các số liệu, thông tin thực tiễn về thực hiện pháp luật xác định giá tính
thuế nhập khẩu.
*Phạm vi nghiên cứu:
Dƣới góc độ nghiên cứu luật học, luận văn không nghiên cứu toàn bộ
những vấn đề liên quan đến trị giá hải quan mà giới hạn nghiên cứu đƣợc xác
định trên cơ sở làm rõ lý luận pháp luật điều chỉnh việc xác định trị giá tính thuế
nhập khẩu, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành trên sơ sở đó xây dựng các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định trị giá tính thuế nhập khẩu ở Việt nam
phù hợp với chuẩn mực quốc tế phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và phƣơng pháp phân tích tổng hợp, so sánh, thống kê v.v…
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Về lý luận: Củng cố cơ sở lý luận toàn diện về giá tính thuế hàng nhập
khẩu, tạo ra những cơ sở pháp lý của việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về thực tiễn: Khẳng định việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu phù
hợp với tiêu chuẩn và chuẩn mực quốc tế là cần thiết, tạo tiền đề cho Việt nam
nhanh chóng đạt đƣợc mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về trị giá tính thuế nhập khẩu trong tƣ pháp
quốc tế
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt nam về trị giá tính thuế nhập khẩu
4
Chƣơng 3: Hoàn thiện pháp luật việt nam về trị giá tính thuế nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TRỊ GIÁ
TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHƢƠNG PHÁP XÁC
ĐỊNH TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU
Trị giá tính thuế nhập khẩu là một căn cứ tính thuế nhập khẩu dựa trên cơ
sở trị giá của hàng hoá không phải là phát minh của thời đại chúng ta mà nó đã
tồn tại từ thời Trung cổ, thậm chí trƣớc đó. Song ngày xƣa, việc xác định trị giá
tính thuế nhập khẩu tùy thuộc những phƣơng pháp ấn định giá cụ thể của từng
nƣớc, các nhà nhập khẩu không thể đệ đơn khiếu nại về quyết định của Hải quan
để giải quyết tranh chấp về vấn đề trị giá.
Trên thế giới đã tồn tại nhiều phƣơng pháp xác định giá khác nhau, hỗn
độn, có khi trái ngƣợc nhau và kém ổn định. Nhƣ phƣơng pháp giá thị trƣờng
trong nƣớc (thƣờng áp dụng ở những nƣớc kém phát triển ở châu Á, theo phƣơng
pháp này trị giá tính thuế nhập khẩu dựa trên giá bán buôn của hàng hoá nhập
khẩu khi bán ở nƣớc nhập khẩu trừ đi 15%); phƣơng pháp giá thị trƣờng trong
nƣớc hiện hành (đây là một phƣơng pháp do nƣớc Anh đƣa ra vào đầu thế kỷ 19
và đƣợc coi là một phƣơng pháp để bảo hộ hàng hoá đƣợc sản xuất tại Anh và
bán tại các nƣớc thuộc địa. Trị giá tính thuế dựa trên giá bán buôn tại thị trƣờng
nƣớc xuất khẩu; phƣơng pháp giá thị trƣờng hợp lý (phƣơng pháp này tƣơng tự
5
nhƣ phƣơng pháp giá thị trƣờng trong nƣớc hiện hành nhƣng đƣợc coi là có tính
linh hoạt hơn trong việc xác định giá nào đƣợc coi là giá thị trƣờng hợp lý);
phƣơng pháp giá tối thiểu (đây thực sự là phƣơng pháp mang tính áp đặt, theo
phƣơng pháp này cơ quan hải quan đƣa ra giá tối thiểu cho tất cả các mặt hàng
hoá nhập khẩu mà nó không phản ánh giá thực tế của hàng hoá-phƣơng pháp này
thƣờng đƣợc áp dụng ở các nƣớc kém phát triển) … Các phƣơng pháp này đã tạo
ra những mâu thuẫn nghiêm trọng trong quan hệ buôn bán quốc tế. Dần dần,
thông qua các cuộc đàm phán, giữa các quốc gia đã đạt đƣợc những kết quả đáng
khích lệ, đặc biệt là đƣa ra những thoả thuận chung về mặt thuế suất hợp lý.
Thực tế cũng cho thấy rằng, để những Hiệp định về thuế quan đƣợc thực hiện có
hiệu quả thì phải thay đổi các tiêu chuẩn xác định trị giá. Bởi vì nếu duy trì hệ
thống xác định trị giá hiện hành thì từng quốc gia có thể đƣa ra những phƣơng
pháp xác định trị giá riêng, làm mất đi tính hiệu quả của các mức thuế suất đã
thoả thuận. Hơn nữa, các thƣơng nhân, ngoài mặt thuế suất, còn muốn biết đƣợc
trị giá lô hàng cần trao đổi là bao nhiêu để có thể chủ động hơn trong kinh
doanh.
Do vậy, đầu thế kỷ 20, một trong những lĩnh vực đƣợc nhiều nƣớc quan
tâm, nghiên cứu là sự thay đổi hệ thống xác định trị giá tùy tiện ở các quốc gia
bằng một hệ thống xác định trị giá quốc tế có hiệu quả, nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho thƣơng mại quốc tế.
Sau nhiều cố gắng, dƣới sự bảo trợ của một số quốc gia, lần đầu tiên
những nguyên tắc chung về xác định trị giá Hải quan đã đƣợc đƣa ra tại Điều 7
của Hiệp định chung về Thuế quan và Thƣơng mại vào năm 1947, Hiệp định này
đƣợc gọi tắt là GATT (General Agreement on Tariffs and Trade). Từ đó đến nay
việc hình thành và phát triển của các phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế nhập
khẩu quốc tế có thể chia làm ba giai đoạn sau:
a. Giai đoạn thứ nhất: Geneve năm 1947
6
Vào những năm của đầu thế kỷ mới, các nhóm nƣớc quan tâm đến việc
mở rộng thƣơng mại quốc tế đã nghiên cứu việc thay thế những phƣơng pháp
xác định trị giá không ổn định đang áp dụng từ trƣớc tới nay bằng một hệ thống
xác định trị giá hiệu quả thống nhất trên phạm vi thế giới.
Sau nhiều lần áp dụng thử dƣới sự bảo trợ của Hội Quốc liên (tiền thân
của Liên hiệp quốc), lần đầu tiên tại hội nghị của Liên hiệp quốc về vấn đề
thƣơng mại và việc làm tổ chức tại Geneve năm 1947, các quốc gia đã đƣa ra
các nguyên tắc chung để xác định trị giá.
Các kết luận của hội nghị này đã đƣợc thể hiện trong Điều 7 Hiệp định
chung về Thuế quan và Thƣơng mại (GATT) với nguyên tắc chính là việc xác
định trị giá Hải quan phải dựa trên bản thân giá trị thực tế của hàng hoá đó.
Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Điều 7 Hiệp định GATT cũng chỉ mới đƣa ra
những nguyên tắc mang tính chất chung và cung cấp thêm một số ứng dụng thực
tế chứ chƣa đƣa ra đƣợc những phƣơng pháp xác định trị giá cụ thể. Hệ thống
xác định trị giá theo Hiệp định đã đƣa ra đƣợc những nguyên tắc xác định trị giá
thực tế, công bằng, đồng thời loại trừ đƣợc những việc xác định trị giá tùy tiện
hoặc giả tạo.
b. Giai đoạn thứ hai: Brussels 1953
Giai đoạn thứ hai trong lịch sử về xác định trị giá Hải quan bắt đầu khi
một nhóm nghiên cứu của Hiệp hội Hải quan các nƣớc Tây âu gồm 11 nƣớc
(Italia, Pháp, Tây Đức, Bỉ, Lucxembua, Phần lan, Anh, Bắc Ailen, Hy lạp, Tây
ban nha, Bồ đào nha) nghiên cứu về xác định trị giá Hải quan với ý định hình
thành một Liên minh Hải quan Châu âu.
Đặc biệt nhóm nghiên cứu này đã đƣa ra một định nghĩa về trị giá Hải
quan đƣợc áp dụng ở tầm cỡ quốc tế, đó là định nghĩa Brussels (viết tắt là BDV).
Định nghĩa này đƣợc nêu lên trong Công ƣớc về xác định trị giá Hải quan ký tại
Brussels ngày 15.12.1950 và có hiệu lực từ ngày 28.7.1953.
7
Định nghĩa này chủ yếu dựa vào hệ thống xác định trị giá đã đƣợc áp
dụng thành công ở các nƣớc thành viên qua vài năm, đồng thời tính đến những
nguyên tắc xác định trị giá Hải quan thời kỳ đó mới đƣợc đƣa vào Hiệp định
GATT.
Nội dung của Định nghĩa đã đƣa ra một khái niệm lý thuyết về trị giá Hải
quan, trong đó đề cập đến các yếu tố về giá cả, thời gian, địa điểm, số lƣợng và
cấp độ thƣơng mại. Đặc biệt sau khi xuất bản tập chú giải năm 1960 thì Định
nghĩa này nhận đƣợc sự ủng hộ từ khắp nơi trên thế giới, số lƣợng các nƣớc ký
kết Hiệp định lên tới 33 nƣớc và khoảng 70 nƣớc khác công nhận áp dụng Hiệp
định vào những năm đầu của thập kỷ 70.
c. Giai đoạn thứ 3: Geneve 1973 - 1979 và tới nay
Một thời kỳ mới trong lịch sử về xác định trị giá Hải quan đƣợc bắt đầu
vào những năm 1973 - 1979 thông qua các cuộc đàm phán thƣơng mại đa
phƣơng diễn ra tại Geneve, trung tâm của GATT, sau khi vòng đàm phán Tokyo
đƣa ra những chính sách thƣơng mại quốc tế lớn nhất trong thời đại chúng ta,
nhằm mục đích tự do hoá mậu dịch ngày càng lớn giữa các nƣớc khác nhau, loại
bỏ những trở ngại trong buôn bán quốc tế.
Một trong những biện pháp nhằm đạt đƣợc mục đích này là việc đƣa ra
đƣợc một hệ thống quốc tế về xác định trị giá Hải quan để áp dụng thống nhất
trên toàn thế giới. Đó là việc thông qua Hiệp định liên quan đến việc thực hiện
Điều 7 của GATT. Hiệp định đƣợc thông qua vào năm 1979 và có hiệu lực từ
01.01.1981, gọi tắt là Hiệp định giá Hải quan GATT. Hiệp định này quy định
một hệ thống các phƣơng pháp xác định trị giá Hải quan trên cơ sở trị giá giao
dịch thực tế của hàng hoá nhập khẩu, tức là giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ
phải thanh toán. Từ vòng đàm phán Uruguay, năm 1994, Hiệp định lại đƣợc bổ
sung, sửa đổi hoàn chỉnh. Hệ thống xác định trị giá theo Hiệp định này đã đƣa ra
những phƣơng pháp xác định trị giá có tính đến thực tiễn thƣơng mại quốc tế,
nhằm đảm bảo tính công bằng và chính xác [1], [2], [31].
8
1.2 KHÁI NIỆM TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP
LUẬT TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU
1.2.1 Khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu
Trên thế giới đã và đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về trị giá tính
thuế nhập khẩu. Sự hình thành các quan niệm, khái niệm về trị giá tính thuế nhập
khẩu trải qua các thời kỳ khác nhau thì khác nhau và nó phụ thuộc vào từng quốc
gia trong việc áp dụng phƣơng pháp xác định trị giá. Theo quan điểm của các
quốc gia áp dụng phƣơng pháp áp dụng trị giá tính thuế nhập khẩu theo quốc gia
thì trị giá của hàng hoá nhập khẩu là giá đƣợc chuyển đến cửa khẩu nhập. Theo
đó trị giá cụ thể của từng mặt hàng đƣợc khống chế bằng bảng giá tối thiểu do cơ
quan nhà nƣớc của nƣớc nhập khẩu ban hành hoặc dùng các phƣơng pháp xác
định trị giá mang tính tuỳ tiện không có chuẩn mực nào. Các quốc gia áp dụng
các phƣơng pháp áp dụng trị giá theo phƣơng pháp xác định trị giá của hiệp định
trị giá GATT 1994 thì quan niệm trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu là trị
giá giao dịch theo nghĩa rộng. Theo đó, trị giá tính thuế nhập khẩu là giá thực
phải thanh toán hay sẽ phải thanh toán. Các quốc gia áp dụng phƣơng pháp tính
thuế theo định nghĩa Brussels thì đƣa ra khái niệm về trị giá tính thuế nhập khẩu
là trị giá mà ở đó, hàng hoá nhập khẩu trong điều kiện đƣợc xác định, tức là giá
của hàng hoá đó phải phù hợp với hàng hoá tại thời điểm nhập khẩu ma Hải
quan thực hiện thu thuế đối với việc mua bán hàng hoá trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt, giữa ngƣời mua và ngƣời bán độc lập với nhau.
Các thuật ngữ trị giá tính thuế, giá tính thuế, trị giá hải quan, cơ bản là
đồng nghĩa. Mặc dù trong nhiều trƣờng hợp, việc sử dụng chúng thay thế cho
nhau không hẳn đã hoàn toàn chính xác nhƣng nhìn chung cũng không gây ra
những nhầm lẫn lớn. Lai lịch của những thuật ngữ này ở Việt nam đƣợc tóm tắt
là: 1- Giá tính thuế, đƣợc ghi nhận lần đầu trong Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
9
1997, là một thuật ngữ có ý nghĩa pháp lý sử dụng để phản ánh mọi loại giá của
hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu đƣợc xác định theo các phƣơng pháp định giá mà
pháp luật quy định, không tính tới sự khác biệt về tính chất giữa các phƣơng
pháp; 2- Trị giá hải quan đƣợc du nhập vào Việt nam cùng quá trình tham gia
vào hội nhập kinh tế quốc tế khoảng nửa đầu những năm 1990 để chỉ phƣơng
pháp xác định trị giá hàng hoá xuất, nhập khẩu theo điều 7 của hiệp định chung
về thuế quan và thƣơng mại; 3- Trị giá tính thuế lần đầu tiên xuất hiện trong nghị
định 60/2002/NĐ-CP ngày 06/06/2002 quy định về việc xác định trị giá tính thuế
theo nguyên tắc của GATT, cho nên trị giá tính thuế và trị giá hả i quan có nhiều
nét gần nhau. Nhƣng tóm lại việc xác trị giá tính thuế hay trị giá hải quan nhằm
mục đích tính thuế và thống kê đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Trị giá của hàng hoá nhập khẩu chƣa bao giờ là câu chuyện riêng của ngƣời
nhập khẩu. Sự tồn tại của chủ quyền quốc gia trong hoạt động kinh tế đối ngoại
thông qua thuế quan đã làm cho vấn đề có thêm những sắc thái chính trị pháp lý,
xã hội bên cạnh ý nghĩa kinh tế tự thân. Hệ thống thuế quan sử dụng trị giá tính
thuế nhập khẩu nhƣ một công cụ pháp lý tác động trực tiếp vào các quan hệ giá
cả của hàng hoá nhập khẩu phù hợp với mục đích của bản than hệ thống thuế
quan nhƣ thu ngân sách và/hoặc bảo vệ sản xuất. Khi mức độ thuế suất đƣợc cắt
giảm theo các cam kết của hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống thuế quan phải đặt
trọng tâm điều chỉnh vào việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu. Việc quy định
trị giá tính thuế nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ, nó không chỉ có
quan hệ trực tiếp với nguồn thu ngân sách, bảo vệ sản xuất nội địa mà còn ảnh
hƣởng trực tiếp tới mối quan hệ thƣơng mại, ngoại giao giữa các nƣớc [19,17] .
Trị giá tính thuế nhập khẩu là một quan hệ xã hội phức tạp. Tính phức tạp
đó thể hiện ở sự đa dạng trong mục đích của những chủ thể tham gia, ở mối liên
hệ phong phú giữa nội dung gía trị với các biểu hiện hình thức khác nhau. Bởi
vậy, để làm sáng tỏ khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu cần tiếp cận theo những
vấn đề sau:
10
1. Trị giá tính thuế nhập khẩu là căn cứ tính thuế nhập khẩu. Trong khi
thiết kế thuế nhập khẩu ta có thể dựa vào các căn cứ sau: Chủng loại hàng hoá,
xuất xứ hàng hoá, trị giá hàng hoá. Xu hƣớng hiện nay là dùng trị giá tính thuế
làm căn cứ tính thuế vì tính tiện lợi, linh hoạt và khách quan của nó. Theo đó,
thuế nhập khẩu bằng: trị gía tính thuế X thuế xuất X tỷ giá quy đổi. Từ công
thức này ta thấy ngay rằng trị giá tính thuế nhập khẩu là một biến số đƣợc xác
định phụ thuộc vào mục tiêu của sắc thuế nhập khẩu. Chẳng hạn, nếu mục tiêu
cơ bản của thuế nhập khẩu nhằm bảo hộ mạnh mẽ và triệt để ngành, hàng sản
xuất nội địa thì trị giá tính thuế sẽ đƣợc xác định theo các tiêu thức áp đặt, hành
chính. Bởi vậy, khi bản thân luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu chứa đựng nhiều
mục đích khác nhau thậm chí là trái ngƣợc nhƣ ở Việt nam thì hệ thống về trị giá
tính thuế trở nên phức tạp và rắc rối.
Trị giá tính thuế nhập khẩu là một trong những căn cứ cơ bản để tính thuế
hải quan [14,48] và các thuế khác. Vấn đề gì sẽ xảy ra khi chúng ta mở rộng
phạm vi ngoại diên của khái niệm từ thuế nhập khẩu sang tới các sắc thuế khác
nhƣ thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT? Liệu có sự khác biệt đáng kể giữa
cái đƣợc gọi là giá vốn trong thuế nhập khẩu với giá để tính thuế giá trị gia tăng
đầu vào và với giá để xác định và với giá để xác định chi phí trong thuế thu nhập
doanh nghiệp? Lời gải thích cho những câu hỏi này phụ thuộc chủ yếu vào cách
đặt vấn đề về vị trí và mối quan hệ giữa các sắc thuế trong hệ thống thuế thống
nhất. Điều quan trọng là chúng tôi rút ra từ những lập luận này là phải chăng
chúng ta có thể lợi dụng những mối liên hệ nội tại giữa những sắc thuế để xác
định chính xác và kiểm tra tính đúng đắn của giá tính thuế nhập khẩu. Thật vậy,
vì trong đa số các trƣờng hợp, nhập khẩu chỉ là khâu đầu tiên của một quá trình
kinh doanh nên khi các hoạt động kinh doanh sản xuất đƣợc tiến hành trong nội
địa cho chúng ta cơ hội đƣợc tìm kiếm những bằng chứng xác thực về giá trị thật
sự của hàng hoá nhập khẩu. Thông thƣờng khi nhập khẩu, ngƣời nhập khẩu có
xu hƣớng khai không đúng số lƣợng, chất lƣợng, trị giá hàng hoá để giảm thiểu
11
thuế nhập khẩu. Nhƣng đến khi bán hàng, khi hạch toán kinh doanh, chủ hàng
buộc phải tính đúng các chi phí đầu vào để giảm số thuế phải nộp trong nội địa.
2. Trị giá tính thuế nhập khẩu chỉ liên quan và phụ thuộc vào hàng hoá
nhập khẩu.
Bởi vậy, khi làm rõ khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu đặt ra việc xem
xét nội dung của vấn đề hàng hoá nhập khẩu.
Thứ nhất, đặc tính nhập khẩu của hàng hoá. Hàng hoá đƣợc coi là nhập
khẩu nếu nó đƣợc đƣa từ một quốc gia khác đến quốc gia tiếp nhận hàng hoá
(trong trƣờng hợp hàng hoá từ khu chế xuất vào tiêu thụ trong nƣớc cũng đƣợc
coi là nhập khẩu). Xác định chính xác không gian và thời gian của hành vi nhập
khẩu có ý nghĩa thực tế cho việc xác định trị giá nhập khẩu. Không gian và thời
điểm nhập khẩu tác động tới việc tính toán chi phí phát sinh của hàng hoá nhƣ
phí vận chuyển, kho bãi, bảo hiểm, tỷ giá. Thực tiễn pháp lý quốc tế cho thấy, có
sự không thống nhất về cách hiểu hành vi nhập khẩu. Chẳng hạn, theo luật hải
quan 1995 của Cộng hoà Indonexia thì nhập khẩu là các hoạt động đƣa hàng hoá
vào lãnh thổ hải quan, trong đó lãnh thổ hải quan đƣợc hiểu là vùng đất, vùng
trời, vùng nƣớc, các địa điểm đặc biệt trong các vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa. Trong khi đó ở Philippin điều 102 của Bộ luật hải quan xác định công
việc nhập khẩu bắt đầu khi tầu thuyền, máy bay, vận tải hàng hoá bắt đầu vào
khu vực thẩm quyền để dỡ hàng xuống đó [17].
Ở Việt nam, Luật hải quan 2001 - đạo luật điều chỉnh trực tiếp các quan hệ
xuất khẩu, nhập khẩu – không đƣa ra một định nghĩa chính thức về hành vi nhập
khẩu. Vì vậy, có những biểu hiện không logic trong việc xác định trị giá nhập
khẩu. Khảo sát các quy định của Luật này cho thấy, nhập khẩu không phải là cơ
sở cho việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu mà ngƣợc lại, việc xác định trị
giá tính thuế là căn cứ cho việc nhập khẩu. Thật vậy, điều 4 Luật hải quan quy
định thông quan là việc cơ quan hải quan quyết định hàng hoá đƣợc nhập khẩu;
việc thông quan đƣợc tiến hành sau khi hàng hoá đã làm thủ tục hải quan trong
đó nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác là một nội dung của thủ tục hải quan.
12
Từ góc độ quản lý nhà nƣớc về hải quan dễ dàng giải thích các quy định nêu
trên. Vì vậy, dƣới góc độ điều chỉnh trị giá tính thuế nhập khẩu, việc tách rời
không gian và thời gian giá nhập khẩu khỏi hành vi nhập khẩu, trong thời gian
dài sẽ đƣa lại nhiều bất lợi khi xây dựng và thực thi các chính sách có liên quan.
Bởi vì, chúng ta sẽ không thể thiết kế một hệ thống phƣơng pháp định giá toàn
diện nếu không có sự phân biệt giữa hàng nhập khẩu để bán với hàng là quà
biếu, hàng mẫu, hàng ký gửi, thuê, mƣợn hay vay.
Thứ hai. Mục đích nhập khẩu của hàng hoá. Mục đích nhập khẩu của hàng
hoá thể hiện ý định sử dụng hàng hoá của bên nhập khẩu và bên xuất khẩu. Mục
đích nhập khẩu rất đa dạng: Thƣơng mại, quá cảnh, hành lý theo ngƣời, tạm
nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập … Tuy không phải là cơ sở cơ bản để xác định
thuế nhập khẩu nhƣng mục đích nhập khẩu cũng có ý nghĩa nhất định trong việc
lựa chọn phƣơng pháp định giá nhập khẩu. Rõ ràng là hàng hoá nhập khẩu phi
mậu dịch không dựa trên các giao dịch mua bán nên phƣơng pháp định giá sẽ
không thể dựa vào giá cả thƣơng mại của hàng hoá.
3. Trị giá tính thuế nhập khẩu xác định căn cứ vào trị giá của hàng hoá
nhập khẩu.
Trong mối liên hệ phân tích khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu, chúng ta
chỉ xem xét trị giá của hàng nhập khẩu theo ba nội dung sau:
Thứ nhất, đánh giá chủ quan và khách quan trị giá hàng nhập khẩu. Về mặt
chủ quan, trị giá hàng nhập khẩu phản ánh phần trị giá của hàng nhập khẩu đƣợc
hải quan thừa nhận, xoay quanh giá trị trung bình của hàng hoá trên thị trƣờng.
Cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thu thuế thƣờng có xu hƣớng xác định thuế
nhập khẩu theo trị giá chủ quan này vì nó tạo ra một căn cứ tính thuế loại bỏ
đƣợc những giả định về mối liên hệ bên trong giữa ngƣời xuất khẩu và ngƣời
nhập khẩu cũng nhƣ tác động bên ngoài (phạm vi, thời điểm bán hàng hoặc thủ
đoạn kinh doanh) làm biến dạng giá trị thực tế của hàng hoá. Về mặt khách quan,
trị giá của hàng hoá nhập khẩu phản ánh một mức giá giao dịch cụ thể giữa
ngƣời nhập khẩu và ngƣời xuất khẩu. Về nguyên tắc, ngƣời nhập khẩu có xu
13
hƣớng sử dụng trị giá khách quan vì nó phản ánh trực tiếp chi phí mà họ đã bỏ ra
để có hàng hoá. Thực chất tính hai mặt khách quan-chủ quan của giá trị hàng hoá
nhập khẩu là mối quan hệ giữa giá thị trƣờng với giá trị cá biệt, giữa lao động xã
hội với lao động tƣ nhân, giữa lao động trừu tƣợng với lao động cụ thể.
Thứ hai, trị giá thuế nhập khẩu là kết quả của quá trình định giá hàng hoá
nhập khẩu. Định giá là một thủ tục do các bên liên quan (hải quan, ngƣời nhập
khẩu) áp dụng nhằm xác định trị giá của hàng nhập khẩu. Nhƣ là hệ quả của tính
hai mặt nêu trong trị giá hàng nhập khẩu. Chẳng hạn nhƣ định giá hàng nhập
khẩu theo giá hàng sẽ đƣợc tiêu thụ trong nội địa hoặc theo giá phản ánh trong
quan hệ thanh toán giữa ngƣời xuất khẩu và ngƣời nhập khẩu. Việc lựa chọn
phƣơng pháp định giá tuỳ thuộc vào mục đích quản lý xuất nhập khẩu của từng
quốc gia. Tuy nhiên, xu hƣớng hội tụ các phƣơng pháp xác định giá giữa các
quốc gia ngày càng đƣợc khẳng định rõ nét thông qua quá trình tự do hoá thƣơng
mại toàn cầu. Mặt khác, việc định giá cũng xác lập trình tự thủ tục, các quyền và
nghĩa vụ của các cơ quan thuế và ngƣời nhập khẩu. Các trình tự và thủ tục định
giá xét về tính chất là các quan hệ hành chính. Mặc dù chỉ là những quan hệ hình
thức nhƣng chính những thủ tục này khai đƣợc quy định hợp lý sẽ là cơ sở để
xác định đúng đắn giá nhập khẩu, bảo đảm đƣợc quan hệ bình đẳng và dân chủ
giữa ngƣời nhập khẩu và cơ quan hải quan.
Thứ ba, khi phân tích nội dung trị giá tính thuế hàng nhập khẩu cần phân
biệt với khái niệm giá trị và giá cả. Có thể phân biệt ba khái niệm này qua mô tả
đơn giản sau: Giá trị phản ánh chi phí lao động trung bình của nhà sản xuất thì
giá cả phản ánh mối quan hệ giữa ngƣời nhập khẩu và ngƣời xuất khẩu trong
điều kiện của quá trình mua bán trao đổi hàng hoá cụ thể; trị giá tính thuế nhập
khẩu phản ánh mối quan hệ giữa ngƣời nhập khẩu với cơ quan hải quan trong
quá trình nhập khẩu hàng hoá.
4. Trị giá tính thuế nhập khẩu không đồng nhất với giá trên hợp đồng được
ký kết giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.
14
Hợp đồng chỉ là một yếu tố cần xem xét đến bên cạnh những căn cứ, dữ liệu
khác. Có hai vấn đề cần lƣu ý ở đây:
Thứ nhất, trị giá tính thuế nhập khẩu phải đƣợc chứng minh bằng hệ thống
các căn cứ, dữ liệu khách quan. Các dữ liệu này thông thƣờng tồn tại dƣới hình
thức hợp đồng mua bán ngoại thƣơng, báo giá, hoá đơn thƣơng mại hoặc các loại
chứng từ khác. Ngƣời nhập khẩu có trách nhiệm cung cấp dữ liệu này. Tiêu
chuẩn khách quan trƣớc hết đòi hỏi bộ hoá đơn chứng từ phải đƣợc lập và xuất
trình phù hợp với yêu cầu của pháp luật và thông lệ tập quán quốc tế đƣợc thừa
nhận. Tính khách quan của tài liệu còn thể hiện ở tính có thể kiểm tra của bên
thứ ba đối với nội dung đƣợc thể hiện trên tài liệu. Nói tóm lại, khi đảm bảo
đƣợc tính khách quan, ngƣời nhập khẩu có thể sử dụng bất kỳ tài liệu nào để
chứng minh trị giá của hàng nhập khẩu.
Thứ hai, cơ quan hải quan có quyền yêu cầu ngƣời nhập khẩu phải chứng
minh về tính chính xác, trung thực của bất kỳ một tài liệu, một chứng từ hoặc
một tờ khai nào mà chủ hàng đã xuất trình cho hải quan. Nhƣ vậy, khi đánh giá
tính khách quan của tài liệu nhằm xác định trị giá tính thế, hải quan có quyền đòi
hỏi sự hợp tác toàn diện của ngƣời nhập khẩu.
Từ những dẫn giải trên đây trị giá tính thuế nhập khẩu đƣợc khái niệm nhƣ
sau:
Trị giá tính thuế nhập khẩu là một căn cứ tính thuế nhập khẩu dựa trên
cơ sở trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu phù hợp với những dữ liệu
khách quan, khoa học được đối tượng nộp thuế và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thu thuế xác định và chấp nhận
1.2.2 Khái niệm pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu
Trị giá tính thuế nhập khẩu là một quan hệ xã hội tƣơng đối phức tạp và đặc
thù. Quan hệ này chịu sự tác động trực tiếp của các yếu tố kinh tế đa dạng không
chỉ các yếu tố kinh tế vi mô nhƣ giá cả trong những giao dịch cụ thể mà còn cả
các yếu tố kinh tế vĩ mô nhƣ tỷ giá hối đoái, mức độ điều tiết của thuế quan. Các
15
yếu tố này đã làm cho mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong mối quan hệ
càng trở nên phức tạp. Mục đích của quan hệ buôn bán ngoại thƣơng là xuất và
nhập khẩu hàng hoá. Mục đích của thuế quan là giữ một số quyền trong việc
quản lý xuất nhập khẩu để làm lợi cho nhà nƣớc. Vậy thì nhà nƣớc phải trung lập
giữa thƣơng mại và thuế quan, khiến cho hai phía này không chồng chéo nhau.
Có nhƣ vậy mới hƣớng đƣợc cái lợi của tự do thƣơng mại. Bên cạnh đó, cũng
cần thấy rằng, sự hình thành và thực hiện các quan hệ xã hội về trị giá tính thuế
nhập khẩu không chỉ vì mục đích tự thân của chúng. Trên thực tế, việc xác lập
quan hệ về trị giá tính thuế nhập khẩu là nhằm thực hiện các quan hệ xã hội về
thu thuế nhập khẩu hoặc để quản lý nhà nƣớc về hải quan. Nhƣ vậy, quan hệ xã
hội về giá tính thuế nhập khẩu không chỉ vận động bởi các nhân tố kinh tế bên
trong mà nó còn vận động trong mối liên hệ với các yếu tố bên ngoài nhƣ thủ tục
hải quan. Từ khía cạnh này, có quan điểm nhìn nhận trị giá tính thuế nhập khẩu
chỉ là một bộ phận của quan hệ xã hội về thuế quan. Thực ra điều này không
hoàn toàn chính xác. Bởi vì trong quan hệ thuế nhập khẩu đƣợc sử dụng làm căn
cứ tính thuế chỉ là kết quả đã đƣợc lƣợng hoá từ một quá trình trong đó diễn ra
việc phân tích, xác định các yếu tố tạo nên trị giá nhập khẩu phù hợp với yêu cầu
của nhà nƣớc. Nội dung cơ bản của quá trình này là thực hiện phƣơng pháp thích
hợp nhất có thể có để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu. Sự tồn tại của nhiều
hệ thống phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, tự thân nó đòi hỏi
phải có sự quy chuẩn và chấp nhận rộng rãi trong xã hội. Các phƣơng pháp xác
định trị giá tính thuế nhập khẩu tuy có cùng mục đích là nhằm tìm một trị giá
tính thuế phù hợp với thực tế khách quan, song xuất phát từ những cơ sở khoa
học khác nhau và phụ thuộc vào các điều kiện chính sách và kỹ thuật trong từng
giai đoạn cụ thể của mỗi quốc gia, nên việc lựa chọn phƣơng pháp, hoặc ƣu tiên
áp dụng phƣơng pháp nào phải đƣợc nhà nƣớc quy định.
Việc nhà nƣớc quy định về trị giá tính thuế nhập khẩu không chỉ bắt nguồn
từ những đòi hỏi tất yếu của bản thân quan hệ này mà còn là một phƣơng cánh
để nhà nƣớc thực hiện mục tiêu quan lý của mình. Trị giá tính thuế nhập khẩu
16
- Xem thêm -