Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Hoàn thiện pháp luật về các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành ch...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính ( trên thực tiễn thừa thiên huế) luận văn ths. luật 50 10 1

.PDF
122
16
116

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUOt: (ỈIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĩ l' ) l i ' ) ỉ I.? c c T R Ư Ơ N G Đ ÌN H T Ờ LUÂN VĂN THẠC sì LUẦ r HỌC ■DỄ 7Àt í HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỂ CẮC HÌNH THỨC X ủ PHẠT VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH (TRÊN THỤC TIỄN THỪA THIÊN - HUẾ) Chuyên ngành : Lý ĩiiẫn Nhá nước v.ì Pháp luât M ã sỏ : 5.01.01 ỚS' N gưòi hướng dẫn : TS. NG UYÊN c ứ u VIỆT i V ' M O C C ăUÍ c Gl A HÁ MÔI Ị T - T,v-' .!C: :GT1N.THƯV1ỀN ị H u ế- 2002 oỊiĩâ, \ HoV-L Luận văn cao học MỤC LỤC T ra n g PHẨN M Ở ĐẨU C hương I 01 M ột sô vấn đ ể lý lu ân co b á n vê v i pha 111 h à n h c h ín h , các h ìn h thức xử phat và b iê n p h á p xử lý v i p h a m h à n h c h ín h 1.1 Khái niệm vi phạm hành chính, các dấu hiệu và 13 yếu tô" câu thảnh của vi phạm hành chính 1.1.1 Khái niệm vi phạm hành chính 13 1.1.2 Các đấu hiệu của vi phạm lìành chính 16 1.1.3 Cấu thành vi phạm hành chính 20 Khái niệm xứ phạt vi phạm hành chính, các hình 28 1.2 thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khôi phục quvển, lợi íclì hợp pháp bị vi phạm hành chính xâm hại 1 .2.1 Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính, nguyên 28 tắc và dặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính 1 .2.2 Các hình thức xứ phạt vi phạm hành chính và các 3.1 biện pháp khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị vi phạm hành chính xâm hại 1.2.2.1 Hình thức xứ phạt chính 32 1.2.2.2 Các hình thức xử phạt bổ sung 34 1.2.2.3 Các biện pháp khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp 35 bị vi phạm hành chính xâm hại 1.3 Các biện pháp XII' lý hành chính khác - các biện 37 pháp cưỡng ch ế hành chính đặc biệt 1.3.1 Khái niệm các biện pháp cưỡng ch ế hành chính đăc biêt Ó 37 Luận văn cao học 1.3.2 Các biện pháp cưỡng ch ế hành chính đặc biệt 39 1.3.2.1 Giáo dục tại xã, phường, thị trân 39 1.3.2.2 Đưa vào trường giáo dưỡng 39 1.3.2.3 Đưa vào cơ sở giáo dục 40. 1.3.2.4 Đưa vào cơ sở chữa bệnh 40 1.3.2.5 Quán ch ế hành chính Chương II 40 T h iíc trang qu i đ ịn h ph áp luât vê các h ìn h thức 42 xử phat và b i ê n p h á p xử lý v i p h a m h à n h c h ín h và áp d u n g p h áp lu ât vê xu lý vi p h a m h à n h c h ín h ỏ T h ừ a T h iê n - H u ê tron g thời g ia n qua 2.1 Quá trình hình thành và phát triển các qui định 42 pháp luật về hình thức xử phạt vi phạm hành chính 2.1.1 Giai đoạn trước năm 1977 45 2.1.2 Giai đoạn từ 1977 đôn 1989 46 2.1.3 Giai đoạn từ 1989 đến 1995 48 2.1.4 Giai đoạn từ 1995 đến nay 52 2.1.5 Qui định của Pháp luật hiện hành về hình thức 54 xứ phạt và biện pháp xử lý khác đôi với vi phạm hành chính 2.1.5.1 Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính 55 2.1.5.2 Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác 60 2.1.5.3 Các văn bản hiện hành qui định cụ thể về xử lý vi 63 phạm hanh 2.2 chính t r ê n các l ĩ n h VIÍC Thực trạng vi phạm hành chính và việc áp dung 64 pháp luật về xứ lý vi phạm hành chính ở Thừa Thiên - Huếtroni* thời gian qua 2.2.1 Thực trạng vi phạm hành chính và việc xử lý vi phạm hành chính ỏ’ Thừa Thiên - H uế 4 64 Luận văn cao học 2-2.2 Tình hình vi phạm trong xử lý vi phạm hành ^2 chính ở Thừa Thiên - Huê Chương III Y ấn đê h oàn th iê n các qui đ ịn h ph áp luât vê các h ìn h thức xử phat và b iê n ph áp xử lý vi p h a m h à n h c h ín h 31 Những bất cập và nhu cầu hoàn thiện qui định của pháp luật về các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hanh chính 3-2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định 96 plìáp luật về xử phạt vi phạm hanh chính 3.2.1 v ể h o à n th iê n Pháp lệnh xử lý vi phạm hành 97 chính năm 1995 3.2.2 V ê h o à n th iê n các văn bản pháp luật khác về xử phạt vi phạm hành chính trên các lĩnh vưc PHẨN K Ế T LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115 PHỤ LỤC 119 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT - Pháp lệnh xử phạt vi p h ạ m h à n h chính n ă m 1989 : Pháp l ệ n h '1989 - Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 : Pháp lệnh 1995 - Xã hội chủ nghĩa : XHCN - Nhà xuất bản : NXB 5 Luận văn cao học PHẦN MỞ ĐẦU 1. T ính cấ p th iế t của đ ê tà i : Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới toàn diện, v ề mặt kinh tế, từ một nền kinh tế hiện vật với sự quản lý tập trung cao độ đang chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ ch ế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đã tạo ra nguồn lưc tổng lìỢp to lớn đưa nền kinh tế phát h iển đi lên. N hưng mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đặt chúng ta trước nhiều thử thách như vấn đề thất nghiệp, tệ nạn xã hội, sư tha hóa biến chất trong m ột số người, các chuẩn mực đạo đức bị coi thường, vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm hành chính nói riêng gia tăng về số lượng vả cùng tình phức tạp của chúng. Vi phạm hành chính cũng như mọi liành vi trái pháp luật khác đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các qui tắc quản lý nhà nước. Trước tình hình vi phạm hành chính ngày một ‘2 ,1 a tăng, đa dạng và phức tạp cả về số lượng cũng như tính châ't nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì hoạt động xử phạt vi phạm hành chính hơn bao giờ hết được coi là một trong những biện pháp có hiệu quả trong việc xử lý vi phạm hành chính nhằm bảo đảm trật tư pháp luật. Quán triệt quan điểm "tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền XHCN" của Đại hội IX - Đảng Cộng sản Việt Nam ísố 49 h'an8 151Đ ể tạo ra những bảo đảm pháp lý vững chắc cho công cuộc đổi moi kinh tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền, điều tất yếu là không ngừng hoàn thiện hệ thống pliáp luật, trong đó có cả pháp luật qui định về xử lý vi phạm hành chính nói chung và các hình thức xử phạt, 6 Luận văn cao học biện plìáp xử lý vi phạm hành chính nói riêng. Với ý nghĩa đó, nhà nước ta đã hết sức quan tâm và thực tế đã ban hành nhiều văn bản pháp luật qui định về xủ’ lý vi phạm hành chính. Trong đó phải kể đến m ột sô" văn bản quan trọng như : Điều lệ xử phạt vi cảnh kèm theo nghị định '143/CP ngày 2 7 /5 /1 9 7 7 của Hội đồng Chính phủ, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 (sau đây được viết tắt là “Plìáp lệnh 1989”) ngày 3 0 /1 1 /1 9 8 9 của Hội đồng nhà nước, đặc biệt là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (sau đây được viết tắt là “Pháp lệnh 1995”) được ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6 /7 /1 9 9 5 , có hiệu lưc thi hành từ 1 /8 /1 9 9 5 . Pháp lệnh này được ban hành trên cơ sở tổng kết thưc tiễn thi hành Pháp lệnh 1989, đồng thời có tính đến các yêu cầu mới về tăng cường đâu tranh phòng chống vi phạm hành chính trong diều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đây là việc sửa đổi quan trọng nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Pháp lệnh 1995 đã khắc phuc phần nào những tồn tại, hạn chê của Pháp lệnh 1989 và tạo ra những chuẩn mưc pháp lý chung để căn cứ vào đó, Chính Phủ ban hành các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong tùng lĩnh vực quản lý nhà nước cu thể. Với qui định cụ thể những vân đề cơ bản có tính nguyên tắc về xử lý vi phạm hành chính, nên đã góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, đổng thời hạn ch ế các tiêu cực nảy sinh trong quá trinh xử lý. Tuy nhiên qua gần 7 năm thực hiện, với sự biến đổi da dạng, phức tạp của thưc tiễn cuộc sông đất nước, Pháp lệnh 1995 cũng đã bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu khắc phục. Có thể nêu lên m ột sô" tồn tại chủ yếu sau đây : Các qui định trong Pháp lệnh còn thiếu hoặc quá chung chung, không rõ ràng, chưa phù hợp hoặc chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu cụ thể lại không được hướng dẫn nên dễ bị lạm dung làm trái hoặc áp dung thiếu thông nhất ; Các hình 7 Luận văn cao học ti ức xử phạt, biện pháp xử lý vi phạm hành chính còn chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được với tình hình vi phạm hành chính đa dạng, phức tạp hiện nay, như : H ình thức phạt cảnh cáo được áp dụng (áp dụng đúng và cả áp dung sai) nhưng tính răn đe, giáo dục thấp ; Hình thức phạt tiền với việc phân chia thành nhiều mức tương xứng vơí hành vi lai gắn với thẩm quyền xử phạt ; v ề cách tổng hợp mức phạt quá ư phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng ; Thủ tục xử phạt (trong đó có thủ tạc áp dung hình thức xử phạt), thủ tục thu tiền phạt, thủ tuc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt... cũng còn nhiều rườm rà, bất hợp lý. Mặt klìác, cũng cần phải quy định thêm một số hình thức phạt trước đây đã từng được quy định trong hệ thông các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính như : phạt lao động cồng ích, phạt giam hành chính... dể đáp ứng thực tiễn phát triển đa dạng, phức tạp của xã hội. Vì vậy, Pháp lệnh 1995 cần được sửa đổi để phù hợp với hoàn cảnh hiện nay, sao cho vừa bảo đảm yêu cầu ngăn ngừa và xử phạt nghiêm m inh vi phạm hành chính, vừa hạn ch ếcá c hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra khi tiên hành xử phạt, vừa dơn giản và thuận tiện cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt và cho cả cá nhân, tổ chức trong việc chấp hành quyết định xử phạt. Đê khắc phục những hạn chế, tồn tại nêu trên, không ngừng hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung, về các hình thức xử phạt hành chính nói riêng, nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chông các vi phạm hành chính, tăng cường trật tự, kỷ c.rơng và đáp ứng các yêu cầu mới của xã hội, việc sửa đôi, bổ sung Pháp lệnh 1995 đã được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 2 đưa vảo Chương trình xây dưng luật, pháp lệnh năm 1999 - 2000. ủ y ban thường vụ Quốc hội đã giao cho Bộ tư pháp chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an và cac cơ quan hữu quan khác nghiên cứu, soạn thảo dự án Pháp lệnh 1995 (sửa đổi). ' 8 Luận văn cao học Là m ột kiểm sát viên, qua thưc tiễn công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại địa phương và qua nghiên cứu, tìm hiểu các qui định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, tôi có m ột sô" suy nghĩ, trăn trở m ong m uốn góp phần nhỏ bé của m ình vào việc hoàn thiện các qui định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, tôi chọn đề tài : "Hoàn th iê n p h á p lu â t v ê các h ìn h th ứ c x ử p h ạ t vả b iê n p h á p x ử l ý v i p h a m h à n h c h ín h (trên th ư c tiễ n Thừa T h iên - H uề )" làm đề tài Luận văn cao học nhằm góp phần giải quyết những bức xúc như đã nêu ở trên và đ ể nâng cao nhận thức trong việc phục vụ công tác và nghiên cứu của mình. 2. T ình h ìn h n g h iê n cứ u : Về hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, về các chê tài hành chính, trong đó có đề cập đến hệ thông các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và vấn đề hoàn thiện pháp luật về hệ thông này, trong thời gian qua đã có m ột số công trình nghiên cứu, như : - Một sei vân đề về phạt hành chính, Phạm Dũng - H oàng Sao, Nhả xuất bản Pháp lý, năm '1986. - Vi phạm hành chính và tội phạm, những vấn đề lý luận và thực tiễn. Luận văn thạc s ĩ Luật học năm 1998 của Trần Thu Hạnh Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. - C h ế tài hành chính - lý luận và thực tiễn. TS. Vũ Thư, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - 2000. - Giáo trình Luật hành chính Việt N am - Đại học Quốc gia Hà N ội, H N , năm 2000, của TS. N gu vễn c ử u Việt. - Bài của các tác giả đăng trên các tập san N hà nước - Pháp luật của Bộ tư pháp, Tạp chí Tòa án, Tạp chí kiểm sát, nghiên cứu, trao đổi về xử phạt vi phạm hành chính. 9 Luận văn cao học Trong các công trình nghiên cứu trên dây, các tác giả trên cơ sở lý luận và thưc tiễn đã giới thiệu, phân tích, đánh giá về hoạt động xử lý vi phạm hành chính nói chung, xử phạt vi phạm hành chính nói riêng. Đặc biệt, đã trình bày về hệ thống ch ế tài hành chính, quá trình hình thành và phát triển của nó để từ đó đánh giá một cách khách quan những ưu điểm, những tồn tại, những bất cập trong hệ thông ch ế tài xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời nêu ra các giải pháp khắc phuc. Tuy nhiên, vì đề cập đến vấn đề xử lý vi phạm hành chính với m ột phạm vi rộng, nên các công trình nói trên bàn đến cả hình thức, biện pháp xử lý khác như biện pháp khắc phuc hậu quả do vi phạm hành chính gây ra, quá trình tổ chức và thực hiện các biện pháp pháp lý đảm bảo việc áp dung đúng đắn ch ế tài hành clìínlì, chứ không chuyên sâu nghiên cứu vân đề hoàn thiện các qui định pháp luật về hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính. 3. M u c đ íc h n g h iên cứ u : Qua việc nghiên cứu lý luận và trình bày, phân tích, đánh giá thực tiễn vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính của nước ta trong những năm qua, mục đích quan trọng mà đề tài hướng tới là góp phần hoàn thiện các qui định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần vào việc khắc phục những tồn tại, hạn chế, những qui định không thống nhất, chưa hợp lý, chưa đầy đủ của hệ thống các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính, dồng thời thông qua đề tài này cũng đưa ra những ý kiến góp vào chương trình sửa đổi Pháp lệnh '1995, tiến tới ban hành Pháp lệnh mới với các hình thức xử phạt đa dạng, đầy đủ hơn, qui định chặt chẽ hơn, thống nhất hơn để nâng cao hiệu quả trong đấu tranh phòng và chông các vi phạm hành chính, tăng cường trật tự kỷ cương và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. "Trong thưc tiễn hiện nay, song song với việc cải cách bộ máy quản lý nhà nước là việc phải hoàn thiện hệ thông pháp luật trên cả 3 phương 10 Luận văn cao học diện : xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật, đồng thời xây dựng ý thức pháp luật và nền văn hoá pháp lý" ị số 17 trang 15]. 4. N ộ i d u n g và p h a m v i n g h iê n c ứ u : Vân dề hoàn thiện các qui định pháp luật về xử lý vi phạm hành, chính có nội dung rất rộng, khuôn khổ của đề tài Luận văn cao học không cho phép giải quyết hết mọi vấn đề, nên chúng tôi chỉ tập trung vảo việc hoàn thiện hệ thống các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm lìành chính. Với giới hạn như vậy, phạm vi Luận văn bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây : - Một số vấn đề lý luận cơ bản về vi phạm hành chính, hình thức xủ phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính. - Quá trình hình thảnh và phát triển các qui định pháp luật về hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam từ i 945 đến nay. Thực trạng vi phạm hành chính và áp dụng pháp luật về các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính ở Thừa Thiên - Huê' trong thời gian qua. - N hững bất cập trong qui định và áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính, nhu cầu cần hoàn thiện và một số kiên nghị về phương hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện các qui định về các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính. 5. P h ư ơ n g p h á p n g h iên cứu : Việc nghiên cứu dề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, có sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh và phương pháp thống kê số liệu, kết hợp phương pháp tổng hợp đê làm rõ mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài. Viêc trình bày đề tài của Luận án với các phương pháp trên dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện hệ thông pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Luận văn cao học 6. Đ ó n g g ó p của đ ê tà i : Đây là m ột trong số nhiều công trình nghiên cứu pháp luật hiện hanh về xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt là hệ thống các qui định về xu' phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chỉnh, góp thêm thông tín có giá trị cho các cơ quan đang tiến hành soạn thảo Pháp lệnh 1995 (sửa đổi), những người làm công tác ngiên cứu, giảng dạy và những người, những cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, nhằm nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong thực tế và gop phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm hanh chính ờ Việt Nam. 7. B ô'cụ c của L uân vấn : • • N goài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận vàn gồm 3 chương : C h ư ơn g I : Một số vấn đề lý luận cơ bản về vi phạm hành chính, cá: hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính. C hư ơng 7/:T h ư c trạng qui định pháp luật về hình thức xử phạt vả biện pháp xử lý vi phạm hành chính, thưc trạng vi phạm hành chính và áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở Thừa Thiên - Huê trong thời gian qua. C hư ơng III : Vấn dề hoàn thiện các qui đ ị n h p h á p luậ t về các hình thức xử phạt và biện pháp xử lý vi phạm hành chính. 12 Luận văn cao học CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH, CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT VÀ BIỆN PHÁP x ử LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 1.1. K h ái n iê m v i p h a m h à n h c h ín h , các d ấu h iê u và y ế u tô cấu th àn h của v i p h a m h à n h c h ín h 1.1.1. K hái n iê m v i p h a m h à n h c h ín h Trong thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước, vi phạm hành chính là một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng được khoa học luật hành chính nghiên cứu như m ột đối tượng, m ột nội dung cơ bản. v ề mặt lý luận, vi phạm hành chính là m ột biểu hiện của vi phạm pháp luật. Đây là loại vi phạm trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Tuy chưa nghiêm trọng về tính chât hành vi và hậu quả như tội phạm hình sự, nhưng nó là vi phạm phổ biến xảv ra trên mọi lĩnh vực của đời sông xã hội, gây tác hại đến trật tư quản lý. Đe đưa ra khái niệm vi phạm hành chính, m ột mặt cần nêu sự khác biệt giữa vi phạm hành chính với các loại vi phạm pháp luật khác. Ví dụ, người bị áp dung chê tài kỷ luật bao giờ cũng trực thuộc cơ quan hoặc người có thẩm quyền áp dụng ch ế tài đó, còn giữa đốì tượng bị xử phạt vi phạm hành chính cũng như các đối tượng bị áp dụng các biện pháp cưỡng ch ế hành chính khác nói chung, với cơ quan, người có thẩm quyền áp dung các biện pháp đó không tồn tại quan hệ trực thuộc. Trách nhiệm hành chính áp dung đối với m ọi công dân, nhưng trách nhiệm kỷ luật thì không phải thế. N h ư vậy, không có vi phạm hành chính thì không có trách nhiệm hành chính. Tương tự, cơ sở của trách nhiệm hình sư là tội phạm , của trách nhiệm dân sự là 13 Luận văn cao học vi phạm quan hệ dân sự, của trách nhiệm kỷ luật là vi phạm kỷ luật. Xác định khái niệm vi phạm hành chính còn để làm cơ sở cho việc xác định trách nhiệm hành chính cho các chủ thể vi phạm hành chính dưới các hình thức xử phạt, các biện pháp xử lý hành chính khác. Do đó, m uốn xác định hành vi vi phạm hành chính cụ thể, đánh giá đúng tính chất, mức độ xâm hại của nó để qua đó tiến hành truy cứu trách nhiệm một cách nghiêm minh, có hiệu quả thì các cơ quan, công chức có thẩm quyền phải có nhận thức đầy đủ, đúng đắn bản chất, đặc điểm của hành vi vi phạm hành chính. Hành vi vi phạm hành chính từ trước đến nay đã được qui định ở nhiều văn bản khác nhau, nhưng được tập trung đầy đủ ở Pháp lệnh 1995 gần đây nhất. Pháp lệnh '1989, tại điều '1 qui định : "Vi p h ạ m hành chính là h àn h v i d o cá nhân , tô chức thự c h iện m ộ t cách c ố ý h o ặ c vô ý , xầm p h ạ m các q u i tắc quản lý nh à n ư ớ c m à k h ô n g p h ả i là tộ i p h ạ m hình sự và th eo q u i địn h của p h á p lu ậ t p h ả i b ị x ử p h ạ t hành chính". Định nghĩa này cho chúng ta thây các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính là : hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, tính có lồi vầ tính bị xử phạt vi phạm hành chính. Các dâu hiệu trên đồng thời cũng thể hiện dược mặt khách quan, mặt chủ quan của vi phạm hành chính. Định nghĩa này cũng đề cập tới yếu tô" chủ thể của cấu thành pháp lý của vi phạm hành chính. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ N guyễn cửu Việt : "Định nghĩa trên đây vẫn cần được chính xác hóa thêm ỏ một số klìía cạnh: Một là, yếu tố khách thể của vi phạm hành chính (những quan hệ xã hội bị vi phạm hành ch ínil xâm hại) không được thể hiện trong định nghĩa, tuy rằng điều này rất quan trọng. Công thức "xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước" không phải chỉ khách thể vi phạm, mà lầ chỉ tính trái pháp luật của hành vi. 14 Luận văn cao học Hai là, công thức "mà không phải là tội phạm hình sự "rất dễ làm cho chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hiểu lầm, dẫn đến chỗ tự cho mình có quyền đánh giá hành vi nào là vi phạm hình sư, hành vi nào là vi phạm hành chính, mà xem nhẹ việc dưa vào những qui định của Bộ luật hình sự" [sô 31 trang 400], Chúng tôi đồng tình với cách đặt vân đề như trên. BỞi vì nếu xem "các qui tắc quản lý nhà nước" là khách thê của vi phạm hành chính thì đó là một phạm trù rất rộng và nó hàm chứa cả tính trái pháp luật của hành vi. Hơn nữa, "các qui tắc quản lý nhà nước" không chỉ là khách thể của hành vi vi phạm hành chính mà nó còn là khách thể của hành vi vi phạm kỷ luật, tôi phạm. Vì vậy, Tiến sĩ N guyễn c ử u Việt có lý khi cho rằng sự thiếu cụ thê hóa, chính xác hóa ở hai khía cạnh trên dễ dần đến sự "linh động" của những người có thẩm quyền khi xử lý vi phạm. Đành rằng, dưới Pháp lệnh, Chính phủ còn ban hành các nghị định qui định cụ thể hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vưc. Pháp lệnh mới thay thế Pháp lệnh năm '1989 - Pháp lệnh 1995, thông qua quy định về "xử phạt vi phạm hành chính đã định nghĩa vi p h ạ m hành chính một cách gián tiếp tại điều 1, khoản 2 : "Xửphạt vi phạm hành chính dược áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các qui tắc quản lý Nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nlĩiệm hình sự và theo qui định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính N hư vậy, Pháp lệnh 1995 cũng không qui định cụ thể hơn diều gì, chỉ đưa ra thêm khái niệm "xử lý vi phạm hành chính" tại khoản 1 điều này là : "XỬ lý vi phạm hành chính" bao gồm "xử phạt vi phạm hành chính" và "các biện pháp hành chính khác". 15 Luận văn cao hoc 1.1.2. Các dấu h iê u củ a v i p h a m h à n h c h ín h Hai định nghĩa về vi phạm hành chính trong hai văn bản trên, tuy có khác nhau về sư diễn đạt nhưng đều thống nhất các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính : hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, tính có lỗi và tính bị xử phạt hành chính. 1.1.2.1. V i p h a m h à n h c h í n h là h à n h v i Theo Các-Mác thì "con người chỉ tồn tại đôi với pháp luật thông qua hành vi của mình" [s° 3 trang 19] Yị ph ạm hành chính cũng như mọi vi phạm khác, trước hết nó phải là hành vi, nó chỉ được thực hiện bơi hành vi. N hững suy nghĩ, quan niệm , tư tưởng, khi chưa thể hiện thành hành vi thì dù xâu thế nào cũng chưa phải là vi phạm pháp luật. Hànlì vi có thê thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động. Hành vi vi phạm hành chính là loại hành vi xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Các quan hệ này được nhà nước tác động, điều chỉnh bằng pháp luật. Mặc dù có nội dung đa dạng nhưng các quan hệ xã hội trong quản lý nhà nước được sắp xếp, phân loại thành những nhóm nhất định do các qui phạm pháp luật hành chính điều chỉnh, tạo nên trật tư quản lý nhà nước. Tính xâm hại đến các qui tắc quản lý nhà nước của hành vi vi phạm hành chính là việc làm tổn hại đến các trật tự quản lý nhà nước được pháp luật qui định và bảo vệ. 1.1.2.2. T ín h trái p h á p lu ât củ a h à n h v i v i p h a m h à n h c h í n h thê hiện ở chỗ, những hành vi do chủ thể vi phạm hành chính thực hiện trái với các qui định của pháp luật hành chính điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Cụ thể hơn, đó là hành động bị pháp luật hành chính cấm, hoặc không thực hiện, hay thực hiện không đúng hành động mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện. Ví dụ : Luật 16 Luân văn cao học giao thông đường bộ câm lân chiêm lòng lề đường/ vỉa hè mà vẫn lân chiếm , hoặc luật doanh nghiệp qui định sản xuất, kinh doanh phải có giâv đăng ký kinh doanh, giây phép hành nghề nhưng người kinh doanh không đăng ký... thì đều là hành vi (hành động và không hành động) trái pháp luật. Tuv nhiên, một người hoặc một tổ chức, khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không được ngành luật hành chính qui định và bảo vệ (thể hiện trong các văn bản pháp luật qui định về hành vi vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính) thì không bị coi là trái pháp luật hành chính. Ví dụ, sinh con thứ 3 (vi phạm chính sách dân sổ - k ế hoạch hóa gia đình), để trâu bò phá hoại hoa màu... lầ những hành vi chưa bị pháp luật qui định là vi phạm hành chính và bị xử phạt vi phạm hành chính. Trên cơ sở thừa nhận tính trái pháp luật hanh chính là một dấu hiệu của vi phạm hành chính, Pháp lệnh 1995 đà khẳng định tại khoản 2 điều 3 : "Cá nhằn, t ổ chứ c c h ỉ b ị x ử p h ạ t hành ch ín lĩ k h i có hầnli v i v i p h ạ m hầrdĩ chính d o p h ấ p lu ậ t q u i định "Tuy nhiên, các hành vi trái với các qui định luật hành chính chỉ là một trong những loại hành vi mà chủ thể thực hiện chúng có thể phải chịu trách nhiệm hành chính mà thôi" [s° 30 trang 403]. N hư vậy, không phải mọi hành vi có tính chất trái pháp luật hanh chính đều ỉà vi phạm hành chính. Một sô" tội phạm cũng là hành vi trái pháp luật hành chính (tội chông người thi hành công vụ, tội vi phạm các qui tắc trật tư an toàn giao thông, tội kinh doanh trái phép...) nhưng phải xử lý hình sự. Đe phân biệt tội phạm với vi phạm hành chính trong trường hợp hai loại vi phạm này cùng có chung khách thể, người ta thường lấy tiêu chí là m ứ c đ ộ n g u y h iểm ch o x ã h ộ i của hành 17 dể phân biệt. 17 Luận văn cao học Phạm vi của đề tài này không cho phép đi sâu vào phân tích, so sánh đê phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành chính, nhưng chúng tỏi thấy cũng thống nhất với các tiêu chí mà TS. N guyễn c ử u Việt đã liêu 30 trang 402, 403, 404, 405] phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành chính là : - Loại khách thể bị xâm hại, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là tiêu chí đầu tiên. - Hành vi đó đã bị xử lý hành chính hay chưa ? (qui luật lượng biến đổi thành chất). Vì vậy có 66 tội danh trong Bộ luật hình sự năm 1999 qui định yếu tố cầu thành "đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm". - Đa số các cấu thành vi phạm h à n h chính không bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả thiệt hại của hành vi vầ quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của nó (chỉ cần hành động hay không hành động trái pháp luật là đủ căn cứ áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hanh chính). - Trong những trường hợp cần thiết, cần phải xem xét ở mặt khách quan của vi phạm hành chính các hoàn cảnh khác như thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hành vi. - Hành vi trái pháp luật và có lỗi phải được một văn bản pháp luật qui định là vi phạm hành chính và phải chịu trách nhiệm hành chính (dâu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của vi phạm hành chính). "Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi khách quan là tiêu chí cơ bản để nhà làm luật tiến hành phân chia chúng thành các loại khác nhau : tội phạm, vi phạm pháp luật hành chính/ vi phạm pháp luật dân sự..." [số 4 trang 2], 18 Luân văn cao học Tóm lại, nếu như trong khoa học hình sư những dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan là : hành vi trái pháp luật, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, thì trong khoa học luật hành chính, hai dấu hiệu bắt buộc là : hành vi và tính nguy hiểm cho xã hội, còn quan hệ nhân quả trong m ột số’ hành vi không phải là đâu hiệu bắt buộc phải có của cấu thành vi phạm hành chính. . 1.1.2.3. T ín h có lôi của vi p h a m h à n h c h ín h Mặt chủ quan của vi phạm hành chính thể hiện ở tính chất có lỗi cua nó. Lỗi lả dấu hiệu cơ bản, bắt buộc của vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm hành chính nói riêng do các cá nhân thực hiện. Lỗi là trạng thái tâm lý, là thái độ của người vi phạm đối với hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi đó tại thời điểm thực hiện hanlì vi của mình. Hành vi được thực hiện phải là kết quả của sự tự lựa chọn, tự quyết định của các cá nhân hoặc tổ chức. Nội dung của lỗi thể hiện sự nhận thức của người vi phạm. Do dó, nếu là người không nhận thức được tính xâm hại cho xã hội của hành vi thì coi như không có lỗi và không có vi phạm pháp luật nói chung vả vi phạm hành chính nói riêng. 1.1.2.4. T ín h bị xử phat vi p h a m h à n h c h ín h Trong vi phạm hành chính, tính bị xử phạt vi phạm hành chính được biểu hiện ở chỗ vi phạm hành chính là cơ sở để áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính tương ứng đốì với chủ thể vi phạm. Vì vậy có thể coi tính bị xử phạt vi phạm hành chính là một dấu hiệu của vi phạm hành chính. Đây là dâu hiệu có tính quy kết bắt nguồn từ tính xâm hại và tính trái pháp luật hành chính. Nói có tính quy kết, bởi vì có vi phạm hành chính thì phải có xử phạt vi phạm hành chính theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng áp dụng ch ế tài khác đối với chủ thể vi phạm hành chính, như biện pháp tác động m ang tính xã hội (ví du : Giáo duc tại xã, phường, thị trấn hoặc ỏ Luận văn cao học cơ quan, tổ chức quản lý chủ thể vi phạm) đối với những vi phạm hành chính nhỏ, hoặc do tình trạng đặc biệt về nhân thân của chủ thể vi phạm ; hoặc có khi có vi phạm xảy ra mà không thể áp dụng biện pháp xử phạt nếu nó đã hết thời hiệu xử phạt. Do đó, tính bị xử phạt vi phạm hành chính của vi phạm hành chính có ý nghĩa chủ yếu chỉ ở chỗ nó là tiêu chí để phân biệt với các vi phạm pháp luật khác như : tội phạm, vi phạm kỷ luật..., khi chúng có chung khách thể với vi phạm hành chính. Trên đây là các dâu hiệu của vi phạm hành chính, chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Hành vi do các cá nhân, tổ chức thực hiện có đầy đủ các dâu hiệu đó thì được coi là vi phạm hành chính và phải bị xử phạt vi phạm hành chính theo qui định của pháp luật. 1.1.3. Cấu thành vi pham hành chính Vi phạm hành chính là một dạng của vi phạm pháp luật, do đó nó cũng có các yếu tố cấu thành pháp lý là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính nằm trong m ột thể thông nhất và được coi là "thành tố" cơ bản cần và đủ của một vi phạm hành chính và giữa chúng có môi liên hệ chặt chẽ với nhau. 1.1.3.1. Măt khách quan của vi pham hành chính Mặt khách quan của vi phạm hành chính là tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài của vi phạm hành chính, bao gồm : hành vi trái pháp luật ; tính nguy hiểm cho xã hội ; hậu quả và môi quan hệ giữa hành vi vả hậu quả ; các dấu hiệu khác như công cu, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm. - N hư ỏ phần các dấu hiệu pháp lý của vi phạm hành chính đã nêu, vi phạm hành chính trước hết là hành vi trái pháp luật do cá nhân và tổ chức thực hiện. Hành vi (có thể thực hiện bằng hành động hay không hành động) chỉ dược cc,; là trái pháp luật khi hành vi đó thưc 20 Luận văn cao học hiện những việc mà pháp luật ngăn cấm hay không thực hiện những việc mà pháp luật buộc phải làm do các chủ thể của vi phạm hành chính thực hiện. - Về tính nguy hiểm cho xã hội, có quan điểm cho rằng chỉ có tội phạm mới có tính nguy hiểm cho xã hội, còn vi phạm hành chính và các vi phạm pháp luật khác thì không nguy hiểm. Quan điểm này chưa thỏa đáng ở chỗ, đã là hành vi trái pháp luật tức là đã xâm hại đến các quan hệ xã hội và trật tư quản lý nhà nước được pháp luật bảo vệ. Do đó, bản thân hành vi trái pháp luật đã thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Mặt khác, tính nguy hiểm của mỗi hành vi vi phạm hành chính có thể ít gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng vi phạm hành chính xảy ra phổ biến, nếu cộng lại sẽ là hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Tuy nhiên, tính nguy hiểm của hành vi vi phạm hành chính thấp hơn so với tội phạm hình sự. - Về hậu quả và mối quan hệ nhân quả Đa số câu thành vi phạm hành chính không bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả thiệt hại của hành vi. Tuy nhiên, đốì với cấu thành pháp lý của nhiều hành vi vi phạm hành chính khác thì hậu quả thiệt hại cho xã hội là bắt buộc. Giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành chính có môi quan hệ nhân - quả, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính có tiền đề xuất hiện từ hành vi khách quan của vi phạm hành chính. Quan hệ giữa hành vi vi phạm hành chính và thiệt hại mà nó gây ra cần thiết phải được xác định khi hậu quả của hành vi được tính là cơ sở, là căn cứ để lực chọn áp dụng các biện pháp buộc khôi phục hoặc khắc phục, buộc bồi thường thiệt hại... - N goài ra, trong những trường hợp cần thiết, khi nghiên cứu mặt khách quan của vi phạm hành chính, cần phải xem xét một số dấu hiệu khác như thời gian, địa điểm, phương tiện thực hiện hành vi vi phạm như : gây rối trật tư ở cơ quan xí nghiệp; không áp dụng biện 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan