Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền,
là vấn đề cơ bản nhất hiện nay của nước ta trong tiến trình hội nhập quốc tế, cũng
như trong thời kỳ hậu gia nhập WTO.
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là một
trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành công
nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước và một xã hội phát triển tiên tiến. Ở nước ta để
đảm bảo phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, một trong những vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, việc hoàn thiện
đổi mới hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn hiện nay là tất yếu. Trong đó,
nội dung yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật phải phù hợp với công cuộc đổi mới
và dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội. Điều quan trọng là phát huy tối đa tính
dân chủ, tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật là điều kiện hết sức quan trọng đẻ xây dựng
Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi Việt Nam đã chính thức
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Vì khi hệ thống pháp luật hoàn
thiện sẽ thúc đẩy xã hội phát triển một cách nhanh chóng, nhất là nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ nhu cầu kinh tế - xã hội
nước ta hiện nay đòi hỏi phải sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng kịp thời
nhu cầu thực tiễn. Với lý do đó, tác giả đã chọn đề tài “ Hoàn thiện hệ thống pháp
luật – điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền”.
2. Nội dung của đề tài
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận về hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa và
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, tìm hiểu mối quan hệ giữa chúng từ đó
thấy được việc hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền như thế nào.
Khi nghiên cứu đề tài này chúng ta sẽ phân tích những ưu nhược điểm của hệ
thống pháp luật nước ta, để thấy được những điểm cần phát huy, những điểm nào
cần hạn chế của hệ thống pháp luật, từ đó có những giải pháp hoàn thiện góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
TH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
3. Mục đích của đề tài
Việc xác định rõ mục đích nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng trong
việc đưa ra những định hướng vững chắc cho quá trình thực hiện đề tài, không đi
chệch hướng khỏi những định hướng đã chọn.
Mục đích của đề tài góp phần xây dựng cơ sở lý luận cho việc từng bước
hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa, đồng thời đóng góp cho đọc giả thêm một tài liệu về vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong đề tài này tác giả sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Phương pháp phân tích, chứng minh.
- Phương pháp tiếp cận thông tin: dựa trên những quy định của pháp luật,
sách báo, tạp chí.
5. Bố cục đề tài
Bố cục đề tài gồm:
-Mục lục
Trung tâm -Học
liệu1:ĐH
Cần
Thơ
Tài liệu
tậphộivàchủnghiên
Chương
Cơ sở
lý luận
về @
hệ thống
pháphọc
luật Xã
nghĩa vàcứu
Nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
- Chương 2:Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành – giải pháp
và phương hướng hoàn thiện – điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa
- Kết luận
Đề tài chỉ nghiên cứu ở một chừng mực nào đó, với mong muốn đóng góp ý
kiến phần nào vào hệ thống pháp luật để làm cho hệ thống pháp luật ngày càng
phong phú và hoàn thiện hơn. Do trình độ và năng lực còn hạn chế nên bài viết của
em không thể không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến
và bổ sung của quý thầy cô và đọc giả để đề tài được hoàn thiện hơn!!!
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
TH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
Trung……………………………………………………………………………………....
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………....
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
TH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
LỜI CẢM ƠN
Thành kính biết ơn gia đình đã vất vả chăm lo cho con ăn học suốt những
năm qua để có được như ngày hôm nay.
Xin chân thành cảm ơn:
Tất cả quý thầy cô trong Trường Đại học Cần Thơ nói chung, quý thầy cô
Khoa luật nói riêng đã tận tình giảng dạy truyền đạt những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu cho tôi suốt bốn năm đại học qua.
Thư viện Trung tâm Trường Đại học Cần thơ, Thư viện Thành phố Cần thơ
và thư viện Khoa Luật cùng quý thầy cô trong thư viện đã cung cấp những tài liệu
quan trọng trong suốt quá trình học tập và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình tham khảo tài liệu để hoàn thành đề tài này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn này đến cô Huỳnh Thị Sinh Hiền đã tận tình
giúp đở, chỉ dẫn cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp
này.
Và xin cảm ơn tất cả các bạn sinh viên Khoa Luật khóa 30 đã giúp đở cho tôi
trao Học
dồi cùng
tôi ĐH
những
kiến Thơ
thức quý
Trungvàtâm
liệu
Cần
@ báo.
Tài liệu học tập và nghiên cứu
Cuối cùng, Tôi xin gửi đến toàn thể quý thầy và các bạn sinh viên lời chúc
tốt đẹp nhất!!!
Huỳnh Thanh Tốt
Luật Thương mại K30
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
TH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.1. Khái niệm hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa
Theo quan điểm triết học Mac-Lênin “Pháp luật là công cụ thống trị của
giai cấp này đối với giai cấp khác, để duy trì sự thống trị của mình, giai cấp nắm
chính quyền thông qua bộ máy Nhà nước đặt ra pháp luật nhằm hướng dẫn hoạt
động của mọi người trong xã hội, nhằm đặt mọi người trong khuôn khổ phù hợp với
lợi ích của nó”. Pháp luật Xã hội chủ nghĩa thể hiện sự thống nhất ý chí của giai cấp
lãnh đạo mà giai cấp lãnh đạo trong Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là giai cấp công
nhân, nông dân và các tầng lớp khác. Đây là nguyên tắc không thể thiếu được của
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Mặc khác, tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở
mục đích diều chỉnh quan hệ xã hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều
chỉnh giữa các tầng lớp xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt
giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một trật
Trungtựtâm
liệu
ĐH
Thơ
@ trị,
Tàibảo
liệu
tậpcốvà
cứu
phù Học
hợp với
ý chí
củaCần
giai cấp
thống
vệ học
và củng
địanghiên
vị của giai
cấp
thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai
cấp.
Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội, pháp luật là do Nhà
nước, đại diện chính thức cho toàn xã hội ban hành. Vì vậy, ở chừng mực nào đó
pháp luật còn thể hiện ý chí của giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ví dụ:
pháp luật xã hội chủ nhgiã cùng với việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và
nhân dân lao đông dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể của mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển nhất định không thể không tính đến
ý chí và lợi ích của các tầng lớp khác trong xã hội.
Xét về bản chất, pháp luật là một hiện tựợng vừa mang tính giai cấp lại vừa
mang tính xã hội. Hai thuộc tính này quan hệ mật thiết với nhau và gắn bó chặt chẽ
với nhau trong một thể thống nhất. Nói cách khác, không một kiểu pháp luật nào chỉ
thể hiện duy nhất tính giai cấp; và ngược lại cũng không có kiểu pháp luật nào chỉ
thể hiện tính xã hội.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
1
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa là hệ thống ý chí, nguyện vọng của
nhân dân được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật. Trong đó, tất cả các cơ quan
Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức xã hội, các nhân viên Nhà nước và công dân phải
tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh triệt để, chính xác.
Tóm lại, Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên
hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật và các
ngành luật, được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo một trình tự
và hình thứ nhất định.
Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm sau:
- Tính khách quan:
Đây là điểm quan trọng nhất, thể hiện tính phụ thuộc của cả hệ thống pháp
luật, của từng ngành luật, chế định pháp luật và cả từng quy phạm pháp luật trong
các chế định vào tồn tại xã hội. Nghĩa là các quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội của
thực tiễn khách quan quyết định sự tồn tại cũng như đặc điểm nội dung, tính chất
của cả hệ thống pháp luật và từng bộ phận cấu thành nó.
Trung tâm -Học
liệu ĐH
Thơ
@ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Tính thống
nhất,Cần
hài hoà
bên trong:
Đây là đặc trưng của hệ thống. Trong bức thư gửi Smít năm 1890 Ph.
Ằnghen viết: “Trong một quốc gia hiện đại, pháp luật không những phải là sự biểu
hiện các điều kiện kinh tế, mà còn phải thể hiện sự hài hoà bên trong”.Tính thống
nhất, hài hoà bên trong thể hiện ở nhiều khía cạnh:
Trước hết, về mặt khách quan, tính thống nhất, hài hoà bên trong của hệ
thống pháp luật được quyết định bởi tính thống nhất của của chế độ kinh tế, chính
trị - xã hội của một quốc gia hiện đại.
Hai là, hệ thống ấy được xây dựng và được thực hiện trong thực tiễn đời
sống dựa trên những nguyên tắc chung – những tư tưởng chủ đạo thống nhất.
Ba là, sự liên kết chặt chẽ, hài hoà, không mâu thuẫn nhau giữa các quy
phạm pháp luật trong từng văn bản, từng chế định, từng ngành luật và giữa tất cả
các bộ phận ấy với nhau trong hệ thống pháp luật.
- Sự phân chia hệ thống pháp luật thành những bộ phận cấu thành:
+ Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất trong hệ thống cấu trúc bên trong
của pháp luật. Nó cấu thành chế định pháp luật, các ngành luật và cả hệ thống pháp
luật.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
2
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
+ Chế định pháp luật là một nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội có những đặc điểm chung và có quan hệ mật thiết với nhau thuộc
cùng một loại quan hệ xã hội do một ngành luật điều chỉnh.
+ Ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh cùng một loại
quan hệ xã hội có cùng tính chất thuộc mọi lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
Một hệ thống bao giờ cũng có cơ cấu bên trong của nó. Hệ thống pháp luật
bao gồm các tiểu hệ thống hợp thành là các ngành luật. Các ngành luật lại bao gồm
các tiểu hệ thống nhỏ hơn hợp thành các chế định pháp luật hoặc phân ngành luật.
Các chế định được hợp thành từ những quy phạm pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngoài những đặc điểm chung của hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa thì hệ
thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một số đặc điểm riêng sau:
1.1.2.1. Pháp luật Xã hội chủ nghĩa phản ánh ý chí nguyện vọng của
nhân dân
Ý chí nguyện vọng của nhân dân là đòi hỏi ước muốn nhằm đáp ứng những
nhu cầu về tồn tại và phát triển của họ. Tức là thoả mãn tối đa những nhu cầu về
vật chất và tinh thần của nhân dân. Quan điểm này thể hiện bản chất của Nhà nước
và đãHọc
đượcliệu
khẳng
định
trong
tất cả
bảnliệu
Hiếnhọc
pháp.
Đặc
là Hiếncứu
pháp
Trungtatâm
ĐH
Cần
Thơ
@các
Tài
tập
vàbiệt
nghiên
1992 (sửa đổi) đã khẳng định: “Nhà nước cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa các giai cấp
công nhân với nông dân và trí thức”. Pháp luật là quyền lực cao nhất của Nhà nước,
công cụ này được Nhà nước sử dụng nhằm để điều chỉnh các quan hệ phát sinh.
Ngày nay bài học lấy dân làm gốc với tư tưởng bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hành đều của dân luôn nhất quán trong lịch sử xây dựng và phát
triển Nhà nước ta càng trở nên hết sức quan trọng. Sức mạnh của Nhà nước bắt
nguồn từ sức mạnh, ý chí của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; phải xây
dựng hệ thống pháp luật trong sạch, vững mạnh, gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý
chí nguyện vọng của nhân dân; đảm bảo thực tế pháp luật phải thể hiện ý chí
nguyện vọng của nhân dân.
Vì vậy, pháp luật là tư tưởng ý chí của giai cấp cầm quyền nhưng ở Nhà
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức. Nên ý chí của giai cấp cầm quyền cũng là ý chí
nguyện vọng của nhân dân.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
3
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
1.1.2.2. Pháp luật xã hội chủ nghĩa phản ánh các quyền của nhân dân
Đó là quyền con người, quyền công dân, quyền cộng đồng, quyền dân tộc và
các biểu hiện qua quyền kinh tế, chính trị, xã hội…Đương nhiên các quyền điều dựa
trên một trình độ kinh tế nhất định. Trong một nước còn kém phát triển như nước ta
hiện nay có thể có hai khuynh hướng tiêu cực ảnh hưởng đến lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền đó là sự
thiếu vắng hai yếu kém sự tự ý thức về các quyền và đi kèm với sự yếu kém đó là
không ý thức được đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, hoặc do nhiều yếu
tố bên ngoài tác động, tự ý thức về quyền cao hơn trình độ kinh tế - xã hội đang có
bảo đảm cho nó, gây ra những áp luật chính trị không lành mạnh đối với sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
1.1.2.3. Pháp luật xã hội chủ nghĩa sự ngự trị tối cao trong đời sống xã
hội
Đây là một nguyên tắc cơ bản của Nhà nước. Trong Nhà nước pháp quyền
không một tổ chức, cá nhân nào đứng trên pháp luật, vượt qua ngoài phạm vi điều
chỉnh của pháp luật. Đối với Đảng ta là một thành viên cũng lại là người lãnh đạo,
vấn đề đặt ra là giải quyết các mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội, một nguyên tắc Hiến định với việc Đảng hoạt động trong khuôn khổ
và liệu
pháp ĐH
luật, Cần
giải quyết
Đảng
viênhọc
chấptập
hànhvà
điều
lệ, kỷ cương,
TrungHiến
tâmpháp
Học
Thơvấn
@đềTài
liệu
nghiên
cứu
cương lĩnh, nghị quyết của Đảng. Trong thực tế hiện nay có nhiều mâu thuẫn không
thể vượt qua. Bởi nhiều trường hợp Đảng viên vẫn tôn trọng tuân thủ pháp luật Nhà
nước, nhưng có thể vi phạm điều lệ, nghị quyết của Đảng. Trong thực tiễn tồn tại
khác nhau giữa yêu cầu với hai phẩm chất, tư cách, hành vi một Đảng viên với một
công dân. Mặt khác quá trình soạn thảo các văn bản luật và nghị quyết là rất khác
nhau về chủ thể sáng kiến, mục đích và yêu cầu. Đây là vấn đề quan trọng đặt ra
trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Hiện nay, nhiều trường hợp pháp
luật của Nhà nước chưa phải là quy phạm bao quát nhất, cao nhất mà lại là nghị
quyết, chỉ thị của Đảng. Một Đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng nhưng không thể coi
là vi phạm pháp luật Nhà nước.
1.1.2.4. Pháp luật xã hội chủ nghĩa phản ánh xu thế chung của nhân loại
Những chuẩn mực chung của nhân loại không phải lúc nào cũng dễ dàng
được sự thừa nhận chung. Điều đó có nghĩa là không phải lúc nào cũng xác định
được chuẩn mực, những giá trị tiến bộ chung của nhân loại. Nhà nước pháp quyền
của ta đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản. Đây là một vấn đề tương đối mới chưa có khuôn mẫu. Nếu
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
4
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
chúng ta lấy chuẩn mực của các nước tiên tiến mà không có sự chọn lọc, tiếp nhận
một cách phù hợp với điều kiện nước ta thì vô hình dung làm cho vấn đề càng thêm
phức tạp. Không chỉ phức tạp trong quá trình lãnh đạo của Đảng mà còn trong việc
quản lý của Nhà nước, xây dựng pháp luật, mà còn trong cả việc hội nhập quốc tế
và việc chấp nhận của quần chúng trong nước.
1.1.3. Những tiêu chuẩn cơ bản để xác định mức độ hoàn thiện của một
hệ thống pháp luật
Để đánh giá về một hệ thống pháp luật, xác định mức độ hoàn thiện của nó
cần phải dựa vào những tiêu chuẩn được xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên hệ với
điều kiện và hoàn cảnh thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một cách khách
quan và rút ra những kết luận, làm sáng tỏ những ưu điểm và nhược điểm của hệ
thống pháp luật.
Có nhiều tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật trong
đó có bốn tiêu chuẩn cơ bản: Tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ
kỹ thuật pháp lý của hệ thống pháp luật.
1.1.3.1. Tính toàn diện của một hệ thống pháp luật
Tính toàn diện là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ
thể Cần
nói đâyThơ
là tiêu
để “định
mộtnghiên
hệ thốngcứu
pháp
Trungthống
tâmpháp
Họcluật.
liệuCóĐH
@chuẩn
Tài liệu
họclượng”
tập và
luật nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ khi nào định lượng được mới có thể
nghiên cứu để “định tính”.
Xã hội bao giờ cũng tồn tại với tính cách là một chỉnh thể, bao gồm nhiều
lĩnh vực khác nhau. Tất cả các lĩnh vực ấy điều đòi hỏi một sự điều chỉnh của pháp
luật ở mức độ này hay mức độ khác. Do vậy tính toàn diện của hệ thống pháp luật
đòi hỏi khả năng bao quát toàn bộ đời sống xã hội, đảm bảo không một lĩnh vực nào
của xã hội đứng ngoài sự điều chỉnh của pháp luật. Tính toàn diện của hệ thống
pháp luật thể hiện ở hai cấp độ:
-Ở cấp độ chung đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có đủ các ngành luật theo cơ
cấu nội dung lôgíc và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật tương ứng.
-Ở cấp độ cụ thể đòi hỏi mỗi ngành luật phải có đủ các chế định pháp luật và
các quy phạm pháp luật ngay trong bản thân một ngành luật. Cơ sở xác định cơ cấu
các ngành luật là tính đặc thù của các quan hệ xã hội cần điều chỉnh pháp luật. Yêu
cầu chung của tính toàn diện không chỉ đòi hỏi sự đầy đủ của các ngành luật mà còn
đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của các ngành luật, tức là các ngành luật phải nằm
chung trên một mặt phẳng phát triển. trong mấy chục năm qua, hệ thống pháp luật
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
5
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
của chúng ta rơi vào tình trạng chấp vá, phát triển lệch, là nhiều ngành luật quan
trọng như luật dân sự, luật lao động, đã có một trình độ thấp lạc hậu, nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế thiếu các đạo luật tương ứng, không được điều chỉnh hay “điều
chỉnh vay mượn” từ các ngành luật khác, nên phát triển kém hiệu quả, dẫn đến
không phát huy được vai trò trong đời sống xã hội.
1.1.3.2. Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật
Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện sự thống nhất của nó. Khi xem
xét mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật cần phải chú ý xem giữa các bộ
phận của hệ thống có trùng lập, chồng chéo hay mâu thuẫn nhau? Sau khi xem xét
tiêu chuẩn tính toàn diện cần phải dựa theo tính đồng bộ để đi sâu phân loại, đặt các
hệ thống pháp luật trong mối liên hệ qua lại để phân tích, đối chiếu, xác định rõ
mức độ thống nhất (đồng bộ) trên cơ sở đó xác định tính chất và trình độ của một hệ
thống pháp luật. Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật cũng thể hiện ở hai mức độ:
-Ở cấp độ chung đó là sự đồng bộ giữa các ngành luật với nhau. Để đạt tới
mục tiêu này cần giải quyết tốt hai vấn đề lớn: Một là, phải xác định rõ ranh giới
giữa các ngành luật. Hai là, phải tạo ra được một hệ thống quy phạm pháp luật căn
bản (thể hiện trong các văn bản luật) để tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn
hệ thống pháp luật.
Trung tâm -Ở
Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
cấp độ cụ thể tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn,
không trùng lập, chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa
các quy phạm pháp luật với nhau. Như vậy, xét theo cơ cấu của mỗi ngành luật với
ba thành tố cơ bản thì ngành luật có tính chất loại, chế định pháp luật có tính chất
nhóm còn quy phạm pháp luật có tính chất tế bào. Để tạo ra tính đồng bộ phải giải
quyết triệt để, đúng đắn mối quan hệ loại - nhóm - tế bào. Điều đó đòi hỏi một mặt
phải có quan điểm tổng quát để có thể xác định tính chất chung của của mỗi ngành
luật, cơ cấu các chế định, mặt khác phải có quan điểm cụ thể để dự kiến chính xác
các tình huống và hoàn cảnh cụ thể, từ đó đề ra các quy phạm phù hợp.
1.1.3.3. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan giữa trình độ
của hệ thống pháp luật với trình độ phát triển của kinh tế - xã hội. Hệ thống pháp
luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, nó không thể hiện
cao hơn hoặc thấp hơn trình độ đó. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện
nhiều mặt. Khi xem xét tiêu chuẩn này cần chú ý đến các mặt cần giải quyết tốt mối
quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán và các quy phạm xã
hội khác.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
6
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
Một hệ thống pháp luật có thể được xây dựng khá toàn diện, không có mâu
thuẫn, nhưng lại không phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, là một hệ thống
ảo. Đó có thể là một hệ thống pháp luật vay mượn hay sao chép. Tuy nhiên trên
thực tế ít có trường hợp cả hệ thống pháp luật rơi vào tình trạng không phù hợp, mà
thường là không phù hợp của từng bộ phận thuộc hệ thống pháp luật nói chung. Sở
dĩ, một bộ phận của hệ thống pháp không phù hợp với đời sống xã hội do sai lầm
chủ quan khi xây dựng chúng hoặc bộ phận bị lạc hậu do các quan hệ mà chúng
điều chỉnh đã thay đổi, nhưng các quy phạm ấy chưa được sửa đổi bổ sung kịp thời,
tạo ra khoảng cách nhất định làm cho chúng mất tác dụng.
1.1.3.4. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải được xây dựng ở trình
độ kỹ thuật pháp lý cao
Kỹ thuật pháp lý là tổng thể những phương pháp phương tiện được sử dụng
trong quá trình soạn thảo và hệ thống hoá pháp luật, chứa đựng các nguyên tắc, các
quy tắc khoa học nhằm bảo đảm cho pháp luật có được đầy đủ các khả năng để
điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội.
Hoạt động lập pháp trong một ý nghĩa nào đó mang tính chất công nghệ.
Toàn bộ hoá trình này được thực hiện bởi một hệ thống các phương pháp công
nghệ, từ phương pháp phát hiện các nhu cầu cần điều chỉnh của pháp luật, điều tra,
Trungkhảo
tâmcứu,
Học
Cầntiêu,
Thơ
Tàitắc,
liệuđếnhọc
nghiên
xácliệu
định ĐH
các mục
các @
nguyên
việctập
chọnvà
hình
thức thểcứu
hiện,
sử dụng ngôn ngữ pháp lý xây dựng các quy phạm, các chế định và dự thảo văn
bản, kiểm nghiệm dự thảo văn bản trên thực tế, giám định văn bản…
Kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó có ba điểm quan
trọng, cần thiết phải chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật là:
- Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp
dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của
pháp luật.
- Cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô đọng, lôgic,
chính xác và một nghĩa.
1.1.4. Một số nguyên tắc chung đối với xây dựng pháp luật Xã hội chủ
nghĩa.
1.1.4.1. Bảo đảm và không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với quá trình xây dựng pháp luật.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền thì bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước là vấn đề sinh tử của cách mạng. Bởi vì, chỉ tăng cường sự lãnh đạo của
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
7
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
Đảng mới “giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, bảo đảm mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng Xã hội
chủ nghĩa”.
Để lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện đổi mới, Đảng phải tự đổi mới, chỉ
trên cơ sở đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng mới bảo đảm được
chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
tổ chức quản lý xã hội. Vì vậy, Đảng phải cụ thể hoá nội dung, phương thức lãnh
đạo với từng lĩnh vực hoạt động của Nhà nước. Đối với xây dựng pháp luật – khâu
tiếp nối sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là mắt khâu đầu tiên của quản lý Nhà nước
– thì sự lãnh đạo của Đảng phải được xác lập trên hết và trước hết. Điều này đòi
hỏi:
- Các cơ quan lãnh đạo của Đảng đảm bảo tính nhất quán trong chủ trương,
đường lối; bất kì một sự không ăn khớp, một sự mâu thuẫn nào đều ảnh hưởng đến
việc xây dựng pháp luật, đến tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Mặt khác, các
cơ quan của Đảng phải tôn trọng các cơ quan Nhà nước có chức năng xây dựng
pháp luật, tránh tình trạng “ở một số nơi, cấp uỷ đồng tình, thậm chí còn ra nghị
quyết trái pháp luật để chính quyền thực hiện”.
- Tập trung sự lãnh đạo các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xây dựng pháp
Trungluật,
tâmtrước
Học
ĐHhội,
Cần
Thơ
Tàithời
liệu
tậpđường
và nghiên
cứu
hếtliệu
là Quốc
Chính
phủ@
để kịp
thểhọc
chế hoá
lối, chủ trương
của Đảng thành pháp luật.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng trong các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành pháp luật, đề cao trách nhiệm, nâng cao
chất lượng hoạt động, xây dựng cơ chế và quy chế về mối quan hệ giữa các cơ quan
của Đảng và các Uỷ ban của Quốc hội, làm rõ mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Bộ
Chính Trị với Ban cán sự Chính phủ, các bộ phận và giữa các Ban cán sự với nhau
cho phù hợp với mối quan hệ về mặt Nhà nước.
- Phát huy vai trò tích cực của đội ngũ Đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân, các Đảng viên là các cán bộ có thẩm quyền ban hành pháp
luật.
1.1.4.2. Nguyên tắc khách quan
Tính khách quan của pháp luật quy định tính khách quan của xây dựng pháp
luật. Từ lâu, Mác đã khẳng định: “quyền lập pháp không tạo ra luật pháp, nó chỉ
phát hiện và nêu luật pháp”. Để đảm bảo tính khách quan trong xây dựng pháp luật
một số vấn đề đặt ra:
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
8
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
- Nói xây dựng pháp luật phải khách quan không có nghĩa là các cơ quan có
thẩm quyền chỉ bê nguyên, sao lại, chụp lại các sự kiện, hiện tượng thực tế. Ngược
lại, xây dựng pháp luật trong khi tôn trọng sự thật khách quan phải phát hiện ra cái
bản chất, khuynh hướng, động lực từ những mối liên hệ phổ biến của các hiện
tượng, tái tạo lại ở trình độ tư duy lôgic những quan hệ xã hội có tính phổ biến, tính
chung, lọc bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, tự phát và bằng hoạt động mang tính tổ
chức, kỹ thuật nghiệp vụ để mô tả chung dưới dạng các quy tắc xử sự của hành vi.
- Để xây dựng pháp luật phải đảm bảo tính khách quan, đòi hỏi các cơ quan
xây dựng pháp luật phải bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, thực tiễn và yêu cầu của quản lý Nhà nước trong từng thời kỳ,
bám sát thực tiễn pháp lý trên cơ sở tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá
thực trạng của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến dự án khảo
sát đánh giá thực trạng quan hệ xã hội, thực trạng thái độ, tâm lý phản ứng của dư
luận xã hội. Mặt khác tính khách quan trong xây dựng pháp luật cũng đòi hỏi phải
khắc phục, gạt bỏ căn bệnh cục bộ địa phương, cục bộ ngành, coi thường lợi ích
chung, lợi ích chính đáng của xã hội.
1.1.4.3. Nguyên tắc dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là thuộc tính cơ bản của pháp luật Xã hội chủ nghĩa bởi nó là
Trungphương
tâm Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
tiện tổ chức của một nhà nước dân chủ, một xã hội dân chủ, bảo đảm trên
thực tế mọi quyền lực “không chia sẻ thống nhất trong tay nhân dân, những việc hệ
trọng điều do dân quyết định, dân đều được tham gia công việc quản lý xã hội với
các hình thức thích hợp, mọi người đều bình đẳng, đều có điều kiện và cơ hội
ngang nhau trong việc trong việc thực hiện các quyền tự do dân chủ, phát triển toàn
diện nhân cách trí lực và sức lực phù hợp với quyết định của mình. Nói cách khác,
pháp luật dân chủ phải là pháp luật vì con người, phục vụ con người, đảm bảo sự
an toàn cho con người, hướng dẫn tạo điều kiện cho con người làm chủ được bản
thân, Nhà nước và xã hội là pháp luật tồn tại chỉ vì con người”. Đó là định hướng
xuyên suốt quá trình phát triển của pháp luật, là tư tưởng chỉ đạo trong công tác xây
dựng pháp luật mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định “làm cho pháp
luật ngày càng nhiều hơn, tốt hơn”.
1.1.4.4. Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các hoạt động của các cơ quan
Nhà nước phải được tiến hành theo đúng pháp luật trên cơ sở của pháp luật; Mọi
cán bộ và nhân viên Nhà nước đều phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; tăng
cường công tác kiểm tra, giám xác và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
9
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
luật. Tại điều 12 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Pháp chế là nguyên tắc
cơ bản trong tổ chức hoạt động của Nhà nước. Nguyên tắc pháp chế không chỉ có
tính độc lập trong hệ thống các nguyên tắc mà còn chi phối, hỗ trợ, bảo đảm cho các
nguyên tắc khác thực hiện. Chẳng hạn, nguyên tắc dân chủ sẽ chỉ là hình thức, thậm
chí bị lợi dụng, bị chà đạp nếu như những giá trị dân chủ không được thể chế hoá,
không được đảm bảo bởi sự nghiêm minh của pháp luật và bộ máy thi hành pháp
luật.
1.1.4.5. Nguyên tắc khoa học
Nguyên tắc khoa học trong xây dựng pháp luật có thể tiếp cận từ nhiều góc
độ khác nhau:
- Trước hết, nguyên tắc khoa học đòi hỏi phải tổ chức một cách khoa học quá
trình xây dựng pháp luật, tức là thực hiện quản lý khoa học lĩnh vực xây dựng pháp
luật.
- Tổ chức khoa học công tác biên soạn từng văn bản pháp luật cụ thể, nhất là
các văn bản liên tịch do nhiều cơ quan, tổ chức ban hành.
- Tuân thủ triệt để các quy tắc kỹ thuật soạn thảo văn bản, bảo đảm văn bản
có cấu trúc chặt chẽ, phù hợp với nội dung, đúng chức năng sử dụng từng thể loại
Trungvăn
tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
bản, ngôn ngữ, văn phong, cách trình bày các quy định sáng, rõ, mạch lạc, dễ
hiểu, giải quyết được hài hoà mâu thuẫn của pháp luật.
1.1.5. Hoạt động xây dựng hệ thống pháp luật trong công cuộc xây dựng
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Hiện nay, việc xây dựng hệ thống pháp luật nước ta là một đòi hỏi cấp thiết,
một tất yếu khách quan. Tính cấp thiết và tính khách quan bắt nguồn từ đòi hỏi xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì nhân dân, từ
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, từ việc mở cửa hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới. Mà hệ thống pháp luật nước ta hiện nay còn nhiều
bất cập và chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của khu vực và thế giới.
Trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam có rất nhiều văn bản mâu
thuẫn, chồng chéo nhau hoặc lỗi thời cần sửa đổi bổ sung hay thay thế bằng văn bản
mới.Ngoài ra, còn có những nhóm quan hệ xã hội quan trọng chưa được pháp luật
điều chỉnh đầy đủ. Có nghĩa là còn nhiều lỗ trống của pháp luật.
Trong điều kiện đó, việc nghiên cứu, tham khảo pháp luật của các quốc gia
thuộc các hệ thống khác nhau và rất cần thiết. Qua việc nghiên cứu này chúng ta có
thể chọn lọc những ý tưởng kinh nghiệm của họ, từ đó xây dựng cơ sở khoa học cho
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
10
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam sao cho phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của Việt Nam, vừa phù hợp với nền tảng pháp lý chung đã được quốc tế
thừa nhận rộng rãi.
Trước tình hình đó, chúng ta phải đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng
của hoạt động lập pháp là một yêu cầu tất yếu. Ngoài ra chúng ta còn phải đưa các
quy định của luật quốc tế, cụ thể là các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia và các tập quán quốc tế mà Việt Nam thừa nhận vào pháp luật trong
nước. Đây là công việc đặc biệt quan trọng nó góp phần làm hài hòa hệ trong pháp
luật Việt Nam với môi trường pháp luật chung trên thế giới. Mặt khác cần phải khắc
phục tình trạng luật xa rời cuộc sống, không phù hợp với cuộc sống thực tiễn, quy
định cao hơn hoặc thấp hơn điều kiện kinh tế - xã hội hiện thực, không được cuộc
sống chấp nhận. Luật phải quy định rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, trực tiếp điều
chỉnh các quan hệ xã hội hạn chế tối đa các quy định chung chung phải chờ đợi văn
bản dưới luật cụ thể hoá mới điều chỉnh được các quan hệ trên thực tế.
Xây dựng hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Đảng cộng sản Việt
Nam phải phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo to lớn, mang tính quyết định đối với
hoạt động xây dựng pháp luật. Quy trình xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng
mang tính dân chủ rộng rãi hơn, có kế hoạch, được lập luận về mặt khoa học và
Trungnăng
tâmđộng
Họchơn.
liệu
ĐH
Cần
@ Tài
liệu
tậpphạm
và nghiên
Như
vậy,
nhằmThơ
hạn chế
những
vănhọc
bản quy
pháp luậtcứu
chưa
thích ứng với các quy định khách quan của sự phát triển xã hội. Chính điều đó là cơ
sở để việc nâng cao hiệu quả xã hội của pháp luật nước ta, sự tham gia tích cực của
nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Hệ thống pháp luật nước ta hiện nay gồm có các loại văn bản sau:
- Các văn bản luật: là các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội cơ quan
cao nhất của quyền lực ban hành. Gồm Hiến pháp, Luật (Bộ luật), Nghị quyết.
Trong đó, Hiến pháp là van bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, tiếp đến là
Luật (Bộ luật) và Nghị quyết.
- Các văn bản dưới luật: là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan
Nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức được pháp luật quy định.
+ Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giá trị pháp lý
thấp hơn các văn bản luật nhưng có giá trị pháp lý cao hơn các văn bản dưới luật.
+ Lệnh, Quyết định của chủ tịch nước là văn bản dưới luật có giá trị pháp lý
cao sau Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
+ Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ có giá trị pháp lý thấp hơn so với Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh nhưng cao
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
11
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
hơn so với các văn bản quy phạm pháp luật khác do cơ quan nhà nước từ cấp bộ đến
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp ban hành.
+ Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, thủ trưởng và cơ quan thuộc Chính phủ có giá trị pháp lý tiếp theo sau các văn
bản dưới luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
+ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao và Quyết
định, Chỉ thị, Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có giá trị
pháp lý sau các văn bản dưới luật do Chính phủ, Thủ tướng chính phủ ban hành.
+ Thông tư liên tịch giữa các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ
ban hành; Thông tư liên tịch giữa Tòa án Nhân dân Tối cao với Viện Kiểm sát Nhân
dân tối cao; Thông tư liên tịch giữa Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ với Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao; Nghị quyết,
Thông tư liên tịch giữacơ quan Nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương
của tổ chức chính trị - xã hội.
+ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp có giá trị pháp lý ở địa phương.
+ Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp có giá trị pháp lý ở địa
phương.
CƠHọc
SỞ LÝ
LUẬN
NHÀ
NƯỚC
PHÁP
QUYỀN
XÃ và
HỘInghiên
CHỦ NGHĨA
Trung1.2.
tâm
liệu
ĐH VỀ
Cần
Thơ
@ Tài
liệu
học tập
cứu
1.2.1. Khái niệm và cơ sở lý luận về Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng chính trị - pháp lý
phức tạp, thường được hiểu theo nhiều cấp độ. Do vậy khó có thể có một định nghĩa
bao quát hết nội dung của nó.Tuy nhiên, cũng có thể nói đơn giản Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa là: “Nhà nước tuân theo pháp luật và quản lý bằng pháp
luật, xem pháp luật có vị trí chi phối mọi hành vi của cơ quan công quyền và công
dân”.
Thật ra khái niệm trên chỉ có ý nghĩa tương đối, chưa bao quát hết nội dung
quan trọng của Nhà nước pháp quyền là tư tưởng dân chủ, nhân quyền, là khẳng
định: “Cội nguồn quyền lực Nhà nước là của dân”, “Cái gì mà dân không giải
quyết được đối với bản thân thì người làm luật cũng không thể giải quyết được điều
đó đối với nhân dân”. Vì thế, C.Mac khẳng định và coi đó là “mục đích hướng tới
của chúng ta”. C.Mac viết “Ở Can-Tơ, nước cộng hoà với tính cách là Nhà nước
duy nhất hợp lý, trở thành định đề của lý trí thực tế không bao giờ thực hiện được,
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
12
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
nhưng việc thực hiện được định đề đó luôn luôn là mục đích của chúng ta, và là đối
tượng tư duy của chúng ta”.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sớm đặt ra yêu
cầu xây dựng một Nhà nước pháp quyền.Trong bức thư tám điểm gửi hội nghị Vecxay đăng trên báo Nhân đạo (Pháp) năm 1919 Người đã đề cập những quyền rất cơ
bản của con người “Ân xá toàn thể chính trị phạm Việt Nam, bỏ hẳn Toà án đặc
biệt; đòi quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng, hội họp, lập hội, tự do cư xá, xuất
dương, học tập và mở trường kỹ thuật chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các
tỉnh. Là tám yêu sách, nhưng khái quát lại là hai nội dung cơ bản: một là đòi các
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; hai là để đảm bảo quyền tự do dân chủ phải
quản lý bằng các đạo luật, nhất là Hiến pháp”.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng đóng vai trò quyết định phải quyết tâm xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩ của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp
1992 (sửa đổi) là Hiến pháp thể chế hoá đường lối, chính sách của Bác và của Đảng.
Đó là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam. Qua đó việc xây dựng Nhà nước pháp quyền phải xuất phát từ bản chất
Nhà nước và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Có như vậy thì việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền mới thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
Qua quá trình đổi mới toàn diện đất nước mà trọng tâm là đổi mới kinh tế
theo đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam đang diễn ra sôi động, nền kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực
hiện đường lối mở cửa và yêu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội đòi hỏi phải xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một khâu
trọng yếu trong đổi mới hệ thống chính trị, là đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp đổi
mới nước ta hiện nay. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền phải theo những nguyên
tắc sau:
1.2.2.1. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân
dân
Tất cả quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực của Nhà nước vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Đồng thời chính nhân dân thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với Nhà nước trong việc sử dụng quyền lực mà
nhân dân uỷ thác cho. Quyền giám sát đó được thực hiện bằng các cơ chế và công
cụ pháp lý hữu hiệu. Điều này được ghi nhận tại điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi).
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
13
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
“Nhà nước cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đây là
một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của
thể chế Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đó là: Trong chủ nghĩa xã hội quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân. Xét theo quan điểm chủ thể, nguyên tắc này phản ánh sự
thay đổi về chất, nhân dân lao động từ chỗ đứng bên ngoài quyền lực Nhà nước đã
trở thành người nhập cuộc, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình tổ chức và
thực thi quyền lực Nhà nước; từ chỗ phục tùng, khuất phục, lệ thuộc vào quyền lực
nhà nước đã trở thành chủ thể của quyền lực Nhà nước, nhân dân không chỉ tham
gia tổ chức và thực hiện quyền lực mà còn có quyền kiểm tra hoạt động của bộ máy
Nhà nuớc và các nhân viên của bộ máy Nhà nuớc.
1.2.2.2. Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa điều chỉnh các quan hệ
xã hội bằng pháp luật
Nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật chứ không phái chỉ
bằng đạo lý. Pháp luật đóng vai trò như những quy tắc xử sự chung, mang tính bắt
buộc định ra hành lang pháp lý an toàn cho các quan hệ chung của xã hội. Theo
Trungnghĩa
tâmđóHọc
Cần
@ Tài
liệulà học
tập hoá
và các
nghiên
cứu
Nhàliệu
nướcĐH
không
“làmThơ
ra” luật,
mà chỉ
hình thức
quy tắc,
các
hành vi xã hội. Các thiết chế Nhà nước phải là công cụ đắc lực để thực thi pháp luật.
Pháp luật đảm bảo tất cả các quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản và phổ biến điều
được điều chỉnh bằng pháp luật.
Pháp luật phải giữ vị trí điều chỉnh chủ đạo trong toàn xã hội, xử sự các chủ
thể quan hệ xã hội. Hệ thống các quy phạm pháp luật phải tuyệt đối tuân thủ tính
thống nhất của pháp luật, trong đó tính tối cao thuộc về luật mà trước hết là Hiến
pháp. Các luật không được trái với Hiến pháp. Tương tự như vậy, các văn bản dưới
luật phải phù hợp với luật, các văn bản của ngành, địa phương phải phù hợp với văn
bản cấp cao hơn.
1.2.2.3. Mọi công dân, tổ chức trong Nhà nước pháp quyền đều bình
đẳng trước pháp luật
Mọi công dân điều bình đẳng trước pháp luật, công dân có trách nhiệm đối
với nhà nước và Nhà nước cũng có trách nhiệm với nhân dân. Quan hệ giữa công
dân và Nhà nước là quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Tức giữa một bên là
người đại diện quyền lực Nhà nước và một bên vừa là chủ thể vừa là khách thể của
quyền lực Nhà nước. Ở đây Nhà nước xác định trách nhiệm pháp lý rõ ràng về các
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
14
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
hành vi của họ. Công dân được bảo đảm quyền và khả năng buộc cơ quan Nhà nước
và những người có chức vụ phải chấp hành pháp luật, thực thi trách nhiệm của mình
đối với họ.
Nhà nước đề ra pháp luật, nhưng chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước,
các công chức Nhà nước, cũng như mọi tổ chức cá nhân điều có nghĩa vụ tuân thủ
triệt để pháp luật; không một tổ chức hoặc cá nhân nào đứng ngoài, đứng trên pháp
luật, mọi người điều bình đẳng trước pháp luật. Với nguyên tắc này xã hội ta sẽ dần
dần tiến tới thực hiện phương châm công dân “có thể làm những gì luật không
cấm”, tất nhiên trong khuôn khổ đạo đức xã hội và tôn trọng lợi ích xã hội, của
người khác. Điều này một mặt chống lại những hành vi lộng quyền, lạm quyền mặt
khác chống lại những hành vi tự do vô tổ chức vô Chính phủ.
Tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do cơ bản,các lợi ích chính đáng, danh
dự và nhân phẩm của con người. Chúng phải được ghi nhận trong Hiến pháp và
pháp luật, được pháp luật bảo vệ trong trường hợp bị xâm phạm, thông qua các
công cụ pháp lý hữu hiệu của Nhà nước.
1.2.2.4. Công khai hoá hoạt động của các cơ quan Nhà nước và những
người có chức vụ
Thực hiện rộng rãi quyền thông tin và tiếp thu thông tin. Quán triệt và thực
Trunghiện
tâmtriệt
Học
liệunguyên
ĐH Cần
Thơ
@là Tài
liệu
học
nghiên
cứu
để các
tắc trên
chính
sự vận
dụng
tư tập
tưởngvà
Nhà
nước pháp
trị
của Hồ Chí Minh. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta, chỉ có thể trở
thành hiện thực nếu thực sự đổi mới từ tổ chức cho đến tổ chức bộ máy Nhà nước
và cán bộ. Nếu không, vấn đề Nhà nước pháp quyền chỉ là một mong muốn tốt đẹp
mà thôi.
1.2.3. Đặc điểm Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện nay
1.2.3.1. Đảm bảo vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa hiện nay đòi
hỏi cần phải nâng cao vai trò lãnh của Đảng, đồng thời phải đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, làm cho chính quyền thực sự
của dân, do dân và vì dân, quản lý mọi quá trình kinh tế - xã hội.
Muốn đảm bảo vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng thì nhân tố quyết định
hàng đầu là phải thường xuyên chăm lo xây dựng nội bộ Đảng về tư tưởng và tổ
chức, ra sức xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu nhằm đáp ứng vai trò lãnh đạo của mình trong công cuộc đổi mới.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
15
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật – điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
1.2.3.2. Nhà nước của dân do dân
Trong Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là quyền lực của dân để thực hiện ý chí
tự do của nhân dân, cán bộ của Đảng và Nhà nước là nô bộc của nhân dân. Sự
nghiệp chính trị của chúng ta chính là tạo ra một Nhà nước của dân. Trên cơ sở đó
mà vì dân tức phục vụ dân.
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Vì thế
quyền lực của nhà nước là thống nhất, không có tam quyền phân lập nhưng có sự
phân công và phối phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong quá trình thực hiện
quyền lực Nhà nước. nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế,
xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các
quyền tự do dân chủ. Đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của
nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan Nhà nước, cán bộ
công chức Nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật,
thiếu kỷ cương.
1.2.3.3. Nhà nước hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật
Hiến pháp và pháp luật đòi hỏi mọi công dân, đồng thời đòi hỏi Nhà nước và
tất cả các cơ quan Nhà nước, phải tuân theo pháp luật. muốn thực hiện việc quản lý
Nhà nước, trong những trường hợp bản thân những cơ quan đó vi phạm pháp luật.
TrungVìtâm
liệu ĐH
Thơlà@
vậy Học
trách nhiệm
của Cần
Nhà nước
mộtTài
vấnliệu
đề cóhọc
liên tập
quanvà
đếnnghiên
xây dựngcứu
Nhà
nước pháp quyền.
Quan niệm Nhà nước thực chất là việc nhận thức đúng mối quan hệ giữa
Nhà nước và pháp luật. hoặc là Nhà nước đứng trên pháp luật, hoặc là Nhà nước
hoạt động tuyệt đối tuân theo pháp luật. Vấn đề quan trọng của Nhà nước pháp
quyền là địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật là việc bảo vệ chặt chẽ và triệt để
các quyền của công dân, bất cứ một quyết định nào của cơ quan Nhà nước điều có
thể bị đưa ra xét xử, nếu nó vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Vì vậy, Nhà nước không những là “người” thể chế quá ý chí của nhân dân
thành Hiến pháp và pháp luật mà còn phải tuyệt đối tuân thủ nó, đồng thời phải chịu
sự giám sát của Hiến pháp và pháp luật trong mọi công việc hoạt động hàng ngày.
1.2.3.4. Nhà nước thống nhất tổ chức quyền lực Nhà nước và phân công
hợp lý
Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng sự phân công và phân phối là
phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên sự
thống nhất ở đây là sự thống nhất trong phân công chức năng, không dồn cả ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tập trung vào chỉ một nơi, tự nó ra luật và
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền
16
SVTH: Huỳnh Thanh Tốt
- Xem thêm -