Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Hoàn thiện công tác thu bảo hiểm xã hội của bảo hiểm xã hội huyện bình giang...

Tài liệu Hoàn thiện công tác thu bảo hiểm xã hội của bảo hiểm xã hội huyện bình giang

.PDF
127
101
80

Mô tả:

MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục chữ viết tắt vi Danh mục bảng vii Danh mục sơ đồ viii Danh mục biểu đồ viii I MỞ ĐẦU 1 1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3 1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 3 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 3 II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4 2.1 Cơ sở lý luận 4 2.1.1 Khái niệm, vai trò, yêu cầu về BHXH và thu BHXH 4 2.1.2 Nội dung nghiên cứu công tác thu BHXH 15 2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác thu BHXH 26 2.2 Cơ sở thực tiễn về công tác thu BHXH 29 2.2.1 Kinh nghiệm về công tác thu BHXH 29 2.2.2 Một số bài học kinh nghiệm rút ra về công tác thu BHXH 33 III ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 35 3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 35 3.1.1 Điều kiện tự nhiên của huyện Bình Giang 35 3.1.2 Điều kiện Kinh tế - Xã hội của huyện Bình Giang 36 iii 3.1.3 Khái quát chung về cơ quan BHXH huyện Bình Giang 39 3.2 Phương pháp nghiên cứu 50 3.2.1 Phương pháp thu thập tài liệu 50 3.2.2 Phương pháp xử lý, phân tích thông tin 51 3.2.3 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 52 IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 53 4.1 Thực trạng công tác thu BHXH trên địa bàn huyện Bình Giang 53 4.1.1 Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện Bình Giang 53 4.1.2 Tình hình thực hiện mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH 59 4.1.3 Tình hình thực hiện công tác thu BHXH của cơ quan BHXH huyện Bình Giang 64 4.1.4 Tình hình nợ đọng thu BHXH trên địa bàn huyện Bình Giang 68 4.1.5 Kết quả khảo sát tình hình thực hiện công tác thu BHXH bắt buộc 72 4.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện Bình Giang 82 4.2.1 Chính sách tiền lương, chính sách lao động 82 4.2.2 Tốc độ tăng trưởng kinh tế 83 4.2.3 Nhận thức, ý thức, tâm lý, thói quen của người lao động và người sử dụng lao động, Công tác tuyên truyền phối hợp giữa các ngành 84 4.2.4 Các nhân tố khác 85 4.3 Đánh giá chung công tác thu BHXH giai đoạn vừa qua 87 4.3.1 Những mặt đạt được 87 4.3.2 Những mặt còn hạn chế 88 4.3.3 Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT) 91 4.4 Một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện Bình Giang 91 4.4.1 Mục tiêu trong thời gian tới 92 4.4.2 Giải pháp 95 V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 107 5.1 Kết luận 107 iv 5.2 Kiến nghị 109 5.2.1 Đối với các cơ quan quản lý nhà nước 109 5.2.2 Đối với BHXH Hải Dương 110 5.2.3 Đối với BHXH huyện Bình Giang 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 PHỤ LỤC 115 v DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt STT Nguyên nghĩa 1 BHTN Bảo hiểm thất nghiệp 2 BHXH Bảo hiểm xã hội 3 BHYT Bảo hiểm y tế 4 DN Doanh nghiệp 5 DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 6 ĐTNN Đầu tư nước ngoài 7 GDP Tổng sản phẩm quốc nội 8 HCSN Hành chính, sự nghiệp 9 HĐLĐ Hợp đồng lao động 10 KH Kế hoạch 11 KHTC Kế hoạch tài chính 12 PL Pháp luật 13 TNLĐ-BNN Tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp 14 UBND Uỷ ban nhân dân 15 HTX Hợp tác xã 16 CBCCVC Cán bộ công chức viên chức vi DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang 3.1 Tình hình dân số và lao động huyện Bình Giang giai đoạn 2012 - 2014 3.2 Số lượng CBCCVC làm công tác BHXH huyện Bình Giang từ năm 2012 – 2014 3.3 38 45 Số lượng CBCCVC công tác tại BHXH huyện Bình Giang từ năm 2012-2014 47 3.4 Trình độ CBCCVC của BHXH huyện Bình Giang từ năm 2012– 2014 49 3.5 Số lượng mẫu điều tra 51 4.1 Bảng tổng hợp các đơn vị tham gia BHXH ở huyện Bình Giang giai đoạn 2012 – 2014 4.2 55 Bảng tổng hợp tình hình lao động tham gia BHXH ở huyện giai đoạn 2012 – 2014 57 4.3 Kết quả kiểm tra việc chấp hành pháp luật BHXH ở một số doanh nghiệp 58 4.4 Tổng hợp mức tiền lương đóng BHXH từ năm 2012 - 2014 60 4.5 Kết quả thu BHXH so với kế hoạch, từ năm 2012-2014 64 4.6 Tình hình nợ đọng BHXH từ năm 2012 - 2014 68 4.7 Tình hình nợ đọng BHXH theo khối hình quản lý năm 2012-2014 69 4.8 Danh sách các Doanh nghiệp nợ BHXH năm 2014 70 4.9 Đánh giá của cán bộ BHXH về công tác thu BHXH bắt buộc 75 4.10 Tình hình thực hiện chính sách BHXH của doanh nghiệp 77 4.11 Những khó khăn chủ yếu khi tham gia BHXH của doanh nghiệp 78 4.12 Ý kiến đánh gia của người lao động đối với công tác thu BHXH 81 4.13 Mức lương thấp nhất làm căn cứ đóng BHXH của DN từ năm 2012-2014 82 4.14 Bảng tổng hợp thu nhập bình quân của người lao động trong doanh nghiệp được kiểm tra 4.15 83 Tổng hợp tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH của người lao động và người sử dụng lao động 4.16 86 Ma trận phân tích SWOT Công tác thu BHXH khối DNNQD vii 91 DANH MỤC SƠ ĐỒ Tên sơ đồ STT Trang 2.1 Cơ chế hoạt động của BHXH 14 2.2 Quy trình công tác thu BHXH 23 2.3 Sơ đồ mô hình tổng quan về phân cấp thu BHXH 25 3.1 Cơ cấu bộ máy tổ chức của BHXH huyện Bình Giang 43 4.1 Quy trình thực hiện các hoạt động thu BHXH của cơ quan BHXH huyện Bình Giang 73 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Tên biều đồ STT Trang 4.1 Tình hình tham gia BHXH khối DNNQD ở huyện 54 4.2 Tình hình tham gia BHXH của lao động khối DNNQD 56 4.3 Tỷ lệ mức lương bình quân đóng BHXH so với thu nhập thực tế 61 4.4 Kết quả thu BHXH thực hiện từ 2012- 2014 66 4.5 Tình hình nợ đọng giai đoạn 2012-2014 BHXH huyện Bình Giang 73 4.6 Đánh giá của cán bộ BHXH về chất lượng thực hiện thu BHXH của các đơn vị tham gia BHXH 75 4.7 Khảo sát tình hình tham gia BHXH của người lao động 80 4.8 Khảo sát mức độ hiểu biết của người lao động về BHXH 85 viii I. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình tồn tại và phát triển của con người do rất nhiều nhân tố quyết định, trong đó không thể không nói đến hệ thống an sinh xã hội với nòng cốt là chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH). BHXH là một chính sách xã hội được nhiều quốc gia coi trọng, nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động, giúp họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may gặp phải những rủi ro, biến cố, bị ốm đau, tai nạn, thai sản hay vĩnh viễn mất khả năng lao động. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác BHXH và xác định đây là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất nhằm đảm bảo thu nhập, đời sống cho hàng triệu người lao động cùng các đối tượng hưởng các chế độ BHXH, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nền kinh tế nước ta đang chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế đan xen lẫn nhau, các quan hệ lao động cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Do vậy, chính sách BHXH không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để chính sách BHXH đi vào đời sống xã hội, ổn định và phát triển, đòi hỏi phải có một nguồn tài chính đủ lớn và được quản lý có hiệuquả để đảm bảo cân đối thu - chi, bảo toàn và tăng trưởng. Thực hiện tốt chính sách BHXH, chăm sóc tốt cho người dân sẽ góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị, từ đó đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhận thức rõ vai trò của BHXH nên Nhà nước đã nhanh chóng ban hành các văn bản, năm 1995 hệ thống ngành BHXH đã chính thức ra đời. Sau đó đến năm 2007 Nhà nước ban hành luật BHXH để thống nhất việc thực hiện BHXH trong cả nước.Từ đó tạo cơ sở hành lang pháp lý bảo vệ quyền lợi, góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Qua gần 20 năm hoạt động, hệ thống BHXH từng bước được củng cố, hoàn thiện và không ngừng phát triển, công tác thu, chi, quản lý quỹ và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng theo luật định đi vào nề nếp, tạo điều kiện thuận lợi cho 1 những người tham gia và hưởng chế độ BHXH. Đối tượng tham gia BHXH ngày càng mở rộng, số thu năm sau đạt kết quả cao hơn năm trước. Bên cạnh công tác thu BHXH thì việc chi trả cho đối tượng hưởng chế độ ngày càng nhiều. Do đó BHXH cần có một lượng tiền lớn để đảm bảo cho công tác chi trả các chế độ BHXH. Để đạt được mục tiêu đó thì việc tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH là một nhiệm vụ rất quan trọng, có thể coi quỹ BHXH là xương sống của hệ thống BHXH. Vậy muốn tồn tại và phát triển không thể không nói đến công tác thu BHXH, bởi nó giữ vị trí quyết định trong vấn đề bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. BHXH không đơn thuần chỉ là tiền mà người lao động và chủ doanh nghiệp đóng vào để giải quyết các chế độ chính sách. Thông qua những chế độ, chính sách mà người lao động được hưởng sẽ làm cho người lao động an tâm làm việc, chủ doanh nghiệp có nguồn nhân lực ổn định, có khả năng hoạch định chính sách, chiến lược kinh doanh và phát triển, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Ở Việt Nam hiện nay, còn rất nhiều người lao động làm việc nhưng lại không được tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT), Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), nhiều doanh nghiệp cố tình né tránh không tham gia BHXH cho lao động của mình, dẫn đến thiệt thòi quyền lợi của người lao động, khiến họ không an tâm làm việc và ổn định công tác. Tăng thu BHXH chính là tăng số lượng doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH, tăng số lao động tham gia BHXH để góp phần giúp ngày càng nhiều lao động được hưởng các chế độ BHXH, đảm bảo pháp luật về lao động được thực thi, giảm bớt gánh nặng cho xã hội trong tương lai. Bình Giang là một tỉnh đang có sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, đã và đang thu hút rất nhiều dòng vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Hiện nay khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) ngày càng lớn mạnh, tỷ lệ thu BHXH, BHYT ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu quỹ BHXH. Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên sự biến động liên tục về số lượng, cơ cấu, tính chất lao động ở khu vực kinh tế này cũng tạo ra không ít khó khăn cho cơ quan BHXH trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH. Từ đó quyền lợi của người lao động không được bảo đảm và làm giảm nguồn thu cho quỹ BHXH. Điều đó cũng đặt ra những thách thức lớn đối với 2 ngành BHXH, mà cụ thể là vấn đề thu BHXH như thế nào để vừa tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển, vừa bảo vệ được quyền lợi người lao động phải làm việc trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Vì vậy thực hiện tốt việc thu BHXH có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn xét cả trên bình diện quốc gia cũng như tại huyện Bình Giang nói riêng. Chính vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện công tác thu bảo hiểm xã hội của Bảo hiểm xã hội huyện Bình Giang". 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác thu BHXH trên địa bàn huyện Bình Giang, từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH trên địa bàn huyện Bình Giang. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác thu BHXH. - Đánh giá thực trạng công tác thu BHXH của BHXH huyện Bình Giang. - Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc của BHXH huyện Bình Giang. 1.3.2.Phạm vi nghiên cứu 1.3.2.1 Phạm vi nội dung Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu BHXH của BHXH huyện Bình Giang. Từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH của BHXH huyện Bình Giang. 1.3.2.2 Phạm vi không gian Đề tài được triển khai nghiên cứu tại địa bàn huyện Bình Giang. 1.3.2.3 Phạm vi thời gian Nghiên cứu lấy số liệu trong 3 năm từ năm 2012-2014 3 II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Khái niệm, vai trò, yêu cầu về BHXH và thu BHXH 2.1.1.1. Một số khái niệm Khái niệm Bảo hiểm xã hội Theo từ điển Bách khoa Việt Nam [13]: “Bảo hiểm xã hội là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, của người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ giúp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc chết”. Theo điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động, chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.[3, tr36] Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải tham gia. Dù cách diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung hai khái niệm này đều thể hiện rõ bản chất và đặc trưng cần có của BHXH. Cụ thể, đã nêu lên được một số điểm chủ yếu sau: - BHXH là những quy định của nhà nước để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. - Người lao động được trợ giúp vật chất trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết. - Người lao động phải có trách nhiệm đóng góp để bảo đảm quyền lợi cho chính họ. Như vậy, có thể hiểu BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao 4 động, chết và thất nghiệp; do Nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính được các bên tham gia đóng góp và có sự ủng hộ của Nhà nước, nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ đồng thời góp phần bảo vệ an toàn xã hội. Khái niệm công tác thu Bảo hiểm xã hội Khi tham gia BHXH, tất cả các đối tượng đều phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về mức đóng, thời gian đóng và điều kiện được hưởng các chế độ BHXH. Thu BHXH luôn gắn với quyền lực của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Vì vậy ta có thể hiểu: Theo Giáo trình BHXH- NXBLĐ-XH[14]: Thu BHXH là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép một số đối tượng được tự nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho các hoạt động BHXH. Thu BHXH thực chất là quá trình phân phối lại một phần thu nhập của các đối tượng tham gia BHXH, phân phối và phân phối lại một phần của cải của xã hội dưới dạng giá trị, nhằm giải quyết hài hòa các mặt lợi ích kinh tế, góp phần đảm bảo sự công bằng xã hội. Như vậy công tác thu BHXH là toàn bộ quá trình thực hiện để mang số tiền của người lao động, đơn vị sử dụng lao động về quỹ BHXH. * Nguyên tắc thu bảo hiểm xã hội - Thu đúng: Là đúng đối tượng, đúng mức, đúng tiền lương, tiền công và đúng thời gian quy định: Mọi người lao động khi có HĐLĐ hoặc giao kết lao động theo quy định, được trả công bằng tiền đều là đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Việc xác định đúng đối tượng, đúng tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của người lao động là cơ sở quan trọng để đảm bảo thu đúng; Việc thu đúng còn phụ thuộc vào tính chất hoạt động của đơn vị sử dụng lao động để xác định đúng đối tượng, mức thu, phương thức thu. - Thu đủ: Là thu đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và số tiền phải đóng BHXH của người lao động, người sử dụng lao động. 5 - Thu kịp thời: Là thu kịp về thời gian khi có phát sinh quan hệ lao động, tiền công, tiền lương mà những quan hệ đó thuộc đối tượng, phạm vi tham gia BHXH. Chế độ BHXH thường xuyên thay đổi để phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, ở mỗi thời điểm thay đổi đó cần phải tổ chức thực hiện thu BHXH của người sử dụng lao động và người lao động đảm bảo kịp thời, không để tồn đọng tiền thu, không bỏ sót lao động tham gia BHXH - Cơ chế thu BHXH được quy định thống nhất, nguồn thu BHXH tập trung quản lý, điều tiết ở Trung ương là BHXH Việt Nam. - Việc tham gia BHXH của người lao động, người sử dụng lao động đảm bảo công khai, thực hiện công bằng ở các thành phần kinh tế. Các đơn vị tham gia BHXH đều phải công khai minh bạch số lao động phải đóng BHXH và số tiền đóng theo đúng quy định, có sự kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của các cơ quan chức năng và các tổ chức chính trị-xã hội. Tính công bằng được thể hiện trong việc thu nộp BHXH, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tức là đều có tỷ lệ phần trăm thu BHXH như nhau. Thực hiện quản lý chặt chẽ tiền thu BHXH theo chế độ quản lý tài chính của Nhà nước và sử dụng nguồn thu đúng mục đích. Nguồn thu BHXH do được tồn tích cộng đồng, nên thường có khối lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn chưa sử dụng cần được đầu tư tăng trưởng, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng, vừa an toàn tiền thu BHXH về mặt giá trị do các yếu tố trượt giá. Vì vậy, thông qua cơ chế quản lý nghiêm ngặt về thu BHXH để tránh lạm dụng, thất thoát; Đồng thời nghiên cứu các lĩnh vực đầu tư để đảm bảo thu hồi được vốn và có lãi, tức là hiệu quả sử dụng nguồn thu. Khái niệm quỹ BHXH Trong đời sống KT-XH, người ta thường nói đến rất nhiều các loại quỹ khác nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ phúc lợi... Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước với những quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra. 6 Tất cả các loại quỹ đều không tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời điểm mà luôn luôn biến động theo hướng tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Có thể hình dung quỹ như một bể chứa nước, trong đó đầu vào có nước luôn chảy để nước trong bể ngày càng nhiều lên, còn đầu ra là quá trình sử dụng nước làm cho nước trong bể vơi dần đi. Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dự trữ. Đầu vào phải nhiều hơn đầu ra thì trong bể mới luôn luôn có nước. Bởi vậy, để quản lý và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ quản lý được khối lượng tĩnh của nó tại một thời điểm, mà quan trọng hơn là phải quản lý được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Tương tự như vậy, quỹ BHXH cũng được hình thành từ các nguồn thu khác nhau và được sử dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản lý khác theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải được tính toán sao cho nguồn thu phải đủ lớn và phải chảy vào bể liên tục để đảm bảo các chi phí - đầu ra của BHXH không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai. Khi mức chi ra ngày càng lớn, những người hoạch định phát triển BHXH phải tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Khái niêm Quỹ BHXH được khái quát như sau: Theo Giáo trình BHXH-NXB Lao động-Xã hội[14]:Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác; sử dụng để bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, hoặc chết; nhằm ổn định đời sống cho họ và gia đình họ và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Nguồn hình thành quỹ Quỹ BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được hưởng 7 BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc giàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách nhà nướcvà ngân sách gia đình. Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trước hết đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và nhà nước, đây là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ. Thứ hai là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời. Thứ ba là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia có khác nhau. Mục đích sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau: Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất của BHXH nhằm đảm bảo ổn định, duy trì cuộc sống cho NLĐ đồng thời góp phần ổn định sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ khi mà đối tượng tham gia gặp rủi ro và các chế độ được BHXH trợ cấp. Trong thực tế việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra thường xuyên trên phạm vi rộng, hầu hết các nước trên thế giới đều có những khoản chi thường xuyên là chi lương hưu và trợ cấp tuất. 8 Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH: Ngoài việc trợ cấp cho các đối tượng hưởng BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi cho các khoản chi phí quản lý như: tiền lương cho cán bộ làm việc trong hệ thống BHXH, khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác. Đặc điểm của quỹ BHXH Quỹ bảo hiểm xã hội mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản nhất của một quỹ, ngoài ra do đặc thù của BHXH mà quỹ BHXH có những đặc trưng riêng có sau: Quỹ BHXH là quỹ an toàn về tài chính. Nghĩa là, phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và nguồn ra của quỹ BHXH. Chức năng của bảo hiểm xã hội là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động và để thực hiện chức năng này, đến lượt nó, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Để tạo sự an toàn này, về nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ. Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả ngay ( nếu vậy đã không tồn tại cái gọi là quỹ BHXH ) mà phải sau một khoảng thời gian nhất định, đôi khi tương đối dài ( như đối với chế độ hưu trí ) số tiền ấy mới được chi ra, cùng thời gian ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt ra yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo toàn về mặt giá trị. Điều đó lý giải tại sao trong điều 40 Điều lệ BHXH nước ta quy định “ Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của chính phủ ”. Tính tích luỹ. Quỹ BHXH là “ của để dành ” của người lao động phòng khi ốm đau, tuổi già... và đó là công sức đóng góp của cả quá trình lao động của người lao động. Trong quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi ở một thời điểm hiện tại để chi trả trong tương lai, khi người lao động có đủ các điều kiện cần thiết để được hưởng trợ cấp ( chẳng hạn như về thời gian và mức độ đóng góp BHXH ). Số lượng tiền trong quỹ có thể được tăng lên bởi sự đóng góp đều đặn của các bên tham gia và bởi thực hiện các biện pháp tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. 9 Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH là để chi trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro dẫn đến mất hay giảm thu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng góp đồng thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp. Tuy nhiên, thời gian, chế độ và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau, điều đó phụ thuộc vào những rủi ro mà họ gặp phải cũng như mức độ đóng góp và thời gian tham gia BHXH. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, mặc dù nguyên tắc của BHXH là có đóng- có hưởng, đóng ít- hưởng ít, đóng nhiều- hưởng nhiều nhưng như vậy không có nghĩa là những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn đưọc hưởng một khoản trợ cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham gia BHXH nhưng có người được hưởng nhiều lần, có người được hưởng ít lần ( với chế độ ốm đau), thậm trí không được hưởng (chế độ thai sản). 2.1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm xã hội và thu Bảo hiểm xã hội Vai trò của Bảo hiểm xã hội Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vị trí, vai trò của BHXH trong hệ thống an sinh xã hội ngày càng to lớn, có thể khái quát vai trò của BHXH trên các mặt sau: Một là, an toàn cho người lao động: BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia BHXH. Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết... một cách kịp thời, từ đó khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khoẻ, ổn định cuộc sống để tiếp tục hoạt động lao động bình thường. Hai là, an toàn cho nền kinh tế và các doanh nghiệp: BHXH góp phần đảm bảo ổn định, an toàn cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất. 10 Ba là, tăng cường quan hệ ba bên: Người lao động, doanh nghiệp, nhà nước: BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động, Người sử dụng lao động, Nhà nước đều tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, điều đó làm cho Người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, trong lao động sản xuất. Bốn là, nâng cao tính nhân văn của xã hội: BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khoẻ mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người “yếu thế hơn” hay gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Năm là, BHXH trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu, xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với vai trò và chức năng “trụ cột” của BHXH trong hệ thống chính sách xã hội như vậy, cho nên tại Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Đại hội XI chỉ rõ: "Bảo đảm an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương". Vai trò của công tác thu BHXH Quỹ BHXH hiện đang được thực hiện nhằm đạt mục tiêu là một công quỹ độc lập với ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động. Vì thế công tác thu BHXH ngày càng trở thành khâu quan trọng và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện chính sách BHXH. Công tác thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất : Thu đúng góp BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH từ trung ương đến địa phương cùng với sự phối hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở nguồn tài chính tập trung từ việc đóng góp của các bên tham gia BHXH. Đồng thời tránh 11 được tình trạng nợ đọng BHXH từ các cơ quan đơn vị, từ người tham gia BHXH. Qua đó, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH nói chung và giữa những người tham gia BHXH nói riêng. Để chính sách BHXH được diễn ra thuận lợi thì công tác thu BHXH có vai trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực hiện chính sách BHXH. Bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập quỹ BHXH. Đồng thời đây cũng là một khâu bắt buộc đối với người tham gia BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy, công tác thu BHXH là một công việc đòi hỏi độ chính xác cao, thực hiện thường xuyên, liên tục, kéo dài trong nhiều năm và có sự biến động về mức đóng và số lượng người tham gia. Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối, vừa đóng vao trò như một công cụ thanh tra kiểm tra số lượng người tham gia BHXH biến đổi ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. Bởi công tác thu BHXH cũng đòi hỏi phải được tổ chức tập trung thống nhất có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính, đảm bảo độ chính xác trong ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan đơn vị cũng như của từng người lao động. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt động liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cả một đời người và có tính kế thừa, số thu BHXh một phần dựa trên số lượng người tham gia BHXH để tạo lập quỹ BHXH, cho nên nghiệp vụ của công tác thu BHXH có một vai trò hết sức quan trọng và rất cần thiết trong thực hiện chính sách BHXH. Bởi đây là khâu đầu tiên giúp cho chính sách BHXH thực hiện được chức năng cũng như bản chất của mình. Hoạt động của công tác thu BHXH ở hiện tạo ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. Do BHXH cũng như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng BHXH đã đặt ra yêu cầu quy định đối với công tác thu nộp BHXH. Nếu không thu được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả cho các chế độ BHXH cho người lao động. Vậy hoạt động thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi trả và quá trình thực hiện chính sách BHXH. Do đó, thực hiện công tác thu BHXH 12 đóng vai trò quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cho cuộc sống của người lao động cũng như các đơn vị doanh nghiệp được hoạt động bình thường. 2.1.1.3. Đặc điểm của BHXH và thu BHXH Đặc điểm của bảo hiểm xã hội: Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách (cơ quan BHXH), thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động BHXH. Chủ sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là mối quan hệ của bên tham gia BHXH. Từ mối quan hệ về BHXH, nếu xem xét một cách toàn diện thì BHXH hàm chứa và phản ánh những đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, mục đích hoạt động của BHXH không vì lợi nhuận mà vì quyền lợi của người lao động, của cả cộng đồng; là hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Thứ hai, BHXH là một loại hàng hoá tư nhân mang tính bắt buộc do Nhà nước quản lý và cung cấp dịch vụ, nên việc tham gia BHXH về nguyên tắc là bắt buộc đối với mọi người lao động (một số nước trên thế giới do khu vực tư nhân quản lý và cung cấp dịch vụ). Thứ ba, cơ chế hoạt động của BHXH là theo cơ chế 3 bên: Cơ quan BHXH Chủ sử dụng lao động và Người lao động, cộng thêm cơ chế quản lý Nhà nước, BHXH bắt buộc là do Nhà nước đứng ra làm, do vậy thực sự chưa có thị trường BHXH ở Việt nam, xét thực chất thị trường BHXH ở Việt Nam thể hiện độc quyền: Cung BHXH do Nhà nước độc quyền cung, cầu thì bắt buộc và mức hưởng BHXH còn thấp nên dẫn đến chất lượng dịch vụ kém. 13 Cơ quan Bảo hiểm xã hội Chủ sử dụng lao động Người lao động Nguồn: BHXH Việt Nam Sơ đồ 2.1. Cơ chế hoạt động của BHXH Thứ tư, thực hiện thống nhất việc quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; thực hiện nhiệm vụ thu, quản lý và chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội chặt chẽ, đúng đối tượng và đúng thời hạn. Nguồn đóng góp của các bên tham gia được đưa vào quỹ riêng, độc lập với ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung, thống nhất và sử dụng theo nguyên tắc hạch toán cân đối thu - chi theo quy định của pháp luật, bảo toàn và phát triển. Thứ năm, người lao động được hưởng trợ cấp BHXH trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng bảo hiểm xã hội, có chia sẻ rủi ro và thừa kế. Thông thường, mức đóng góp và mức hưởng trợ cấp đều có mối liên hệ đến thu nhập (tiền lương, tiền công) của người lao động. Điều này thể hiện tính công bằng xã hội gắn liền giữa quyền và nghĩa vụ của người lao động. Tóm lại, BHXH là những chính sách, chế độ do nhà nước quy định để đảm bảo quyền lợi vật chất cho người tham gia BHXH dựa trên quan hệ cung – cầu trên thị trường. BHXH là một hàng hoá tư nhân mang tính bắt buộc do Nhà nước quản lý và cung cấp; hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít, chia sẻ rủi ro, quỹ BHXH độc lập với Ngân sách nhà nước, quản lý tập trung thống nhất. Đặc điểm của công tác thu BHXH Là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động của hệ thống BHXH ở Việt nam, công tác thu có một số đặc điểm cụ thể sau: - Công tác thu là khâu đầu tiên trong hoạt động BHXH, có tính chu kỳ, lặp đi lặp lại. Các cán bộ, công chức viên chức làm công tác thu phải theo dõi kết quả thu nộp BHXH của từng cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động theo từng 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan