Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Hình thức của di chúc theo quy định của bộ luật dân sự việt nam năm 2005...

Tài liệu Hình thức của di chúc theo quy định của bộ luật dân sự việt nam năm 2005

.PDF
94
9
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ DANH HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội năm 2009 1 MỤC LỤC TÊN MỤC STT Trang Lời cam đoan Danh mục các thuật ngữ viết tắt Mở đầu 1 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 1.1 Những vấn đề pháp lý cơ bản về thừa kế theo di chúc 6 1.1.1 Một số vấn đề cơ bản về di chúc 6 1.1.2 Thừa kế theo di chúc 12 1.2 Những vấn đề lý luận chung về hình thức di chúc 15 1.2.1 Khái niệm hình thức của di chúc 15 1.2.2 Vai trò của hình thức di chúc đối với việc thực hiện pháp luật 16 về thừa kế 1.2.3 Yêu cầu và các nhân tố tác động đến quy định pháp luật về 18 hình thức của di chúc 1.3 Hình thức của di chúc theo quy định của pháp luật một số 23 nƣớc trên thế giới 1.3.1 Quy định về hình thức của di chúc theo Bộ luật dân sự của 23 nước Cộng hòa Pháp 1.3.2 Quy định về hình thức di chúc theo Bộ luật dân sự Nhật Bản 25 1.3.3 Quy định của Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan về hình 26 thức của di chúc 1.2.4 Quy định về hình thức di chúc theo pháp luật Hoa Kỳ Kết luận Chƣơng 1 27 32 4 CHƢƠNG 2 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC DI CHÚC Ở VIỆT NAM 2.1 Hình thức của di chúc theo quy định của Bộ Luật Hồng 33 Đức 2.2 Hình thức của di chúc theo quy định của pháp luật thời 35 Pháp thuộc 2.3 Hình thức của di chúc theo pháp luật Việt Nam trƣớc 36 năm 2005 2.3.1 Hình thức của di chúc theo quy định của Pháp lệnh Thừa kế 36 năm 1990 2.3.2 Hình thức của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự 1995 2.4 Hình thức của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự 38 41 2005 2.4.1 So sánh các quy định pháp luật về hình thức di chúc theo Bộ 41 luật dân sự 1995 và những sửa đổi, bổ sung năm 2005 2.4.2 Những bất cập, hạn chế trong việc áp dụng các quy định pháp 44 luật về hình thức của di chúc Kết luận Chƣơng 2 59 5 CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HÌNH THỨC DI CHÚC TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC DI CHÚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1 Thực trạng giải quyết tranh chấp về hình thức di chúc tại 61 tòa án nhân dân 3.1.1 Khái quát tình hình giải quyết tranh chấp về thừa kế tại toà án 61 3.1.2 Những hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp về hình thức 63 di chúc 3.1.3 Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại trong quá trình 72 giải quyết tranh chấp về hình thức di chúc 3.2 Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc 73 trong giai đoạn hiện nay 3.2.1 Quan điểm về hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc 73 trong giai đoạn hiện nay 3.2.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc trong giai đoạn hiện nay Kết luận chung Danh mục tài liệu tham khảo 6 78 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thừa kế tài sản là một quan hệ pháp luật dân sự vừa mang tính đạo lý truyền thống vừa mang tính lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, không phải lúc nào tài sản thừa kế cũng thuần tuý mang tính lợi ích kinh tế, nó còn ẩn chứa trong đó những giá trị tinh thần mà sự cao thấp còn do quan niệm và tình cảm của mỗi người thừa kế đối với người để lại di sản. Chính vì vậy, việc thừa kế tài sản trong thực tiễn diễn biến rất phức tạp. Pháp luật dân sự quy định việc thừa kế tào sản có thể thực hiện theo luật hoặc theo di chúc. Di chúc là sự bày tỏ ý chí của người để lại di sản nhằm định đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của mình cho một hoặc nhiều người sau khi người đó chết. Bộ Luật Dân sự Việt Nam giành cả một Chương (Chương XXIII) với 28 Điều (từ Điều 646 đến 673) quy định về thừa kế theo di chúc. Trong đó, có quy định về hình thức di chúc. Mặc dù đã có các quy định về hình thức di chúc nhưng vấn đề hình thức di chúc vẫn còn nhiều điểm gây tranh luận cả về lý luận lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật. Qua thực tế hoạt động xét xử, có nhiều vụ án dân sự tranh chấp tài sản thừa kế liên quan đến Di chúc đặc biệt là hình thức của Di chúc. Người ta tố cáo nhau đã nguỵ tạo di chúc, lập di chúc giả hoặc thông đồng với người có trách nhiệm để làm giả di chúc nhằm chiếm đoạt tài sản của người chết hoặc chiếm đoạt quyền hưởng di sản thừa kế của người khác. Những tranh chấp này còn dẫn đến nhiều vụ án mạng rất đau lòng khi những người ruột thịt đánh giết nhau để tranh giành tài sản thừa kế. Vậy, tại sao pháp luật đã quy định rõ nhưng vẫn xảy ra tranh chấp xung quanh hình thức của Di chúc? Những vấn đề đã và đang đặt ra cho các nhà làm luật là làm thế nào để xác định một di chúc hợp pháp: 7 - Tiêu chí xác định người lập di chúc đang ở trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc là tiêu chí cảm tính của người chứng thực di chúc? - Yếu tố nào xác định người lập di chúc hoàn toàn không bị đe doạ hoặc cưỡng ép (đe doạ, cưỡng ép phải trực tiếp hay là cả gián tiếp)?... - Cách thức công chứng, chứng thực di chúc nói chung và di chúc của người bị hạn chế về thể chất, người không biết chữ? - Giá trị thực tế của di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực? - Việc ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố trong trường hợp lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc UBND xã, phường, thị trấn? Người có thẩm quyền công chứng, chứng thực có trách nhiệm gì về sự trung thực ghi chép đúng, đầy đủ, chính xác ý nguyện bằng lời của người để lại di chúc? .v.v.và .v.v. Để giải quyết những bất cập của thực trạng nói trên, đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu sâu về lý luận và thực tiễn các quy định về hình thức di chức theo pháp luật dân sự Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Hình thức Di chúc theo quy định của Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều nhà luật học nghiên cứu về vấn đề thừa kế và tài sản thừa kế theo Bộ Luật dân sự Việt Nam. Có thể nêu một số công trình đã được công bố trong thời gian gần đây có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài như: “Những quy định chung về quyền thừa kế trong Bộ Luật dân sự Việt Nam của Thạc sỹ Nguyễn Minh Tuấn; “Chế định về thừa kế trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam” của Thạc sỹ Đinh Duy Thanh;”Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt nam theo quy định của pháp luật từ năm 1945 đến nay” của Tiến sỹ Phùng Trung Tập và 8 đặc biệt là đề tài “Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ Luật Dân sự Việt Nam” của Tiến sỹ Phạm Văn Tuyết ... Kết quả nghiên cứu thể hiện trong những luận án nói trên cho thấy: Các tác giả tập trung phần lớn vào việc phân tích, trình bày các nội dung của các quy định có liên quan của Luật thực định về thừa kế nói chung; có chỉ ra một số cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định pháp luật cũng như một số vấn đề thực tiễn đặt ra và đề xuất phương hướng khắc phục các quy định pháp luật về thừa kế; nhưng có thể nói rằng cho đến nay, chưa có một công trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về một đề tài có phạm vi hẹp và sâu sắc như đề tài do tác giả lựa chọn. Những vấn đề lý luận hoặc là đang bỏ ngỏ hoặc là còn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau như: - Các điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp? Làm thế nào để xác định đúng đắn điều kiện minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc? Biểu hiện của hành vi cụ thể hay là cảm tính của người có thẩm quyền chứng thực, công chứng? Trong khi đó các tranh chấp về thừa kế theo di chúc chỉ phát sinh khi đến thời điểm mở thừa kế (người để lại di sản thừa kế đã chết)... - Thế nào là di chúc không có giá trị pháp lý vì hình thức trái với quy định của pháp luật? Trong khi Điều 649 chỉ quy định vẻn vẹn về hình thức di chúc là : “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được bằng văn bản thì có thể di chúc miệng...” Về tổng quan tình hình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài, tác giả chưa có điều kiện thu thập và đánh giá một cách đầy đủ, xin phép được tiếp tục thu thập và trình bày khi xây dựng và bảo vệ đề cương nghiên cứu chi tiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ nội dung, cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định pháp luật về hình thức Di chúc thông qua việc 9 phân tích các quy định của Pháp luật Dân sự hiện hành về Di chúc, hình thức di chúc, đánh giá thực trạng những tranh chấp dân sự liên quan đến hình thức di chúc và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc ở nước ta. Nhằm mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài dự kiến có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra như: + Khái niệm, đặc điểm hình thức Di chúc; + Cơ sở lý luận về hình thức di chúc; + Một số vấn đề về công chứng, chứng thực di chúc; - Đánh giá thực trạng các tranh chấp Dân sự về tài sản thừa kế liên quan đến hình thức Di chúc. - Nghiên cứu tham khảo tài liệu của nước ngoài liên quan đến đề tài. - Đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức di chúc. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tác giả sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu và có tính phổ cập như: Phương pháp tiếp cận lịch sử, phương pháp đối chiếu, phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích kết hợp giải thích và tổng hợp, khái quát hoá. Đặc biệt, trên cơ sở phân tích các bản án dân sự về giải quyết các tranh chấp tài sản thừa kế liên quan đến hình thức di chúc sẽ cho thấy những bất cập hiện nay của pháp luật khi quy định về vấn đề hình thức di chúc, làm cho đề tài nghiên cứu có tính thực tiễn cao; góp phần đáng kể làm rõ những lý luận trong quá trình hoàn thiện các quy đinh pháp luật về hình thức di chúc. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài 10 Việc nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của Pháp luật Dân sự Việt Nam trong khuôn khổ đề tài sẽ không chỉ có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa rất to lớn trong việc hạn chế các tranh chấp dân sự liên quan đến hình thức di chúc, hoàn thiện các quy định pháp luật dân sự về hình thức di chúc. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận về di chúc, thừa kế theo di chúc và hình thức của di chúc, tạo nền tảng lý luận cho việc phân tích các quy định pháp luật Việt Nam về hình thức di chúc; - Luật văn đã khái quát quá trình hình thành và phát triển các quy định về hình thức di chúc theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đã chỉ rõ được những bước phát triển trong các quy định pháp luật về di chúc và hình thức di chúc; - Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, Luận văn đã đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương như sau: Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận chung về thừa kế theo di chúc và hình thức của di chúc Chƣơng 2. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về hình thức di chúc ở Việt Nam Chƣơng 3. Thực trạng giải quyết tranh chấp hình thức di chúc tại toà án nhân dân và phương hướng hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc ở Việt Nam hiện nay 11 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC 1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về di chúc và thừa kế theo di chúc 1.1.1.1. Khái niệm di chúc Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình thức khác nhau. Trong Kinh Cựu ước – bộ sách lớn nhất, cổ nhất và nguyên vẹn nhất còn được lưu truyền đến ngày nay, người xưa đã chép lại rằng bản di chúc của Noe đã được viết bằng tay, rồi được ông đóng con dấu của mình lên để chứng thực; hay như việc Jacob, bằng lời nói, đã để lại cho Joseph phần tài sản gấp đôi so với những người con khác của mình... [27]. Có thể câu chuyện từ trong kinh sách tôn giáo không thể là một bằng chứng xác thực cho bất cứ một vấn đề mang tính thực tiễn nào, nhưng ít nhất từ những mẩu chuyện như thế, ta cũng có thể nhận thấy rằng: ngay trong lòng thế giới cổ đại, di chúc đã xuất hiện, và xuất hiện với rất nhiều hình thức đa dạng khác nhau, có thể bằng bản viết tay, cũng có thể chi bằng lời nói. Điều này là minh chứng cho vị trí, vai trò của di chúc trong đời sống xã hội. Di chúc là cơ sở quan trọng nhất để thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết và cũng là cơ sở để xác lập quyền sở hữu di sản của người được hưởng di sản thừa kế đối với di sản thừa kế. Trong thực tế cuộc sống tồn tại hai khái niệm “Di chúc” và “Chúc thư”. Trong thực tế, di chúc được gọi với nhiều thuật ngữ khác nhau như “Di chúc”, “Chúc thư”, “Chúc ngôn”. Trong đó, “Di chúc” là thuật ngữ dùng để chỉ các di chúc nói chung, “Chúc thư” là thuật ngữ chỉ về các di chúc viết (di chúc văn bản), “Chúc ngôn” là thuật ngữ chỉ về các di chúc miệng. Do đó, tất cả các thuật ngữ này đều là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản 12 của mình cho người khác sau khi chết. Về mặt pháp lý, BLDS 2005 chỉ sử dụng thuật ngữ Di chúc, không sử dụng trực tiếp thuật ngữ Chúc thư và Chúc ngôn. Tuy nhiên, BLDS vẫn qui định về Di chúc bằng văn bản và Di chúc miệng. Theo quy định tại điều 646 Bộ luật dân sự 2005, di chúc được hiểu là “sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi chúng ta chết”[8]. Luật La Mã quy định trong di chúc không được phép “im lặng bỏ qua” đối với hàng thừa kế thứ nhất (các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “im lặng bỏ qua” thì di chúc được coi là vô hiệu cho dù di chúc đó có tuân thủ đầy đủ các điều kiện khác. Ví dụ ông A có ba người con là B, C, D, ông để lại di chúc với nội dung: “Tôi cho hai con tôi là B và C mỗi đứa một nửa tài sản” mà không ghi “truất quyền thừa kế của D” thì di chúc vô hiệu vì đã im lặng bỏ qua D. Nếu A chết tài sản sẽ được chia theo luật cho B, C, D. Di chúc được thể hiện dưới hai hình thức: bằng văn bản và bằng lời nói. Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe doạ, do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản, thì có thể lập di chúc bằng lời nói. Di chúc bằng lời nói chỉ được coi là hợp pháp, nếu người di chúc bằng lời nói thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm lập di chúc bằng lời nói mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc bằng lời nói bị huỷ bỏ. Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của 13 người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Nếu những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc, thì coi như không có di chúc và di sản được thừa kế theo pháp luật. 1.1.1.2. Đặc điểm của di chúc Theo Điều 646 BLDS 2005, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân trong việc chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc có những đặc điểm cơ bản sau đây: Một là, di chúc thể hiện ý chí của người để lại di chúc trong việc định đoạt tài sản của mình. Một trong những ngụyên tắc cơ bản của việc giải quyết thừa kế theo di chúc là phải tôn trọng ý chí của người để lại di sản. Nếu như người để lại di sản lập di chúc về việc phân chia di sản cho người khác thì căn cứ vào nguyện vọng của người để lại di sản được ghi nhận trong bản di chúc, phần tài sản sẽ phải được ưu tiên phân chia theo ý chí của người để lại di sản. Đó chính là sự tôn trọng ý chí của người để lại di sản. Điều 631 Bộ luật dân sự 2005 quy định: Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Ý chí của người để lại di sản thừa kế được thể hiện qua các quyền của người lập di chúc là: - Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; - Phân định phần di sản cho từng người thừa kế; - Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; - Giao nghĩa vụ cho người thừa kế; - Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. Hai là, di chúc ghi nhận sự chuyển dịch tài sản của người để lại di sản cho người được hưởng thừa kế sau khi người đó chết. 14 Có thể khẳng định di chúc là một giao dịch dân sự đặc biệt. Bộ luật dân sự quy định rõ, giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự. Một giao dịch dân sự có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại Điều 122 BLDS. Tính đặc biệt của di chúc được thể hiện ở những khía cạnh sau đây: - Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực thực tế khi người để lại di sản thừa kế chết; - Việc định đoạt tài sản thừa kế phải tuyệt đối tuân thủ theo nội dung của di chúc, không được thay đổi hay giải thích nội dung của di chúc; - Việc kiểm chứng/đối chiếu di chúc là rất khó khăn vì người để lại di sản thừa kế đã chết. Ba là, di chúc chỉ được coi là hợp pháp nếu nó đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Di chúc chứa đựng ý chí đơn phương của người để lại di sản thừa kế. Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực khi người để lại di sản thừa kế chết. Do vậy, luật pháp yêu cầu di chúc phải đáp ứng những điều kiện nhất định đã được quy định tại điều 652 Bộ luật Dân sự 2005 thì bản di chúc đó mới được coi là hợp pháp và chỉ khi là một bản di chúc hợp pháp thì ý chí của người để lại di sản thừa kế là muốn chuyển dịch tài sản của mình cho ai mới được công nhận và bảo đảm thực hiện. Trong trường hợp nếu nội dung di chúc không rõ ràng, hoặc nghi ngờ về tính chính xác thì bản di chúc đó có thể bị huỷ bỏ. Bốn là, di chúc chỉ có hiệu lực pháp luật từ thời điểm người lập di chúc chết. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất của di chúc với một hợp đồng dân sự. Nếu hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết hợp đồng thì thời điểm bắt đầu có hiệu lực của di chúc được xác lập kể từ khi người lập ra nó chết. Năm là, Di chúc luôn trong tình trạng có thể bị người lập ra nó huỷ bỏ. 15 Xuất phát từ đặc điểm chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, do đó, người lập di chúc hoàn toàn có quyền huỷ bỏ di chúc mà mình đã lập trước đó để định đoạt lại khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Vì vậy, di chúc đã lập không mang tính cố định, nó có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào, việc thay đổi này phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc. Bởi lẽ, di chúc chỉ là hình thức để ghi lại ý chí của họ. Nói một cách khác đi, người lập di chúc có ý định hình thành quan hệ thừa kế giữa mình với người có tên trong di chúc. Sự định đoạt trong di chúc thể hiện ý chí đơn phương, không phụ thuộc vào một cam kết hay một thoả thuận nào. Do vậy, trong thời gian còn sống, người lập di chúc có thể thay đổi một, một số hoặc toàn bộ nội dung của di chúc tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, môi trường, tình cảm hiện tại. Chính vì vậy pháp luật thừa kế quy định từ thời điểm mở thừa kế, nếu một người để lại nhiều bản di chúc thì chỉ bản di chúc nào thể hiện ý chí tự nguyện sau cùng mới được coi là có hiệu lực. Các di chúc lập ra trước đó đều được coi là chưa từng tồn tại. Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào. Nếu có người lập nhiều di chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc trước. Để bảo đảm cho việc thay đổi nội dung di chúc được tiến hành theo quy định của pháp luật và bảo đảm tính pháp lý của các lần thay đổi, luật pháp cần quy định chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung di chúc. Có thể khẳng định rằng, việc xác định các điều kiện có hiệu lực của di chúc là nội dung quan trọng và truyền thống của chế định thừa kế theo di chúc. Trước đây, Luật La Mã quy định khá chặt chẽ các điều kiện để một di chúc có hiệu lực như: người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc (con gái từ 12 tuổi, con trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng tội); hình thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết phải được quan tòa, quan chấp chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy người làm chứng, người thừa kế phải được chỉ định rõ ràng, chính xác); người 16 được chỉ định trong di chúc phải là người có khả năng trở thành người thừa kế (thai nhi sinh vào tháng thứ mười một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn bà từ 20 đến 50 tuổi mà không lập gia đình thì không được hưởng thừa kế…). 1.1.1.3. Di chúc hợp pháp và nội dung của di chúc Đây là nội dung quan trọng nhất trong các quy định về thừa kế theo di chúc, vì di chúc là căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của người hưởng di sản thừa kế. Di chúc hợp pháp: Phần lớn các tranh chấp liên quan đến thừa kế theo di chúc đều phát sinh do một trong các bên phủ nhận tính hợp pháp của di chúc. Điều 652 BLDS quy định rõ điều kiện có hiệu lực của di chúc là: - Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc không bị lừa dối đe doạ hay cưỡng ép. - Nội dung di chúc không trái pháp luật và đạo đức xã hội. - Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải lập bằng văn bản và được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Do vậy, người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình, người dưới 15 tuổi thì không có khả năng hoặc chưa đủ khả năng thể hiện ý chí trong việc định đoạt tài sản của mình bằng việc lập di chúc, pháp luật không cho phép những người này lập di chúc thông qua người đại diện theo pháp luật. - Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Nội dung của di chúc: Cùng với quy định di chúc hợp pháp, BLDS nước ta cũng quy định cụ thể nội dung di chúc và các trường hợp phát sinh. Đây là căn cứ pháp lý để xác định nội dung của di chúc 17 Theo Điều 653 của BLDS 2005, di chúc bằng văn bản phải thể hiện các nội dung sau: - Ngày, tháng, năm lập di chúc. - Họ tên và nơi cư trú của người lập di chúc. - Họ tên cơ quan, tổ chức, người hưởng di sản. - Di sản để lại và nơi có di sản. - Việc chỉ định thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ. Di chúc không được viết tắt hoặc bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc để tránh trường hợp tự ý thay đổi nội dung di chúc bằng việc đánh tráo các trang không có chữ ký hoặc điểm chỉ trái với ý chí của người lập di chúc. 1.1.2. Thừa kế theo di chúc Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán,tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Theo quan điểm của Ăng- ghen: thừa kế “là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống”. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản của người chết để lại theo một trình tự do pháp luật quy định. Pháp luật cho phép những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ tài sản của người chết. 18 Với tư cách là một chế định của Luật dân sự, thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Thừa kế theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức, có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di chúc hay theo pháp luật (riêng đối với đất đai là thừa kế quyền sử dụng). Sự chuyển dịch di sản của người chết sang người sống sẽ được thực hiện theo hai căn cứ: i) Nếu căn cứ theo ý chí, nguyện vọng của người chết thì được gọi là thừa kế theo di chúc; ii) Nếu căn cứ theo các qui định của pháp luật thì được coi là thừa kế theo pháp luật. Điều này cũng tương đồng với Luật La Mã. Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra hình thức thừa kế theo lệnh của các quan cũng được thừa nhận trên thực tế. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở nên phổ biến hơn. Trên cơ sở quy định tại Điều 632 BLDS 2005 có thể khẳng định: mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác, trên cơ sở tôn trọng quyền sở hữu tài sản của cá nhân đối với thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng... Bên cạnh đó, mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản thuộc sở hữu của mình thông qua việc lập di chúc hoặc để lại thừa kế cho những người thừa kế theo pháp luật. Bên cạnh quyền để lại tài sản theo pháp luật cũng quy định bình đẳng về quyền thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Pháp luật dân sự quy định như vậy nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế, trong việc để lại di sản do xã hội phong kiến để lại, đảm bảo quyền thừa kế được thực hiện trên thực tế, củng cố và phát triển tình đoàn kết thương yêu trong nội bộ gia đình. Một trong những vấn đề quan trọng của pháp luật về thừa kế là thời điểm mở thừa kế. Khoản 1 Điều 633 BLDS 2005 quy định: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một 19 người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật Dân sự. Như vậy, thời điểm mở thừa kế là thời điểm cá nhân có tài sản thuộc sở hữu của mình chết. Trong trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì thời điểm mở thừa kế được quy định theo hướng mở để tạo điều kiện cho tòa án xác định một người là đã chết. Theo quy định tại Điều 81 Bộ luật dân sự 2005, người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong các trường hợp sau đây: a) Sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; b) Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; d) Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Ðiều 78 của Bộ luật này. Tùy từng trường hợp, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Ðiều này. Đây là vấn đề cần phải làm rõ trong việc xác định thời điểm mở thừa kế cũng như xác định tính pháp lý của di chúc trong trường hợp người bị tuyên bố là đã chết có để lại di chúc. Trên thực tế, nhiều trường hợp những người được hưởng di sản thừa kế của nhau như cha - con, vợ - chồng, ... mà chết cùng một thời điểm hoặc được coi là chết cùng một thời điểm thì pháp luật quy định: Trong trường hợp những người được hưởng thừa kế di sản của nhau mà chết cùng một thời điểm hoặc được coi chết cùng một thời điểm không xác định được người nào chết trước, chết sau thì những người đó không được hưởng di sản thừa kế của nhau, phần di sản của người nào sẽ do những người thừa kế của người đó hưởng (Điều 641 BLDS 2005) do đó, việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề về thừa kế theo di chúc. Cụ 20 thể là: * Xác định đi sản, thông thường, người lập di chúc xác định toàn bộ tài sản thừa kế của mình trong di chúc. Tuy nhiên, có thể do thời điểm lập di chúc cách xa với thời điểm người đó chết và dẫn đến sự biến động về tài sản của người đó nhưng họ vẫn không xác định lại tài sản đã liệt kê. Trong các trường hợp này, tài sản thừa kế được xác định trong di chúc với số tài sản thực còn vào thời điểm mở thừa kế là khác nhau. Vì vậy, thời điểm mở thừa kế là mốc thời gian để xác định số di sản thừa kế mà người lập di chúc để lại sau khi chết. * Xác định người thừa kế bởi vì pháp luật quy định cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm này; tổ chức phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Thủ tục xác định thời điểm mở thừa kế dựa trên giấy chứng tử của cơ quan có thẩm quyền hoặc bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật xác định một người là đã chết. Thừa kế theo di chúc là việc để lại di sản và việc hưởng di sản theo ý chí của người chết được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói của người đó trước khi chết. Thừa kế theo di chúc là một trong hai hình thức thừa kế nhằm bảo đảm cho cá nhân trước khi chết định đoạt tài sản của mình theo ý muốn của người đó, tuy nhiên sự định đoạt đó chỉ hợp pháp khi đảm bảo các điều kiện do pháp luật quy định. 1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 1.2.1. Khái niệm hình thức của di chúc Hình thức của di chúc có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực thi ý chí của người lập di chúc. Mong muốn của người để lại di sản thừa kế chỉ được ghi nhận khi nó thể hiện rõ ràng về mặt nội dung và dưới những hình thức pháp lý theo quy định của pháp luật. 21 Ngày nay, mỗi nhà nước, mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới lại có những quy định khác biệt về cùng một vấn đề của quan hệ pháp luật dân sự là hình thức của di chúc. Sự đa dạng của hình thức di chúc bắt nguồn từ sự phong phú và đa dạng của cuộc sống con người, từ truyền thống lịch sử của mỗi quốc gia hay từ đặc điểm riêng biệt của mỗi xã hội. Do đó, nhìn nhận đúng đắn khái niệm hình thức di chúc có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động lập pháp cũng như áp dụng pháp luật vào giải quyết các vấn đề phát sinh từ di chúc – một vấn đề không chỉ là những quy định pháp lý đơn thuần mà còn là vấn đề mang ý nghĩa đạo đức truyền thống sâu sắc. Bởi lẽ, các quy định pháp luật về hình thức di chúc không rõ ràng, không chặt chẽ sẽ trở thành nguyên nhân của những bất ổn xã hội, ảnh hưởng đến truyền thống tốt đẹp của từng quốc gia. Theo hiểu biết chung, hình thức của di chúc là sự biểu hiện ý chí của người để lại di sản thừa kế ra bên ngoài thế giới khách quan, chứa đựng nội dung di chúc theo một trình tự, kết cấu nhất định. Hình thức di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc; là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc””[17,331] Bộ luật Dân sự quy định di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình. 1.2.2. Vai trò của hình thức di chúc đối với việc thực hiện pháp luật về thừa kế Thứ nhất, hình thức của di chúc là cơ sở xác định cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Điều 635-BLDS 2005 qui định " Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế..." Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản giữa người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên phải là 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan