Mục lục
Tình huống............................................................................................................. 1
Giải quyết tình huống............................................................................................2
1. Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại
khoản 3 Điều 8 BLHS?.........................................................................................2
2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP hình
thức? Tại sao?.......................................................................................................3
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị truy
cứu TNHS về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm?.................5
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình không?
Tại sao?.................................................................................................................7
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu
TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?.......................................................8
Kết luận...............................................................................................................9
Danh mục tài liệu tham khảo..........................................................................10
0
Tình huống
Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản mà Nhà nước nào cũng đều
phải bảo vệ để duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Điều 58 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp
pháp và quyền thừa kế của công dân’. Điều 74 Hiến pháp cũng quy định: “Mọi
hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tập thể và của công
dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh”. Cướp tài sản là một trong nhóm
những tội xâm phạm sở hữu, là hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản đang có
chủ và hiện nay ngày càng xảy ra phổ biến hơn. Nhận thấy được thực trạng này,
sau đây em xin được chọn tình huống số 6 để phân tích, đưa ra một số ý kiến cũng
như hoàn thiện phần bài tập của mình.
Tình huống số 6 như sau:
C có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của K, tài sản chiếm đoạt có giá
trị 30 triệu đồng. Hành vi phạm tội của C được quy định tại khoản 1 Điều 133
BLHS. C bị đưa ra xét xử và bị tuyên phạt 7 năm tù. Anh (chị) hãy xác định:
1. Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại
khoản 3 Điều 8 BLHS?
2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP hình
thức? Tại sao?
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị
truy cứu TNHS về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm?
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình
không? Tại sao?
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu
TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?
1
Giải quyết tình huống
1. Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm
tại khoản 3 Điều 8 BLHS?
Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội rất nghiêm trọng.
Khoản 1 Điều 8 BLHS đã nêu định nghĩa về tội phạm như sau: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập...”. Và
hiểu một cách khái quát nhất thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi,
trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”. (trang 50,Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam tập 1, ĐH Luật Hà Nội). Tuy mỗi tội phạm đều phải có những dấu hiệu
chung trên nhưng với từng trường hợp cụ thể lại có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất khác nhau. Không chỉ khác nhau về nguyên nhân và điều kiện phát
sinh, về tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại mà còn khác nhau ngay ở tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng
như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác. Chính vì vậy mà vấn đề phân
hóa và cá thể hóa hình phạt đã được đặt ra và được coi là nguyên tắc của Luật hình
sự Việt Nam. Thể hiện nguyên tắc này, Luật hình sự Việt Nam phân tội phạm ra
thành bốn nhóm tội phạm khác nhau: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và đã được
quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS như sau:
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
2
Để xác định loại tội của tội phạm, ta cần căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội đó và mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội
đó để định tội sao cho chính xác.
Trong tình huống đã nêu, C có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản, đây là
một hành vi gây nguy hại rất lớn cho xã hội và đã cấu thành tội cướp tài sản được
quy định tại Điều 133 BLHS. Mặt khác, tài sản mà C chiếm đoạt có giá trị 30 triệu
đồng. Tài sản này dưới 50 triệu đồng (giá trị được quy định tại khoản 2 Điều 133
BLHS) nên hành vi phạm tội của C đã cấu thành tội phạm được quy định tại
khoản 1 Điều 133 BLHS đó là: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay
tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười năm”. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội này là mười năm
tù.
Để phân loại tội phạm, ta phải căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS (nguồn duy
nhất của Luật hình sự). Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS đã nêu ở trên: “...tội
phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù...”. Nhận thấy,
hành vi cướp tài sản của C đã gây nguy hại rất lớn cho xã hội đồng thời căn cứ vào
mức cao nhất của khung hình phạt là mười năm tù đã nêu ở trên thì loại tội mà C
đã phạm phải là tội rất nghiêm trọng.
2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP
hình thức? Tại sao?
Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có cấu thành tội phạm hình thức.
Giải thích:
Cướp tài sản là một trong những tội nằm trong nhóm các tội xâm phạm quyền
sở hữu và được pháp luật quy định tại Điều 133 BLHS Việt Nam. Theo khoản 1
Điều 133 BLHS thì cướp tài sản là hành vi của người nào đó dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
3
.
Để có thể xác định cướp tài sản là tội có cấu thành tội phạm (CTTP) gì thì ta
cần phân tích và phân biệt các loại cấu thành tội phạm để xác định đúng đắn.
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội
phạm, có thể chia CTTP thành 2 loại đó là: CTTP vật chất và CTTP hình thức.
-
CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu
quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
-
CTTP hình thức là CTTP chỉ có một dấu hiệu của mặt khách quan đó là
hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Khi xác định cấu thành vật chất hay cấu thành hình thức của tội phạm ta phải
dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản để xác định. CTTP cơ bản là CTTP chỉ có dấu
hiệu định tội. Đối với tội Cướp tài sản thì CTTP cơ bản được quy định tại khoản 1
Điều 133 BLHS đó là: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”
vì nó chỉ quy định dấu hiệu định tội mà không có những tình tiết tăng nặng hay
giảm nhẹ định khung (các tình tiết được quy định tại Điều 46 và Điều 48 BLHS)
như trong khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 133 BLHS. Mà việc xây dựng loại
tội nào có CTTP cơ bản là CTTP vật chất hay CTTP hình thức là xuất phát từ cơ
sở khách quan sau:
-
Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy
hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác
định thì CTTP thường được xây dựng là CTTP hình thức.
-
Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa thể hiện được hoặc chưa thể
hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải
có hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì CTTP thường được xây dựng là CTTP
vật chất.
Vậy hậu quả chính là dấu hiệu để phân biệt giữa CTTP vật chất với CTTP hình
thức. Đây là hậu quả có thể được nêu trong điều luật hoặc không chứ không phải
là hậu quả có xảy ra trên thực tế hay không xảy ra.
4
Nhận thấy, khoản 1 Điều 133 này không quy định rằng hậu quả đó nguy hiểm
cho xã hội như thế nào mà chỉ căn cứ vào hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là
“dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho
người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt
tài sản” để định tội. Đây là những đặc điểm của CTTP hình thức (trong cấu thành
không nêu hậu quả) vì vậy tội cướp tài sản là tội có CTTP hình thức.
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị
truy cứu TNHS về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm?
C có thể bị truy cứu TNHS về tội cướp tài sản.
Giai đoạn thực hiện tội phạm là tội phạm hoàn thành.
Giải thích:
Để xác định xem C có bị truy cứu TNHS về tội cướp tài sản hay không ta cần
căn cứ vào giai đoạn phạm tội của C vì pháp luật quy định trách nhiệm hình sự
nặng nhẹ khác nhau tương ứng với mỗi giai đoạn thực hiện tội phạm khác nhau
của tội phạm. Mà “Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội
phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành”(trang 160 giáo trình ĐH Luật Hà Nội). Như vậy, các giai đoạn thực hiện
tội phạm chỉ đặt ra với lỗi cố ý và bao gồm 3 giai đoạn:
-
Chuẩn bị phạm tội: là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra
những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực
hiện tội phạm đó. Đây là quá trình tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm
tội hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm (Điều 17
BLHS). Người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu TNHS nếu tội định phạm là tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm được chuẩn bị càng chu đáo thì hậu quả gây ra càng lớn, khả năng
gây hại càng lớn.
-
Phạm tội chưa đạt: là giai đoạn mà người phạm tội đã bắt đầu thực hiện
những hành vi khách quan được mô tả trong CTTP và chưa (không) thực hiện
được tội phạm đến cùng (về mặt pháp lý) do những nguyên nhân ngoài ý muốn.
5
Phạm tội chưa đạt kéo dài từ thời điểm bắt đầu thực hiện tội phạm cho đến trước
thời điểm dấu hiệu cuối cùng của 1 CTTP thỏa mãn. Việc dừng lại ở giai đoạn
phạm tội chưa đạt có thể do những cản trở khách quan: bị bắt, nạn nhân chống lại
hoặc đã thực hiện hết các hành vi phạm tội nhưng hậu quả vẫn không xảy ra ...
-
Tội phạm hoàn thành: Là giai đoạn người phạm tội đã thực hiện hành vi
phạm tội, làm thỏa mãn hết tất cả các dấu hiệu trong 1 cấu thành tội phạm cụ thể
được coi là tội phạm đã hoàn thành. Cần phân biệt tội phạm hoàn thành với tội
phạm kết thúc. Tội phạm kết thúc là thời điểm tội phạm dừng lại trên thực tế. Hai
thời điểm này có thể trùng nhau hoặc khác nhau. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của
các loại CTTP thì tội phạm hoàn thành được xác định như sau:
+, Tội phạm có CTTP vật chất hoàn thành khi người phạm tội đã gây ra hậu
quả của tội phạm. Ví dụ: Tội giết người là tội có CTTP vật chất nên tội này hoàn
thành khi hậu quả chết người xảy ra.
+, Tội phạm có CTTP hình thức hoàn thành ngay khi ngay khi người phạm tội
đã thực hiện hành vi phạm tội. Có thể chỉ có 1 hành vi như ở tội cướp tài sản
(dùng vũ lực...) hoặc có thể bao gồm nhiều hành vi khác nhau như ở tội hiếp dâm
(dùng vũ lực hoặc...và giao cấu...).
+, Tội phạm có CTTP cắt xén hoàn thành khi người phạm tội đã có những hoạt
động bất kì nhằm thực hiện hành vi đó đều xảy ra.
Hành vi phạm tội của C được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS. Như phân
tích ở ý số 2 “Tội cướp tài sản là tội có cấu thành tội phạm hình thức”. Mà tội
phạm có CTTP hình thức hoàn thành ngay khi người phạm tội đã thực hiện hành
vi phạm tội của mình. Theo đề bài thì C đã có hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt
tài sản của K vậy C đã thực hiện hành vi phạm tội đối với K. Vậy hành vi phạm
tội của C thuộc giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Hành vi của C thuộc giai đoạn tội phạm hoàn thành nên hành vi này đã cấu
thành tội phạm hoàn chỉnh đó là tội cướp tài sản, đây là tội rất nghiêm trọng do cố
ý. Có 2 khả năng xảy ra đó là C thực hiện tội phạm khi đang có năng lực trách
6
nhiệm hình sự (đủ 14 tuổi, không mắc các bệnh tâm thần...) và trường hợp C là
người không có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (dưới 14 tuổi, ...).
- TH1: C thực hiện tội phạm khi đang có năng lực trách nhiệm hình sự và tội
mà C phạm là tội cướp tài sản, đây là tội rất nghiêm trọng do cố ý nên C sẽ phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
- TH2: C là người không có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi
cướp tài sản thì C sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội
của mình.
Như vậy, C có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Việc
đưa ra phán quyết cụ thể cần căn cứ vào dấu hiệu chủ thể của tội phạm để định tội
của C trong tình huống này.
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình
không? Tại sao?
Nếu C tròn 14 tuổi thì C phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Giải thích:
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con
người có lỗi hay không có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và
chỉ được hình thành khi con người đã đạt độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ tiếp
tục phát triển hoàn thiện trong thời gian nhất định tiếp theo. Nhà nước ta đã quy
định trong BLHS tuổi 14 là tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi
16 là tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Vì C mới tròn 14 tuổi nên ta
phải căn cứ vào khoản 2 Điều 12 BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Nghĩa là C sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự khi C phạm tội rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Căn cứ vào ý số 3 vừa phân tích, vì hành vi của C thuộc giai đoạn tội phạm
hoàn thành nên C có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản.
7
Nhưng vì C đủ 14 tuổi nên C sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài
sản đã phạm.
Theo ý số 1 đã phân tích, loại tội mà C đã phạm phải là tội rất nghiêm trọng.
Mặt khác, xét về mặt chủ quan, cướp tài sản là hành vi có lỗi cố ý trực tiếp vì lỗi
cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi
đó và mong muốn hậu quả xảy ra (Điều 9 BLHS). Như vậy, C đã phạm tội rất
nghiêm trọng do cố ý.
Từ các phân tích trên ta thấy C đủ 14 tuổi (đủ tuổi có năng lực trách nhiệm
hình sự), C bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội cướp tài sản và C phạm tội
rất nghiêm trọng do cố ý nên C phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi
cướp tài sản của mình.
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải
chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?
C có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Giải thích:
C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ nghĩa là giai đoạn thực hiện
tội phạm của C trong trường hợp này là “chuẩn bị phạm tội”. Trách nhiệm hình sự
dành cho người chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 17 BLHS như sau:
“Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt ngiêm
trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện”.
Như vậy, C sẽ chỉ phải chịu TNHS về tội cướp tài sản ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội khi tội phạm mà C đã thực hiện là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng.
Theo phân tích ở ý số 4 trên thì loại tội mà C đã phạm là tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý. Như vậy, C chuẩn bị phạm 1 tội rất nghiêm trọng do cố ý nên C có
8
thể bị truy cứu TNHS về tội cướp tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội của mình
do có 2 khả năng xảy ra đó là C thực hiện tội phạm khi đang có năng lực trách
nhiệm hình sự (đủ 14 tuổi trở lên, không mắc các bệnh tâm thần...) và trường hợp
C là người không có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (dưới 14 tuổi,...).
- TH1: C thực hiện tội phạm khi đang có năng lực trách nhiệm hình sự và C
chuẩn bị phạm tội cướp tài sản, đây là tội rất nghiêm trọng do cố ý nên C sẽ phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội của mình.
- TH2: C là người không có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và C chuẩn bị
phạm tội cướp tài sản thì C sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi
chuẩn bị phạm tội của mình.
Như vậy, C có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản ở giai
đoạn chuẩn bị. Việc đưa ra phán quyết cụ thể cần căn cứ vào dấu hiệu chủ thể của
tội phạm để định tội đối với C trong tình huống này.
Kết luận
Pháp luật hình sự là một công cụ sắc bén để đấu tranh phòng và chống tội
phạm; góp phần đắc lực vào việc bảo vệ lợi ích của nhà nước, của mỗi cá nhân;
góp phần duy trì trật tự xã hội, bảo đảm cho mọi người được sống trong một xã
hội an toàn, lành mạnh, nhân văn...
Qua tình huống trên em đã hiểu rõ hơn về những quy định của BLHS đối với
loại tội phạm cướp tài sản cũng như thấy được thực trạng cũng như trách nhiệm
của bản thân trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm để trật tự xã hội ổn
định hơn. Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai sót, kính mong thầy
cô đóng góp ý kiến để bài tập của em được hoàn thiện hơn cũng như giúp em trau
dồi kiến thức cho bản thân.
Em xin chân thành cám ơn!
9
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học luật Hà Nội. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Tập I. Nxb.
Công an nhân dân Hà Nội – 2010.
2. Bộ Luật Hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được sửa đổi
bổ sung năm 2009). Nxb Lao động – 2012.
3. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an
nhân dân Hà Nội – 2005.
4. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phần
các tội phạm, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội - 2010.
5. ThS Trần Văn Dũng, Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội
trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội- 2003.
10
- Xem thêm -