Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Hiệu lực của ly hôn đối với con theo luật hôn nhân gia đình năm 2014 chuyên ngàn...

Tài liệu Hiệu lực của ly hôn đối với con theo luật hôn nhân gia đình năm 2014 chuyên ngành luật dân sự và tố tụng dân sự60 38 01 03

.PDF
110
7
75

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HẠNH HIỆU LỰC CỦA LY HÔN ĐỐI VỚI CON THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HẠNH HIỆU LỰC CỦA LY HÔN ĐỐI VỚI CON THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014 Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học:PGS.TS TRẦN THỊ HUỆ Hà Nội – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đỗ Thị Hạnh MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC CỦA LY HÔN ĐỐI VỚI CON ........................................................................................................................5 1.1. Khái niệm, đối tƣợng, nội dung, đặc điểm hiệu lực của ly hôn đối với con ......5 1.1.1.Khái niệm hiệu lực của ly hôn đối với con............................................................. 5 1.1.2. Đối tượng là con được pháp luật bảo vệ sau khi vợ chồng ly hôn ......................12 1.1.3. Nội dung hiệu lực của ly hôn đối với con ........................................................... 14 1.1.4.Đặc điểm hiệu lực của ly hôn đối với con ............................................................ 16 1.2. Căn cứ phát sinh hiệu lực của ly hôn đối với con ..............................................18 1.2.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................18 1.2.2 Cơ sở pháp lý ........................................................................................................19 1.2.3. Cơ sở thực tiễn .....................................................................................................21 1.3. Ý nghĩa của việc quy định hiệu lực của ly hôn đối với con trong luật HN&GĐ .......................................................................................................................................23 1.3.1. Ý nghĩa về pháp lý ............................................................................................... 23 1.3.2. Ý nghĩa về mặt xã hội .......................................................................................... 24 1.4. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển các quy định về hiệu lực của ly hôn đối với con trong Hệ thống pháp luật Việt Nam ............................................................. 25 1.4.1. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân .........................................................................25 1.4.2. Quyền và nghĩa vụ về tài sản ...............................................................................29 1.5. Hiệu lực của ly hôn theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới ..................30 1.5.1. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân .........................................................................30 1.5.2. Quyền và nghĩa vụ về tài sản ...............................................................................33 1.6. Kết luận chƣơng 1.................................................................................................35 CHƢƠNG 2. NỘI DUNG HIỆU LỰC CỦA LY HÔN ĐỐI VỚI CON THEO LUẬT HN&GĐ VIỆT NAM NĂM 2014 ...................................................................37 2.1. Hiệu lực của ly hôn về nhân thân đối với con ...................................................37 2.1.1. Nghĩa vụ và quyền khai sinh, đặt họ tên, xác định tôn giáo, dân tộc, quốc tịch, chỗ ở của con .................................................................................................................37 2.1.2. Nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, chăm sóc, bảo vệ con.....................39 2.1.3. Nghĩa vụ và quyền giáo dục con .........................................................................42 2.1.4. Nghĩa vụ và quyền đại diện cho con ...................................................................43 2.1.5. Nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con ......................................................45 2.2. Hiệu lực của ly hôn về tài sản đối với con .......................................................... 48 2.2.1. Nghĩa vụ và quyền cấp dưỡng của cha mẹ đối với con .......................................48 2.2.2. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ trong việc quản lý, định đoạt tài sản riêng của con .................................................................................................................................57 2.2.3. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra ....................................................... 59 2.3. Nghĩa vụ của cha mẹ trong một số trƣờng hợp khác ........................................61 2.3.1. Nghĩa vụ và quyền của cha, mẹ nuôi đối với con nuôi .......................................61 2.3.2. Nghĩa vụ và quyền của bố dượng, mẹ kế đối với con riêng của vợ hoặc chồng (trường hợp sau khi cha mẹ ly hôn và kết hôn với người khác) ....................................63 2.4. Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chƣa thành niên ..................................65 2.5. Kết luận chƣơng 2.................................................................................................69 CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HN&GĐ VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN ....................................................................71 3.1 Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng những quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014........................... 71 3.2. Một số hạn chế, bất cập khi thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và kiến nghị ............81 3.2.1. Một số hạn chế, bất cập khi thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 .....................................81 3.2.2. Kiến nghị .............................................................................................................92 3.3. Phƣơng hƣớng hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014. ..................................................95 3.4. Kết luận chƣơng 3.................................................................................................99 KẾT LUẬN ................................................................................................................101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................102 DANH MỤC VIẾT TẮT 1. BLDS : Bộ luật Dân sự 2. BLHS : Bộ luật hình sự 3. BVCS&GDTE : Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 4. HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội hiện đại ngày nay tình trạng ly hôn diễn ra ngày càng nhiều, đặc biệt là ở giới trẻ. Khi ly hôn, ngoài vợ chồng là những người trực tiếp liên quan thì con chung là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi quyết định ly hôn này. Thực tiễn cho thấy con chung là một trong những vấn đề quan trọng và phức tạp nhất khi giải quyết ly hôn. Theo đó, các bên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn khi chọn bên trực tiếp nuôi con. Bên cạnh đó, khi ly hôn việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của cha mẹ đối với con cũng sẽ gặp phải những bất cập nhất định. Nếu như quan hệ vợ chồng là quan hệ dựa trên cơ sở hôn nhân thì quan hệ giữa cha mẹ và con lại dựa trên quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng mà ở đó chứa đầy tình cảm yêu thương gắn bó cùng với ý thức và trách nhiệm. Vợ chồng có thể ly hôn bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án nhưng không ai có quyền chối bỏ trách nhiệm đối với con của mình, ngay cả khi hôn nhân không còn tồn tại. Đối với con, việc ly hôn của cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn. Theo đó, để đảm bảo quyền lợi cho con, nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con được quy định khá đầy đủ và chi tiết trong Luật HN&GĐ và một số văn bản pháp luật hiện hành khác có liên quan. Luật HN&GĐ năm 2014 bổ sung thêm các quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con sau khi ly hôn, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con; đồng thời sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan.Đối với trẻ em, gia đình là cái nôi quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách. Khi gia đình rạn nứt, việc tiếp tục duy trì một môi trường gia đình để nuôi dưỡng và giáo dục con để chúng không bị những ảnh hưởng xấu là điều không dễ dàng. Chính vì thế, việc hoàn thiện những quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn là rất quan trọng. Trong khi đó, với điều kiện xã hội hiện nay, khi mà trong xã hội có nhiều sự thay đổi do tác động của nhiều yếu tố; lối sống và nhân cách cá nhân chịu những áp lực, thách thức bởi nhiều loại thang bậc giá trị; sự đề cao giá trị vật chất; sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của các bậc cha mẹ đối với con diễn ra ngày càng phổ biến…thì khi ly hôn sẽ có những hậu quả pháp lý nào xảy ra đối với con? Các 1 nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con theo phán quyết của Tòa án cũng như quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam có thực sự được thực thi một cách triệt để? Nội dung cụ thể của những quy định này như thế nào? Có những vướng mắc bất cập gì trong thực tiễn thực hiện? Phương hướng hoàn thiện nó ra sao? Đi tìm câu trả lời cho những vấn đề đó chính là lý do tác giả chọn đề tài “Hiệu lực của ly hôn đối với con theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014” là đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Việc nghiên cứu đề tài này mang tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn, bởi lẽ không những nó trang bị cho mỗi chúng ta những hiểu biết chung nhất về hiệu lực của ly hôn đối với con theo Luật HN&GĐ Việt Nam; mà qua đó còn góp phần xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Làm rõ những vấn đề lý luận về hiệu lực của ly hôn đối với con; những điểm mới theo Luật HN&GĐ năm 2014 về những quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn. Trình bày và phân tích những thực tiễn áp dụng pháp luật HN&GĐ về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn trong hoạt động xét xử của Tòa án hiện nay đồng thời đưa ra những bất cập trong quá trình thực hiện. Trên cơ sở đó đề xuất những ý kiến nhằm khắc phục những bất cập trên. 2.2.Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Làm rõ những vấn đề lý luận về hiệu lực của ly hôn đối với con, theo đó phân tích quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con nói chung và quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn nói riêng. - Phân tích thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn trong hoạt động xét xử của Tòa án tại Việt Nam. - Phân tích quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn của một số nước trên thế giới. 2 - Kiến nghị và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014. 3. Tính mới và đóng góp của đề tài Dưới góc độ pháp lý, các nghiên cứu về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con tương đối phong phú. Tuy nhiên, kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, với những thay đổi đáng kể trong việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn, vẫn chưa có một nghiên cứu, đánh giá mới nào về vấn đề này. Chính vì thế, đề tài sẽ là một nghiên cứu mới, là cái nhìn tổng quan trên cơ sở đánh giá Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề hiệu lực của ly hôn đối với con. Theo đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo mang tính mới, kịp thời cho các cá nhân, cơ quan trong việc tìm hiểu, nghiên cứu xây dựng và thực hiện pháp luật có liên quan đến HN&GĐ. Vì vậy việc nghiên cứu các quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành về vấn đề này là cần thiết. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Hiệu lực của ly hôn đối với con theo Luật HN&GĐ năm 2014. Phạm vi nghiên cứu: Quyền của cha mẹ đối với con khi ly hôn, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn, thực tiễn áp dụng pháp luật HN&GĐ về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn trong hoạt động xét xử của Tòa án. Quy định về vấn đề này của một số nước trên thế giới. Thực trạng áp dụng ở Việt Nam và một số đề xuất hoàn thiện các quy định này. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước; những lý luận về pháp luật 3 HN&GĐ, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, logic học và xã hội học…để làm rõ nội dung các vấn đề nghiên cứu của đề tài nhằm đảm bảo tính khoa học. 6. Tổng quan tài liệu - Các quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn của Luật HN&GĐ Việt Nam qua các thời kỳ và trong Luật HN&GĐ năm 2014. - Các quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn theo pháp luật một số nước trên thế giới. - Các tài liệu về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con nói chung và khi ly hôn nói riêng của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. - Một số học thuyết pháp lý về hôn nhân. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hiệu lực của ly hôn đối với con Chương 2: Nội dung hiệu lực của ly hôn đối với con theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật HN&GĐ về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn trong hoạt động xét xử của Tòa án. 4 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC CỦA LY HÔN ĐỐI VỚI CON 1.1. Khái niệm, đối tƣợng, nội dung, đặc điểm hiệu lực của ly hôn đối với con 1.1.1. Khái niệm hiệu lực của ly hôn đối với con - Khái niệm ly hôn: Hôn nhân được thiết lập trên cơ sở tự do, tự nguyện. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, vì những nguyên nhân nhất định những mâu thuẫn giữa vợ chồng trở nên sâu sắc kéo dài không thể giải quyết được thì vấn đề ly hôn được đặt ra. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất thường của nhưng là một mặt không thể thiếu được của quan hệ hôn nhân khi quan hệ hôn nhân không tiếp tục tồn tại được. Bản chất của ly hôn “Chỉ là việc xác nhận một sự kiện: Cuộc hôn nhân này là một cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” [39, tr.119] và “Tự do ly hôn tuyệt đối không có nghĩa là làm tan rã những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh” [39, tr.335]. Nam nữ tự do kết hôn và tự do ly hôn là nội dung quan trọng của nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đã được ghi nhận tại Điều 36 Hiến pháp năm 2013 và đã được cụ thể hóa tại mục 1 chương IV từ Điều 51 đến Điều 64 của Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy nhiên tự do ly hôn không phải là ly hôn một cách tùy tiện mà phải dựa vào những căn cứ luật pháp. Đứng trên quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Khoản 14 Điều 3Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 quy định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Việc ly hôn của hai vợ chồng có thể do vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết. Để ra quyết định hoặc bản án ly hôn theo yêu cầu của vợ, chồng,Tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 56: “…Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng 5 quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”. Trước đây, hệ thống văn bản pháp luật HN&GĐ quy định do ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng, màquan hệ vợ chồng này là quan hệ nhân thân gắn liền với người vợ, người chồng nên hôn nhân tan vỡ thì quyền yêu cầu Tòa án cho ly hôn chỉ dành cho chính người vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân đó. Tuy nhiên Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 đã mở rộng đối tượng được thực hiện quyền yêu cầu ly hôn ngoài vợ chồng bao gồm: “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”. Như vậy, ly hôn là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan vợ chồng khihôn nhân đã thực sự tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được nữa, doTòa án quyết định khi có yêu cầu của vợ, chồng hoặc của cả hai vợ chồng. - Khái niệm hiệu lực của ly hôn: Hiệu lực của ly hôn là một vấn đề mà pháp luật quy định cần phải giải quyết khi có sự kiện pháp lý xảy ra về vấn đề ly hôn. Trong phán quyết của Tòa án thể hiện trong bản án hoặc quyết định có những nội dung về quyền cũng như nghĩa vụ bắt buộc các bên vợ, chồng (cha, mẹ của con) và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (nếu có) phải thực hiện.Khi phán quyết ly hôn này có hiệu lực pháp luật thì những nội dung trong bản án, quyết định sẽ có tính chất ràng buộc giữa các bên, bắt buộc các bên thực hiện. Trong hầu hết các quyển Từ điển Tiếng Việt và Từ điển chuyên ngành Luật ở Việt Nam hiện nay đều không có mục từ “hiệu lực của ly hôn” mà chỉ có các từ khác gần với nó như “hiệu lực của các văn bản pháp luật” hay “hiệu lực pháp luật của di chúc”. Theo các Từ điển này này thì hiệu lực pháp luật nói chung “là tính bắt buộc thi hành của văn bản…”, “là giá trị pháp lý của văn bản…, hoặc (giá trị) áp dụng của văn bản đó,… thể hiện phạm vi tác động hoặc hoặc phạm vi điều chỉnh 6 của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng áp dụng”.Khái niệm “hiệu lực của ly hôn” cũng không được tìm thấy trong một số từ điển của nước ngoài bằng tiếng Anh. Tuy vậy, trong quyển Từ điển Bách khoa pháp luật Hoa Kỳ có đưa ra định nghĩa về “hiệu lực” (valid): “Hiệu lực là sự ràng buộc; sự cưỡng chế pháp lý….”[45, tr.203] Như vậy, trên phương diện giải thích thuật ngữ có thể thấy ở khái niệm “hiệu lực” có một dấu hiệu đặc trưng cơ bản đó là giá trị ràng buộc các bên phải thi hành nghiêm túc. Đồng thời, như đã phân tích ở trên đối với khái niệm “ly hôn” - đó làmột sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan vợ chồng do Tòa án quyết định bằng một phán quyết. Theo đó, chúng ta thấy khái niệm “hiệu lực của ly hôn” có hai dấu hiệu thể hiện bản chất của nó, đó là: (i) giá trị pháp lý của phán quyết ly hôn của Tòa án thông qua bản án hoặc quyết định giống như pháp luật; và (ii) hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế nhằm buộc các bên phải tôn trọng quyền và thực thi đầy đủ nghĩa vụ được thể hiện trong phán quyết đó. Giá trị pháp lý và hiệu lực ràng buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng là hai mặt không thể thiếu đối với hiệu lực của ly hôn. Trên cơ sở nhận thức bản chất của “hiệu lực của ly hôn”, tác giả xin đưa ra khái niệm “hiệu lực của ly hôn” như sau: Hiệu lực của ly hôn là giá trị pháp lý bản án hoặc quyết định cho ly hôn của Tòa án làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên (bao gồm vợ, chồng và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan), và giá trị pháp lý ràng buộc các bên phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó. Việc nhận thức đúng khái niệm “hiệu lực của ly hôn” là cơ sở để tiếp cận các vấn đề khác có liên quan đến việc nghiên cứu quá trình tạo lập, xác nhận giá trị pháp lý và thực thi phán quyết của Tòa án. Khái niệm này cũng thể hiện rõ các yếu tố quan trọng mang tính bản chất hiệu lực của ly hôn, đó là căn cứ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các bên; đồng thời tạo ra sự ràng buộc pháp lý nhằm bắt buộc và bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. 7 Thời điểm có hiệu lực của việc ly hôn là thời điểm có hiệu lực của bản án hoặc quyết định chấp thuận ly hôn của Tòa án. Bản án hoặc quyết định chấp thuận ly hôn có tác dụng thiết lập một tình trạng pháp lý mới không tồn tại trước đó cũng như thiết lập các quyền mới của bên này hoặc bên kia. Tình trạng và các quyền đó phải được tôn trọng không chỉ bởi vợ và chồng trước đây mà cả bởi người thứ ba. Việc Tòa án nhân dân xét xử cho ly hôn do một bên yêu cầu hoặc công nhận thuận tình ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định cho vợ chồng về nhân thân, tài sản và con. Đối với hệ quả nhân thân, quan hệ vợ chồng chấm dứt khi bản án hoặc quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật.Vợ và chồng có quyền kết hôn với người khác. Đối với hệ quả tài sản, khi ly hôn, các quan hệ tài sản của vợ chồng cũng chấm dứt. Khối tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân được chia theo yêu cầu của vợ, chồng. Nếu chưa tiến hành phân chia thì khối tài sản ấy thuộc sở hữu chung theo phần của vợ và chồng và chịu sự chi phối của các quy định thuộc luật chung về sở hữu chung theo phần: việc quản lý tài sản chung được thực hiện theo nguyên tắc thỏa thuận; chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu chia tài sản chung mà không cần viện dẫn lý do như trước đây, khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân...Đối với hệ quả về con, việc ly hôn của vợ chồng không làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con mà vẫn tiếp tục được duy trì. - Khái niệm hiệu lực của ly hôn đối với con: Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con được hình thành dựa trên sự kiện sinh đẻ hoặc sự kiện nuôi con nuôi được nhà nước công nhận làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân hợp pháp hay không hợp pháp còn tồn tại hay chấm dứt của cha mẹ. Trong mọi trường hợp quyền và nghĩa vụ không thay đổi vì yếu tố hôn nhân nhưng phương thức thực hiện có thể khác nhau sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể giữa cha mẹ và con. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con có thể được xem xét từ hai góc độ: 8 Dưới góc độ quyền con người: Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là quyền tự nhiên của con người, thể hiện tình cảm trong mối quan hệ huyết thống và mối quan hệ nuôi dưỡng giữa thế hệ cha mẹ và thế hệ con, là tất cả những việc mà cha mẹ và con có thể làm được cho nhau để cùng nhau tồn tại và phát triển, thỏa mãn những nhu cầu tình cảm và vật chất của hai bên đối với nhau trong đời sống. Dưới góc độ pháp lý: Khi vợ chồng ly hôn, quan hệ hôn nhân chấm dứt, tuy nhiên quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con vẫn không thay đổi. Vì vậy, trên phương diện pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau sẽ chấm dứt nhưng các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con vẫn tồn tại. Để bảo đảm lợi ích cho con là người dưới thành niên và người thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình, pháp luật quy định cha mẹ phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với con sau ly hôn. Như vậy “hiệu lực của ly hôn đối với con” là giá trị pháp lý bản án hoặc quyết định cho ly hôn của Tòa án làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, và giá trị pháp lý ràng buộc các bên phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn là hệ thống các biện pháp, cơ chế, cách thức được pháp luật quy định nhằm đảm bảo thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của con trên thực tế, đảm bảo cho các quyền cơ bản của con không bị xâm phạm, hạn chế hoặc bị ảnh hưởng xấu do việc ly hôn của cha mẹ gây ra, cũng như đảm bảo việc xử lý nghiêm khắc, kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của con. - Khái niệm con đẻ, con nuôi: Theo từ điển Luật học, xác định con chung là “con sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha hoặc mẹ không thừa nhận, nhưng có chứng cứ để Tòa án căn cứ ra quyết định xác định là con của hai người thì cũng là con chung của vợ chồng. Con 9 sinh ra mà cha mẹ không có đăng ký kết hôn, không sống chung với nhau như vợ chồng, trên thực tế thì vẫn là con chung của hai người và thường được gọi là con ngoài giá thú. Con nuôi do vợ chồng cùng nhận nuôi cũng là con chung của vợ chồng…” Đối với con đẻ, quan hệ giữa cha mẹ và con đẻ được xác định dựa vào hai yếu tố: sinh học và xã hội học. Về yếu tố sinh học là sự thành thai và sinh sản. Về yếu tố xã hội học dựa trên danh xưng, thái độ và dư luận. Con của một người mang họ của người đó. Thông thường, con sinh ra từ quan hệ hôn nhân mang họ cha. Con sinh ra từ quan hệ chung sống như vợ chồng cũng thường mang họ cha, trừ trường hợp những người chung sống như vợ chồng chấp nhận phong tục của cộng đồng dân tộc ít người mà họ có xuất xứ, theo đó, con sinh ra phải mang họ mẹ. Con của một người phụ nữ độc thân thường mang họ của chính người phụ nữ đó. Ngoài danh xưng ra, các đương sự phải cư xử với nhau như cha-con, mẹ-con. Việc cha, mẹ cư xử với tư cách đó trong quan hệ với con thể thiện một cách chung nhất qua việc cha mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục, gây dựng tương lai của con. Việc con cư xử với tư cách đó trong quan hệ với cha mẹ thể hiện một cách chung nhất qua việc con tỏ ra kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng, tuân theo lời khuyên của cha mẹ. Cuối cùng, quan hệ cha mẹ-con chỉ có giá trị nếu quan hệ đó được thừa nhận bởi gia đình và xã hội, bởi bất kỳ người thứ ba nào cũng như bởi quyền lực công cộng: ông bà gọi cha mẹ đến để góp ý về cách giáo dục con; nhà trường gọi cha mẹ đến để họp bàn về việc học của con; Tòa án gọi cha mẹ đến để tham gia vào vụ án hủy hoại tài sản của người khác mà con chưa thành niên là thủ phạm…Trong tất cả những trường hợp đó, người thứ ba cũng như quyền lực công cộng thừa nhận quan hệ cha mẹ-con chỉ trên cơ sở ghi nhận sự hội tụ của những yếu tố xã hội đặc trưng của quan hệ ấy.[25] Còn khái niệm con nuôi được xuất phát từ sự kiện nhận nuôi con nuôi. Nuôi con nuôi là hình thức nuôi con nuôi làm hình thành quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Việc nhận nuôi thoả mãn đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi, không trái với mục đích của việc nuôi con 10 nuôi và đạo đức xã hội. Người con nuôi cùng sống trong gia đình cha mẹ nuôi. Giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha mẹ và con, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, đồng thời thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau để xây dựng một gia đình thật sự. Quan hệ nuôi con nuôi thực tế phải có đầy đủ các dấu hiệu sau: Một là, giữa người nhận nuôi và con nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha mẹ và con, đã thật sự coi nhau như cha mẹ và con, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con. Hai là, người nhận nuôi và con nuôi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật, như điều kiện về tuổi, tư cách đạo đức, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng…Ba là, các bên đã cùng chung sống với nhau, gắn bó, cư xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau. Quan hệ giữa cha mẹ và con giữa hai bên được họ hàng và mọi người xung quanh thừa nhận. Việc nuôi con nuôi là đúng mục đích, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Khi được công nhận là quan hệ nuôi con nuôi thực tế thì giữa người nhận nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của quan hệ cha mẹ và con. Bên cạnh trường hợp con nuôi và con đẻ, Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định mới về việc xác định cha mẹ con trong trường hợp mang thai hộ. Hiện nay, tình trạng vợ chồng hiếm muộn hoặc không muốn trực tiếp sinh con ngày càng nhiều dẫn đến nhu cầu mang thai hộ, đẻ thuê cũng trở nên phổ biến. Luật HN&GĐ năm 2000 chưa có một quy định nào về vấn đề mang thai hộ tuy nhiên Nghị định số 12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phương pháp khoa học đã nghiêm cấm hành vi mang thai hộ này. Theo quan niệm của người Việt, con đẻ phải do người mẹ trực tiếp mang thai và sinh ra. Dù mang thai hộ thì giữa người mẹ và đứa trẻ được sinh ra có sự gắn kết tự nhiên, không dễ dàng giao con cho người nhờ mang thai hộ. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận theo khía cạnh khác, việc mang thai hộ không trái đạo đức, đạo lý khingười vợ không thể mang thai, người chồng không có quan hệ tình dục trực tiếp với người mang thai hộ, và đứa trẻ được hình thành từ trứng của người vợ, 11 tinh trùng của người chồng. Trong trường hợp này, dù người vợ không trực tiếp mang thai thì đứa trẻ vẫn là máu mủ của họ. Chính vì vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 đã có quy định công nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và việc xác định cha mẹ cho con trong trường hợp này tại Điều 94: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”. Có thể nói đây là quy định mới hoàn toàn phù hợp với khoa học cũng như thỏa thuận của các bên trong việc nhờ mang thai hộ vì mu ̣c đić h nhân đa ̣o. Khi đó, quan hê ̣ cha me ̣ và con của người mang thai hô ̣ sẽ chấ m dứt . Việc công nhân trường hợp mang thai hộ là một điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014, đồng thời thay đổi khái niệm về con đẻ. Theo quan niệm truyền thống, con đẻ phải là con được sinh ra từ sự kết hợp của cha và mẹ, do người mẹ sinh trực tiếp sinh ra từ bào thai. Tuy nhiên, trong trường hợp người mẹ không thể trực tiếp mang thai thì có thể nhờ người mang thai hộ. Đứa trẻ do người mang thai hộ được xác định là con đẻ của vợ - chồng nhờ mang thai hộ khi sự thụ tinh là kết quả của sự phối hợp giữa các yếu tố vật chất của vợ - chồng đó, người mang thai hộ chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ cần thiết cho sự ra đời của đứa trẻ đó. Nếu vợ hoặc chồng không cung cấp được yếu tố vật chất của chính mình cho việc thụ tinh, thì lai lịch của người cung cấp yếu tố bổ khuyết không được công bố cho vợ và chồng biết, cũng như bản thân người cung cấp yếu tố bổ khuyết không biết lai lịch của vợ và chồng muốn có con bằng con đường thụ tinh nhân tạo. Con được sinh ra coi như có cha và mẹ ruột là người chồng và người vợ đó. 1.1.2. Đối tƣợng là con đƣợc pháp luật bảo vệ sau khi vợ chồng ly hôn Theo quy định của pháp luật HN&GĐ thì đối tượng con mà cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng và được pháp luật bảo vệ quyền lợi khi cha mẹ ly hôn bao gồm: phải là con chung chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. - Con chưa thành niên: Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định trong BLDSnăm 2005 và một số 12 văn bản quy phạm pháp luật khác. Căn cứ vào Hiến pháp năm 2013 (Điều 27) và BLDS năm 2005 (Điều 18) thì người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên. Người chưa thành niên là những đối tượng còn phải sống phụ thuộc vào gia đình, dễ bị ảnh hưởng mạnh từ môi trường xung quanh. Độ tuổi này đang có sự non nớt về thể chất và nhận thức nên luôn cần được xã hội và pháp luật quan tâm chăm sóc nhiều hơn so với người thành niên, đồng thời cần nhận được sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đầy đủ từ cha mẹ. Người chưa thành niên có cha mẹ ly hôn cóquyền được hưởng những quyền mà mọi trẻ em được hưởng như học tập, vuichơi, sự quan tâm, chăm sóc…Người chưathành niên chưa có đủ năng lực hành vi dân sự nên cần có người đại diện đểthực hiện các giao dịch dân sự hoặc tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. - Con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không cókhả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Đây là những người đã thành niên nhưng họ lại bị khiếm khuyết vềthể chất hoặc nhận thức nên không có khả năng lao động. Những người này không thể tự chăm sóc mình nên pháp luật vẫn quy địnhcha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con và đây là nghĩa vụ bắt buộc.Quy định này thể hiện tính nhân văn sâu sắc, tính nhân đạo của pháp luật bởivì, nếu chỉ dựa vào sự tự nguyện, trách nhiệm của cha mẹ thì quyền lợi củanhững người con sau ly hôn không phải lúc nào cũng được đảm bảo. Việc quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con đã thành niên bị tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong hệ thống pháp luật HN&GĐ nhằm nâng cao trách nhiệm của những người làm cha mẹ. Trước đây, Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998 quy định người tàn tật làngười "…bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểuhiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiếncho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn". Hiện nay khái niệmngười tàn tật được thay bằng khái niệm người khuyết tật theo Luật Ngườikhuyết tật năm 2009, theo đó, "người khuyết tật là người bị khiếm khuyết mộthoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạngtật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn". 13 Nhưng không phảimọi người con đã thành niên bị tàn tật cha mẹ đều phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng mà chỉ những người không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôimình. Còn những người đã đủ 18 tuổi, bị tàn tật nhưng vẫn lao độngđược thì họ có trách nhiệm với bản thân mình, có khả năng nuôi sông bản thân. Vì vậy đối với trường hợp con đã thành niên, bị tàn tật nhưng vẫn có khả năng lao lộng, pháp luật không quy định nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của cha mẹ. Việc cha mẹ tự nguyện hỗ trợ, giúp đỡ, chăm sóccon thành niên bị tàn tật và có khả năng lao động xuất phát từ tình yêu thương, sự quan tâm của cha mẹ mà không phải từ nghĩa vụ luật định. Người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của BLDS là người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,làm chủ được hành vi của mình và có quyết định của Toà án tuyên bố ngườiđó mất năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, BLDS năm 2005 cũng quy định: "Giao dịchdân sự của người mất năng lực hành vì dân sự phải do người đại diện theopháp luật xác lập, thực hiện". Người mất năng lực hành vi dân sự không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.Vì vậy họkhông có khả năng lao động tạo ra của cải nuôi sống bản thân và không tự thực hiện các giao dịch dân sự để phục vụ cuộc sống hàng ngày của mình. Dođó họ cần có người trông nom, chăm sóc và đại diện trước pháp luật để bảo vệquyền và lợi ích hợp pháp cho mình. 1.1.3. Nội dung hiệu lực của ly hôn đối với con Theo Khoản 1Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014, sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Các nghĩa vụ đồng thời cũng là quyền của cha mẹ đối với con đã có từ khi con sinh ra và không thể bị ảnh hưởng bởi việc ly hôn của cha, mẹ. Thực ra, tất cả các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đều được duy trì sau khi ly hôn: các quyền và nghĩa vụ ấy được xác lập trên cơ sở quan hệ cha mẹ-con chứ không phải quan hệ hôn nhân của cha và mẹ. Bởi vậy, điều buộc các đương sự về việc tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan