ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THU TRANG
HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THU TRANG
HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Công Giao
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thu Trang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ, hình vẽ
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG I: Lý luận chung về bầu cử và hệ thống bầu cử
7
1.1.
Bầu cử
7
1.1.1.
Khái niệm bầu cử
7
1.1.2.
Vị trí, vai trò của bầu cử
9
1.1.3.
Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới
11
1.2.
Hệ thống bầu cử
18
1.2.1.
Khái niệm hệ thống bầu cử
18
1.2.2.
Bản chất của hệ thống bầu cử
20
1.2.3.
Vị trí, vai trò của hệ thống bầu cử
22
1.2.4.
Tiêu chí đánh giá hệ thống bầu cử
25
CHƯƠNG II: Hệ thống bầu cử trên thế giới
38
2.1.
Các hệ thống bầu cử điển hình
38
2.1.1.
Phân loại các hệ thống bầu cử điển hình
38
2.1.1.1.
Hệ thống bầu cử đa số
39
2.1.1.2.
Hệ thống bầu cử đại diện tỉ lệ
43
2.1.1.3.
Hệ thống bầu cử hỗn hợp
48
2.1.1.4.
Một số hệ thống bầu cử khác
51
2.1.2.
Ưu điểm, hạn chế của các hệ thống bầu cử
52
2.2.
Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia
58
2.2.1.
Hệ thống bầu cử ở Ấn Độ
59
2.2.2.
Hệ thống bầu cử ở Cộng Hòa Ailen
63
2.2.3.
Hệ thống bầu cử ở New Zealand
68
2.3.
Xu hướng phát triển của hệ thống bầu cử trên thế giới
72
CHƯƠNG III: Thực trạng và việc hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam 80
80
3.1.
Hệ thống bầu cử Việt Nam từ năm 1945 đến nay
3.1.1.
Khái quát các giai đoạn phát triển của hệ thống bầu cử Việt
Nam từ năm 1945 đến nay
3.1.2.
80
Những điểm mới về hệ thống bầu cử trong Hiến pháp năm 2013
và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015
84
3.2.
Thực trạng hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay
88
3.2.1.
Những thành tựu cơ bản của hệ thống bầu cử ở Việt Nam
hiện nay
3.2.2.
88
Một số bất cập, hạn chế của hệ thống bầu cử ở Việt Nam
hiện nay
3.3.
91
Quan điểm, giải pháp hoàn thiện hệ thống bầu cử ở nước ta
99
hiện nay
3.3.1
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
99
3.3.2.
Đổi mới công tác hiệp thương
100
3.3.3.
Đổi mới về tổ chức phụ trách bầu cử
102
3.3.4.
Đổi mới về đơn vị bầu cử
103
3.3.5.
Đổi mới về công tác tuyên truyền và vận động bầu cử
105
KẾT LUẬN
106
Tài liệu tham khảo
110
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AV
: Phương pháp bầu cử lá phiếu có thể thay thế (Alternative Vote)
BC
: Phương pháp bầu cử Borda (The Borda Count)
BV
: Phương pháp bầu cử lá phiếu khối (Block Vote)
FPTP
: Phương pháp bầu cử về đích trước (First Past The Post)
HĐND
: Hội đồng nhân dân
IDEA
: Viện Quốc tế về Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử (The International
Institute for Democracy and Electoral Assistance)
List PR
: Phương pháp bầu cử đại diện tỉ lệ theo danh sách (List
Proportional Representation)
LV
: Phương pháp bầu cử lá phiếu hạn chế (Limited Vote)
MMP
: Phương pháp bầu cử đại diện tỉ lệ hỗn hợp (Mixed Member
Proportional)
MTTQ
: Mặt trận tổ quốc
NXB
: Nhà xuất bản
PBV
: Phương pháp bầu cử lá phiếu khối theo đảng phái chính trị
(Party Block Vote)
PR
: Phương pháp bầu cử song song (Parallel Systems)
SNTV
: Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất không chuyển nhượng
(Sing Non-Transferable Vote)
STV
: Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng
(Single Transferable Vote)
TRS
: Phương pháp bầu cử hai vòng (Two-Round System)
UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội
UNESCO
: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
(United Nations Educational Scientific and Cultural Organization)
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Nội dung
Trang
1
Bảng 2.1: So sánh ưu điểm, nhược điểm của các hệ thống bầu cử
53
2
Bảng 2.2: Hiệu quả hoạt động của Đảng BJP ở các cuộc tổng
tuyển cử ở Ấn Độ
61
3
Bảng 2.3: Sự thay đổi hệ thống bầu cử gần đây
74
4
Bảng 2.4: Phân bố các hệ thống bầu cử
78
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
STT
1
2
3
4
Nội dung
Hình 2.1: Sơ đồ các hệ thống bầu cử
Hình 2.2: Nhóm hệ thống bầu cử: Số lượng các quốc
gia và vùng lãnh thổ
Hình 2.3: Hệ thống bầu cử: Số lượng quốc gia và vùng
lãnh thổ
Hình 2.4: Hệ thống bầu cử: Tổng số dân (triệu)
Trang
39
76
77
77
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điểm 3 Điều 21 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người của Liên hợp
quốc thông qua năm 1948 đã trịnh trọng tuyên bố: “Ý chí của nhân dân là cơ
sở quyền lực của nhà nước, ý chí này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử
thường kỳ và chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông
đầu phiếu và bỏ phiếu kín hoặc bằng những tiến trình bầu cử tự do tương
đương” [20, tr.113]. Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 cũng quy định rõ ràng: “Mọi công dân, không có sự phân biệt
nào... và không có sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a)
Tham gia vào việc điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc
thông qua những người đại diện được họ tự do lựa chọn; b) Bầu cử và ứng cử
trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình
đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý nguyện của
mình...” [20, tr.113, 114]. Như vậy, ý chí của người dân được xem là nền tảng
của quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử, nhân dân thể hiện được ý chí của
bản thân để lựa chọn ra các chức danh đại diện cho mình thực hiện quyền lực
trong bộ máy nhà nước. Bầu cử tự do và công bằng được xem là tiền đề của
nền dân chủ, là phương pháp hợp pháp nhất trong số các phương pháp hợp
pháp để thành lập chính quyền. Do đó, lựa chọn hệ thống bầu cử phù hợp để
đảm bảo ý nguyện của người dân là một quyết định rất quan trọng đối với các
nước theo chế độ dân chủ, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự ổn định và bền vững
của thể chế chính trị. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia trên thế giới, hệ thống bầu
cử được lựa chọn một cách ngẫu nhiên, thường do ảnh hưởng tổ hợp của lịch
sử, các xu hướng chính trị hoặc tác động của các nước lân cận.
Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại thay đổi nhanh chóng và năng động
không chỉ về kinh tế, mà cả về nhiều vấn đề chính trị - pháp lý khác ở các
1
quốc gia, trong đó có bầu cử. Trong khoảng 3 thập kỷ gần đây, cách thức tổ
chức, quản lý, quy trình, thủ tục và phương pháp tổ chức bầu cử ở nhiều quốc
gia trên thế giới đã có những thay đổi rất lớn, một phần là để đáp ứng các yêu
cầu ngày càng cao về quyền làm chủ của người dân, phần khác là để áp dụng
những thành tựu vượt bậc của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin vào hoạt động tổ chức bầu cử.
Bầu cử dân chủ đã được thực hiện ở Việt Nam ngay sau khi đất nước
giành được độc lập, khởi đầu bằng cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên
(ngày 06 tháng 01 năm 1946). Hiến pháp năm 1946 đã xác lập những nguyên
tắc và quy định nền tảng, rất tiến bộ về bầu cử dân chủ, mà tiếp tục được kế
thừa và phát triển trong những Hiến pháp sau này. Ngoài Hiến pháp, hệ thống
pháp luật về bầu cử của nước ta còn bao gồm nhiều văn bản khác, trong đó
quan trọng nhất là các luật bầu cử. Hệ thống văn bản pháp luật này cũng được
xác lập từ rất sớm và chứa đựng những nội dung tiến bộ về bầu cử mà về cơ
bản là tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này.
Mặc dù vậy, sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng quốc tế
cũng như sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt của đất nước đang đặt ra
những yêu cầu cấp thiết về hoàn thiện pháp luật trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có pháp luật về bầu cử. Để thực thi Hiến pháp 2013, nhiều đạo luật đã được
soạn thảo mới và sửa đổi, bổ sung, trong đó bao gồm Luật bầu cử đại biểu
Quốc Hội và đại biểu HĐND. Mặc dù vậy, do bầu cử là một vấn đề rất rộng
lớn và phức tạp, hiện vẫn còn rất nhiều nội dung, trong đó bao gồm cách thức
tổ chức bầu cử cần được nghiên cứu hoàn thiện ở nước ta.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Hệ thống
bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay” để nghiên
cứu và làm văn luận tốt nghiệp với mục đích khái quát về một số hệ thống bầu
cử trên thế giới, phân tích các ưu – khuyết điểm của từng mô hình để từ đó rút
2
ra bài học kinh nghiệm quý giá nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử ở
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên phạm vi quốc tế, các cuộc bầu cử dân chủ bắt đầu được tổ chức
từ thế kỷ 17 ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Do vậy, số lượng công trình nghiên cứu về
bầu cử nói chung và hệ thống bầu cử nói riêng khá phong phú và đa dạng.
Trong số những nghiên cứu hiện nay về hệ thống bầu cử, ấn phẩm “Thiết kế
Hệ thống bầu cử” (Electoral system design) của Viện quốc tế về dân chủ và
hỗ trợ bầu cử (IDEA) được xuất bản năm 2005 tỏ ra hữu ích hơn cả. Nó đề
cập một cách trực tiếp và toàn diện đến những vấn đề lý luận, thực tiễn về hệ
thống bầu cử ở 213 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ở Việt Nam, cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, các bài viết
đăng tạp chí... về hệ thống bầu cử. Nổi bật trong những nghiên cứu hiện hành
là luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Nhiêm “Chế độ bầu cử ở nước ta –
những vấn đề lý luận và thực tiễn”, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm
2009. Bên cạnh đó, còn có những nghiên cứu tiêu biểu như: mục “Các hệ
thống bầu cử điển hình trên thế giới” (Mục 3.2, Chương 3) trong “Giáo trình
bầu cử trong nhà nước pháp quyền” của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh (nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2008). Thêm nữa, mục “Hệ thống bầu cử theo Hiến pháp
một số nước” (Mục III – Chương II) trong sách chuyên khảo “Một số vấn đề
cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới” (nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia – Sự thật, Hà Nội, 2012) do Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 ấn hành cũng rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu về hệ thống bầu cử.
Ngoài ra, Chương VII: “Chế độ bầu cử” trong Giáo trình Luật Hiến pháp
Việt Nam của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (nhà xuất ban Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014) cũng là một tài liệu nghiên cứu rất hữu ích.
3
Mặt khác, cũng có một số nghiên cứu của các chuyên gia về nội dung này,
tiêu biểu như bài viết “Một số hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới” của TS.
Vũ Văn Nhiêm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 (99), tháng 5 năm
2007. Hay bài viết của GS.TS. Thái Vĩnh Thắng với tiêu đề “Những bất cập
của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay”, đăng trong cuốn “Sửa đổi bổ sung
Hiến pháp 1992 – những vẫn đề lý luận và thực tiễn, tập 1” (nhà xuất bản
Hồng Đức, Hà Nội, 2012)....
Có thể nói, những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp những
kiến thức và thông tin khá toàn diện về hệ thống bầu cử trên thế giới và ở Việt
Nam. Mặc dù vậy, các nghiên cứu hiện có đều chưa đề xuất được một cách
đầy đủ sự cần thiết phải đổi mới cũng như cách thức đổi mới hệ thống bầu cử
như thế nào để phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Chính vì vậy, vẫn cần có
thêm những nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống bầu cử ở nước ta. Luận văn
này góp phần khoả lấp khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận chung hệ thống bầu cử và các
hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên
cứu và có những đánh giá chung về hệ thống bầu cử ở Việt Nam trong thời
gian qua. Từ đó, chỉ ra những hạn chế của hệ thống bầu cử ở nước ta và đưa
ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể sau:
+ Làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về hệ thống bầu cử.
4
+ Nghiên cứu các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới, làm sáng rõ
những ưu – khuyết điểm của từng hệ thống bầu cử. Phân tích hệ thống bầu cử
ở một số quốc gia trên thế giới.
+ Đánh giá thực trạng hệ thống bầu cử ở nước ta và đưa ra quan điểm, giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng tổ
chức các cuộc bầu cử chính trị ở các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp luật bầu
cử của một số quốc gia dân chủ trên thế giới và pháp luật bầu cử hiện hành
của Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học xã hội, bao gồm tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh... để làm rõ
các câu hỏi nghiên cứu đặt ra.
6. Những điểm mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
Những điểm mới của luận văn bao gồm:
Một là, làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về hệ thống bầu cử.
Hai là, phân loại các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới, đánh giá
được các ưu điểm và khuyết điểm của từng hệ thống bầu cử. Lấy ví dụ về hệ
thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới.
Ba là, đánh giá thực trạng của hệ thống bầu cử ở Việt Nam. Từ đó, nêu
lên những quan điểm, giải pháp để hoàn thiện hệ thống bầu cử phù hợp với
thực tiễn của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Với những điểm mới nêu trên, về mặt lý luận, luận văn góp phần bổ
sung những kiến thức lý luận về bầu cử ở Việt Nam. Đồng thời, về mặt thực
5
tiễn, luận văn khái quát, giới thiệu thực trạng hệ thống bầu cử ở nước ta và
đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử
trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ
quan nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bầu cử. Đồng thời,
bổ sung một học liệu cho việc nghiên cứu, học tập của các sinh viên, học viên
ngành luật ở Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác
của Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Kết cấu luận văn bao gồm: Mở đầu, phần nội dung, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung của luận văn được chia thành 03
chương như sau:
- Chương I: Lý luận chung về bầu cử và hệ thống bầu cử
- Chương II: Hệ thống bầu cử trên thế giới
- Chương III: Thực trạng và việc hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam
6
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ
BẦU CỬ VÀ HỆ THỐNG BẦU CỬ
1.1. Bầu cử
1.1.1. Khái niệm bầu cử
Bầu cử được xem là “trái tim của dân chủ” [27, tr.174]; là một chế định
trọng tâm của các chính thể dân chủ đại diện.
Có nhiều định nghĩa về bầu cử, tuy nhiên, từ góc độ khái quát nhất, có
thể hiểu bầu cử là một quy trình chính trị - pháp lý trong đó người dân tự do
bỏ phiếu lựa chọn ra những người vào làm việc trong bộ máy nhà nước để
thay mặt mình quản lý xã hội [7, tr.341]. Hay nói một cách đơn giản hơn, bầu
cử là phương thức để nhân dân lựa chọn người đại diện và ủy thác quyền lực
cho người đại diện [20, tr.15]. Điều này được thể hiện ở các góc độ sau:
Thứ nhất, bầu cử là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của
con người. Bất cứ một quốc gia nào, một xã hội nào trong giai đoạn nào thì
khi nói đến bầu cử là nói đến việc lựa chọn. Mặc dù vậy, đối tượng được lựa
chọn có thể không giống nhau. Hiện nay, phổ biến nhất trong hệ thống bầu cử
ở nhiều nước là lựa chọn các đại biểu trong cơ quan lập pháp. Các nước tư sản
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, vì vậy, bầu
cử không những là phương thức thành lập cơ quan lập pháp mà còn được áp
dụng để bầu các chức danh trong các nhánh quyền lực khác như Tổng thống,
các Thị trưởng và có thể là các chức danh trong các cơ quan tư pháp [2, tr.80].
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc
về nhân dân cho nên bầu cử là phương thức để thành lập ra các cơ quan đại
diện quyền lực nhà nước. Tóm lại, các đại biểu, các chức danh từ kết quả của
7
bầu cử đều trở thành người đại diện cho nhân dân vì họ do nhân dân trực tiếp
bầu ra và trao quyền.
Thứ hai, bầu cử là việc ủy thác quyền lực của nhân dân đến người
được chọn lựa. Điều đó có nghĩa là thông qua hành vi bỏ phiếu, người dân lựa
chọn và đồng thời trao quyền lực của mình cho người mà mình đã lựa chọn.
Chủ thể nào được lựa chọn thông qua bầu cử thì chủ thể đó nhận quyền lực từ
nhân dân. Tuy nhiên, mức độ quyền lực mà người đại diện được nhân dân ủy
quyền không chỉ đơn thuần là hành vi bỏ phiếu mà còn liên quan đến việc chủ
thể nào quy định quyền lực của cơ quan đại diện và quyền hạn, nhiệm vụ đại
biểu dân cử. Trong các nền dân chủ đương đại thì vấn đề phân công quyền lực
nhà nước và mức độ trao quyền lực thường được quy định trong Hiến pháp
của mỗi nước. Như vậy, phạm vi thẩm quyền của người đại diện không do cử
tri trực tiếp quyết định trong bầu cử mà do Hiến pháp quy định. Nói cách
khác, trong bầu cử, cử tri chỉ trao quyền cho người đại diện. Ai được cử tri
lựa chọn thì người đó sẽ nhận được quyền lực từ nhân dân còn vấn đề nhận
được bao nhiêu quyền lực sẽ do Hiến pháp quy định. Như vậy, nếu Hiến pháp
– văn bản phân công quyền lực là do nhân dân thông qua thì nhân dân không
những trực tiếp lựa chọn, trực tiếp trao quyền mà còn trực tiếp quy định về
phạm vi thẩm quyền cho người đại diện. Trong trường hợp nhân dân không
thông qua Hiến pháp thì nhân dân chỉ trao quyền cho người đại diện thông
qua bầu cử. Phạm vi thẩm quyền bao nhiêu, “nhiều” hay “ít” là do Hiến pháp
ấn định [20, tr.17,18]. Tuy thẩm quyền của người đại diện được quy định
trong Hiến pháp, nhưng nếu không được người dân chọn qua bầu cử thì
không thể tồn tại quyền lực của người đại diện. Do vậy, ngay cả trong trường
hợp nhân dân không trực tiếp thông qua Hiến pháp thì vẫn có thể khẳng định
rằng hành vi bỏ phiếu của cử tri đồng nghĩa với việc cử tri trao quyền lực của
mình cho người mình chọn.
8
Tóm lại, bầu cử trước hết là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa
chọn của con người. Nó phát triển cùng với quá trình phát triển của con người
và bầu cử ngày càng mang tính chính trị - pháp lý sâu sắc. Thông qua bầu cử,
ý chí của người dân được “chuyển hóa” sang cơ quan đại diện. Có thể nói,
bầu cử không những quyết định ứng cử viên, đảng phái chính trị, lực lượng xã
hội nào được bầu chọn mà nó còn quyết định cách thức chuyển hóa quyền lực
từ nhân dân sang người đại diện. Kết quả của bầu cử phản ánh tỷ lệ “thu
phục” niềm tin đối với cử tri của các đảng phái chính trị, lực lượng chính trị
và “biến” tương quan đó thành “ghế” trong cơ quan đại diện [2, tr.82].
1.1.2. Vị trí, vai trò của bầu cử
Thứ nhất, bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với việc kiến tạo chế độ dân chủ [38, tr.1]. Một chế độ chỉ được coi
là dân chủ khi và chỉ khi có các cuộc bầu cử. Đó là bởi bầu cử cho phép người
dân không chỉ trao quyền cho những người đại diện thay mặt mình quản lý xã
hội mà còn là công cụ quan trọng để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước,
chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của bộ máy nhà nước. UNESCO cũng đã
khẳng định có bốn yếu tố cấu thành căn bản của một nền dân chủ, đó là: 1)
Các quyền và tự do cơ bản của con người; 2) Các cuộc bầu cử tự do và công
bằng; 3) Chính quyền công khai và chịu trách nhiệm giải trình; 4) Có sự hiện
hữu của một xã hội dân chủ, hay nói cách khác là một xã hội “dân sự” [40].
Thông qua bầu cử, người dân có thể tự do lựa chọn những người thay mặt
mình thực hiện quyền lực nhà nước và cũng chỉ những người được chọn lựa
qua bầu cử mới trở thành đại diện cho nhân dân để thực thi quyền lực thay
cho nhân dân. Nếu các nguyên tắc bầu cử được tuân thủ, bầu cử cho phép
người dân chọn ra những đại diện tốt nhất về năng lực và tư cách theo ý
nguyện của mình để ủy quyền điều hành đất nước. Mặt khác, việc tổ chức bầu
cử định kỳ, có sự cạnh tranh giữa các ứng cử viên sẽ cho công chúng khả
9
năng phế truất những chính khách tha hóa, yếu kém và giám sát hành động
của những chính khách khi đương chức thông qua kế hoạch, ý định điều hành
đất nước mà họ nêu ra trong quá trình tranh cử. Như vậy, bầu cử tạo điều kiện
để người dân tạo dựng và kiểm soát bộ máy nhà nước hoạt động theo các tiêu
chuẩn pháp quyền và dân chủ [7, tr.347].
Thứ hai, bầu cử có vai trò hợp pháp hóa chính quyền, bảo đảm tính
“chính danh” và sự ổn định của chính quyền. Bầu cử là cách thức lựa chọn
những người thực thi quyền lực nhà nước thông qua bỏ phiếu phổ thông theo
các thủ tục quy định trong Hiến pháp và pháp luật, trong đó mọi công dân đủ
điều kiện đều có quyền tham gia, vì thế quyền lực của những người được lựa
chọn có tính hợp pháp, từ đó tạo cơ sở cho cho sự ổn định của bộ máy chính
quyền. Hội nghị an ninh và hợp tác châu Âu (Organization for Security and
Co-operation in Europe - CSCE) đã khẳng định “ý chí của nhân dân thông
qua bầu cử định kỳ và chân thực là nền tảng cho thẩm quyền và tính hợp
pháp của quyền lực nhà nước” [39]. Trong thế giới hiện đại, chính quyền
thành lập không qua bầu cử, như bằng đảo chính quân sự, bất luận dù nhằm
mục đích gì (kể cả được coi là chính đáng, như chính quyền quá “thối nát”),
thường không được các quốc gia, các tổ chức quốc tế công nhận, hoặc có
chăng thì sự thừa nhận hết sức dè dặt. Ngược lại, một chính quyền do người
dân thành lập thông qua bầu cử theo những nguyên tắc tiến bộ: tự do, công
bằng và trung thực, thì về nguyên tắc, chính quyền đó được coi là hợp pháp
và được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế [20, tr.53, 54]. Chỉ khi một chính
quyền được thiết lập nên bằng bầu cử thực chất, chính quyền đó mới được
người dân trong nước và cộng đồng quốc tế công nhận, do đó mới có thể tồn
tại, hoạt động ổn định, lâu dài.
Thứ ba, bầu cử là phương thức nhằm bảo đảm các quyền tự do dân chủ
của nhân dân, gồm quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, quyền vận động tranh cử,
10
quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội...
và cao nhất là quyền được lựa chọn và thay đổi chính quyền. Những quyền
này thuộc nhóm quyền về chính trị, dân sự đã được ghi nhận trong luật nhân
quyền quốc tế và Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một số
trong các quyền này không thể thực hiện được nếu không có bầu cử (ví dụ:
quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, quyền vận động tranh cử...); số khác (ví dụ:
quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội...)
tuy có thể thực hiện trong nhiều bối cảnh, song bầu cử vẫn là cơ hội cho phép
các quyền này được thể hiện một cách tập trung, mạnh mẽ và sâu đậm nhất
[7, tr.345].
1.1.3. Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới
Các nguyên tắc bầu cử là yếu tố quyết định chế độ bầu cử của một nước
có tiến bộ, minh bạch và hiệu quả hay không. Năm nguyên tắc bầu cử phổ
biến hiện nay được nhiều nước trên thế giới áp dụng là nguyên tắc tự do, phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc này không những
thống nhất mà còn có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau, là yếu tố
bảo đảm cho các cuộc bầu cử khách quan, dân chủ và tiến bộ.
Thứ nhất, nguyên tắc bầu cử tự do.
Bầu cử tự do là một nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp của
nhiều quốc gia. Tuy nhiên, nội hàm của nguyên tắc này cũng được hiểu ít
nhiều khác nhau.
Cách hiểu thứ nhất đề cập đến ý chí tự nguyện của người dân khi tham
gia vào tiến trình bầu cử. Cụ thể, nguyên tắc bầu cử tự do có nghĩa là mọi cử
tri có quyền tự quyết định có đi bỏ phiếu hay không và rộng ra là quyền tự
quyết định có tham gia vào tiến trình bầu cử hay không. Không một ai có
quyền gây ảnh hưởng hay bắt buộc công dân phải tham gia bầu cử. Cũng
không có công dân nào có thể bị trừng phạt nếu không tham gia bầu cử. Quy
11
định như vậy thể hiện sự tôn trọng tối đa quyền tự quyết của cử tri. Tuy nhiên,
cũng có một số nước quy định bầu cử là nghĩa vụ (hoặc đồng thời là nghĩa
vụ). Tính đến năm 2004, trên thế giới có 31 quốc gia quy định bầu cử là nghĩa
vụ bắt buộc, bao gồm: Achentina, Áo, Úc, Bỉ, Bôlivia, Braxin, Chile, Costa
Rica, Síp, Cộng hòa Đôminica, Ecuado, Ai Cập, Fiji, Ga-bông, Hy Lạp,
Goatemala, Hondurat, Ý, Liechtenstein, Lucxembua, Mehico, Nauru, Hà Lan,
Paraguay, Peru, Singapore, Thụy Sỹ, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uraguay,
Venezuela [43, tr.109]. Thực trạng trên xuất phát từ quan điểm về quyền và
nghĩa vụ bầu cử trên thế giới rất khác nhau. Những quốc gia quy định bầu cử
là nghĩa vụ cho rằng dân chủ cũng đòi hỏi trách nhiệm tham gia của công dân,
đặc biệt trong việc bỏ phiếu bầu ra người đại diện cho mình. Thêm vào đó
quy định bầu cử là nghĩa vụ sẽ tiết kiệm được ngân sách nhà nước và thời
gian của xã hội phải dành cho bầu cử. Tuy nhiên, những quốc gia quy định
bầu cử là tự nguyện thì cho rằng việc bắt buộc công dân đi bầu cử trái với tinh
thần tự do của một xã hội dân chủ, vi phạm quyền tự do tư tưởng của công
dân. Mặt khác, việc quy định bầu cử bắt buộc có thể gây ra sự phản kháng
ngầm. Nghiên cứu cho thấy ở các nước quy định bầu cử là nghĩa vụ, tỷ lệ
phiếu trống và phiếu không hợp lệ trong các cuộc bầu cử cao hơn so với
những nước quy định bầu cử tự do [43, tr. 106].
Cách hiểu thứ hai về nguyên tắc bầu cử tự do nhấn mạnh quyền được
“tự do lựa chọn” của công dân trong việc bỏ phiếu như được nêu trong luật
nhân quyền quốc tế. Cụ thể, về vấn đề này, Điều 21 Tuyên ngôn toàn thế giới
về nhân quyền năm 1948 quy định: “1. Mọi người đều có quyền tham gia
quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ
tự do lựa chọn; 2. Mọi người đều có quyền được tiếp cận các cơ quan công
quyền ở nước mình một cách bình đẳng; 3. Ý chí của người dân phải là cơ sở
tạo nên quyền lực của chính quyền, ý chí đó phải được thể hiện qua các cuộc
12
- Xem thêm -