Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Gốm bát tràng xưa và nay...

Tài liệu Gốm bát tràng xưa và nay

.PDF
82
127
84

Mô tả:

Header Page 1 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp LỜI CẢM ƠN Tác giả khóa luận xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc thầy giáo ThS. Phùng Gia Thế - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, giúp tác giả hoàn thành khóa luận này. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn thành khóa luận. Hà Nội, ngày 9 tháng 5 năm 2010 Tác giả khóa luận Trương Thị Mai Hương Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 1 of 75. Header Page 2 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp LỜI CAM ĐOAN Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của ThS. Phùng Gia Thế. Tôi xin cam đoan rằng: - Khóa luận này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi. - Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực. - Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kỳ công trình nghiên cứu nào từng được công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 9 tháng 5 năm 2010 Tác giả khóa luận Trương Thị Mai Hương Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 2 of 75. Header Page 3 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ....................................................................................... 5 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................ 5 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................... 6 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................... 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................ 7 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................. 8 6. Đóng góp của khóa luận .............................................................. 8 7. Bố cục của khóa luận................................................................... 8 NỘI DUNG .................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: LÀNG BÁT TRÀNG .............................................. 9 1.1. Khái niệm làng nghề................................................................ 9 1.2. Vị trí địa lý làng gốm................................................................ 9 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển làng gốm ................................ 11 1.4. Nét văn hoá làng gốm ............................................................... 18 CHƯƠNG 2: NGHỀ GỐM BÁT TRÀNG ................................... 25 2.1. Quy trình sản xuất gốm ............................................................ 25 2.1.1. Quá trình tạo cốt gốm ............................................................ 25 2.1.2. Quá trình trang trí hoa văn và tạo men ................................... 30 2.1.3. Quá trình nung ....................................................................... 34 2.2. Đặc điểm gốm Bát Tràng.......................................................... 40 2.2.1. Về loại hình ........................................................................... 41 2.2.2. Về trang trí ............................................................................ 45 2.2.3. Về dòng men ......................................................................... 47 2.3. Gốm Bát Tràng trong đối sánh với gốm Phù Lãng.................... 52 CHƯƠNG 3: GỐM BÁT TRÀNG - THỰC TRẠNG VÀ Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 3 of 75. Header Page 4 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ..................................................... 56 3.1. Thực trạng ................................................................................ 56 3.1.1. Thực trạng về sản xuất ........................................................... 56 3.1.2. Thực trạng về du lịch ............................................................. 60 3.2. Định hướng phát triển .............................................................. 62 3.2.1. Định hướng phát triển sản xuất .............................................. 62 3.2.2. Định hướng phát triển du lịch ................................................ 64 KẾT LUẬN .................................................................................... 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 69 PHỤ LỤC Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 4 of 75. Header Page 5 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Gốm là một trong những phát minh quan trọng đối với loài người nói chung cũng như đối với người Việt Nam nói riêng. Từ ngàn đời nay, đồ gốm đã gắn bó mật thiết với cuộc sống của nhân dân ta. Trong cuốn “Nghệ thuật gốm Việt Nam”, họa sĩ Trần Khánh Chương viết: “Việt Nam là một trong những nơi xuất hiện gốm sớm. Theo các tài liệu cổ, cách đây một vạn năm ở Việt Nam đã ra đời loại gốm đất nung. Với văn hóa Bắc Sơn (thời kì đồ đá mới) ngoài những đồ đá được ghè, đẽo, mài, người ta đã tìm thấy những mảnh gốm có niên đại xa xôi như ở Sũng Sàm (Hòa Bình), Bó Lún (Cao Bằng), Thẩm Hơi (Thanh Hóa)… Đồ gốm còn liên tục được phát hiện ở các di chỉ Quỳnh Văn (Nghệ Tĩnh), Mai Pha (Lạng Sơn), Đa Bút (Thanh Hóa). Với chí sáng tạo và bàn tay khéo léo của người thợ gốm, gốm cổ Việt Nam đã trở thành một loại hình nghệ thuật trang trí mang tính dân gian sâu sắc. Đến ngày nay, đồ gốm vẫn gắn bó mật thiết với cuộc sống của tất cả mọi người, ở tất cả mọi nơi, giản dị bình thường mà lại vô cùng thân thiết. Có thể nói gốm là biểu hiện của đặc trưng văn hóa dân tộc” [2 - tr. 18]. Những cái tên Bát Tràng, Chu Đậu, Phù Lãng, Hương Canh, Thanh Hà… đã trở nên nổi tiếng từ thế kỷ XV, XVI. Nhưng không ít làng gốm đã dần mai một theo thời gian bởi những điều kiện khách quan cũng như chủ quan, không còn phát triển thịnh vượng như những thế kỷ trước nữa. Tuy nhiên, trong số các làng gốm nói trên có thể nói Bát Tràng là một làng nghề truyền thống tiêu biểu, không chỉ trong quá khứ mà cả ở hiện tại vẫn giữ được nhịp độ phát triển của một làng nghề, lửa ở Bát Tràng chưa bao giờ tắt, thậm chí ngày càng vươn xa hơn, tỏa rộng hơn trong từng bước phát triển của mình. Từ xưa đến nay, gốm luôn gắn liền với đời sống và nghệ thuật, trở thành một chứng nhân cho đời sống của con người, in dấu những biến đổi của Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 5 of 75. Header Page 6 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp xã hội, kinh tế, văn hóa, tôn giáo ở mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước. Trong nhiều lò gốm trên cả nước, gốm Bát Tràng luôn là cái tên quen thuộc với nhiều người dân. Vì thế, tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng không chỉ là việc tìm hiểu một làng nghề, mà đó còn là việc tìm hiểu một địa chỉ văn hóa trong đời sống tinh thần của người Việt, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. Tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng còn có ý nghĩa lí luận - thực tiễn quan trọng đối với một sinh viên ngành Việt Nam học 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Gốm Việt Nam nói chung cũng như gốm Bát Tràng nói riêng có lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời. Nó đã thu hút được sự quan tâm chú ý của không ít các nhà nghiên cứu văn hóa cũng như các nhà khảo cổ học. Từ lâu, gốm đã là đối tượng nghiên cứu của không ít các học giả. Các tài liệu về gốm nói chung khá phong phú nhưng tài liệu đi sâu nghiên cứu về gốm Bát Tràng lại chưa nhiều. Năm 1989, Ủy ban nhân dân xã Bát Tràng đã cho biên soạn cuốn “Quê gốm Bát Tràng”. Trong cuốn sách này, các tác giả đã nêu lên lịch sử hình thành của làng gốm cũng như phong tục tập quán, nếp ăn ở sinh hoạt của người dân làng gốm: “Là một làng nghề đồng thời là một làng văn học cho nên người đàn ông Bát Tràng sống rất hào hoa còn phụ nữ thì đảm đang tháo vát” [20 - tr. 23]. Bên cạnh đó, cuốn sách còn miêu tả thực tế lịch sử của làng nghề trong những năm trước Cách mạng tháng Tám, và trong những năm chiến tranh: “Bát Tràng quê gốm, nhưng đâu chỉ có thuần nghề làm gốm. Trong mọi bước chuyển mình của đất nước, người Bát Tràng đều có mặt và để lại nhiều tấm gương tiêu biểu về lòng yêu nước, về tinh thần phấn đấu hy sinh. Có biết bao người của làng quê gốm đã đứng trong đội ngũ của thủ lĩnh Trần Thiện Thuật từng góp tiếng súng bắn vào đồn binh Pháp trên đất huyện Gia Lâm, khiến cho chúng vô cùng hoảng sợ” [20 - tr. 81]. Đồng thời cuốn Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 6 of 75. Header Page 7 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp sách cũng nêu ra những định hướng phát triển cho làng nghề trong những năm sau đổi mới của đất nước. Năm 1995, một số học giả của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam biên soạn cuốn “Gốm Bát Tràng thế kỷ XIV - XIX”. Trong cuốn sách này, các tác giả trình bày lịch sử hình thành và qui trình sản xuất đồ gốm Bát Tràng. Đặc biệt, cuốn sách có các bức ảnh minh họa đồ gốm của Bát Tràng từ thế kỷ XIV XIX mà Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã sưu tầm được, ngoài ra còn hệ thống được các minh văn thể hiện bằng khắc chìm hay viết bằng men lam dưới men trắng, cho biết những thông tin về niên đại, họ tên, quê quán tác giả chế tạo cũng như họ tên của người đặt hàng. Có thể nói, đây là hai công trình tiêu biểu đã lấy gốm Bát Tràng làm đối tượng nghiên cứu chính. Tuy nhiên cả hai cuốn đều được xuất bản cách đây nhiều năm, do đó chúng ta chỉ thấy được lịch sử hình thành, phát triển cũng như những đặc điểm của gốm xưa mà không thấy được những nét mới của gốm Bát Tràng ngày nay. Vì vậy, tác giả khóa luận đã mạnh dạn triển khai nghiên cứu đề tài “Gốm Bát Tràng xưa và nay”. 3. Mục đích nghiên cứu 3.1. Giới thiệu một làng gốm tiêu biểu của Việt Nam với quá trình hình thành, lịch sử phát triển, những nét văn hoá cổ truyền của làng gốm Bát Tràng. 3.2. Chỉ ra được những nét khác nhau về qui trình làm gốm, đặc điểm của gốm Bát Tràng xưa và nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng: toàn bộ những đặc điểm về lịch sử, văn hoá của làng gốm Bát Tràng, sản phẩm gốm Bát Tràng. Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 7 of 75. Header Page 8 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp 4.2. Phạm vi nghiên cứu: làng gốm Bát Tràng từ khi hình thành cho tới giai đoạn hiện nay; có sự so sánh để thấy được sự khác biệt, nét đặc trưng của làng gốm Bát Tràng. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, miêu tả. - Phương pháp khảo sát thực địa. 6. Đóng góp của khóa luận 6.1. Chỉ ra và nêu bật được những nét đặc sắc của làng gốm Bát Tràng một làng nghề truyền thống tiêu biểu của Việt Nam. 6.2. Trình bày có hệ thống về qui trình sản xuất và đặc điểm gốm Bát Tràng. 6.3. Nêu lên thực trạng của làng gốm hiện nay và đưa ra một số định hướng để bảo tồn và phát triển làng gốm Bát Tràng. 7. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Làng Bát Tràng Chương 2: Nghề gốm Bát Tràng Chương 3: Gốm Bát Tràng - thực trạng và định hướng phát triển Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 8 of 75. Header Page 9 of Kho¸ 75. luËn tèt nghiÖp NỘI DUNG CHƯƠNG 1 LÀNG BÁT TRÀNG 1.1. Khái niệm làng nghề Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống về “làng nghề”. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì: “Làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm tương… song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả… cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định, “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài” [11 - tr. 38, 39]. 1.2. Vị trí địa lý làng gốm Làng gốm Bát Tràng thuộc địa phận xã Bát Tràng. Xã Bát Tràng từ xưa đến nay đều thuộc cấp hành chính của huyện Gia Lâm. Qua nhiều nguồn tài liệu cho biết huyện Gia Lâm từ khi ra đời tới nay có vị trí tương đối ổn định. Theo sách “Đại Việt sử kí toàn thư”, tên gọi Gia Lâm xuất hiện từ thời nhà Lý (1010 - 1225): Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 9 of 75. Header Page 10 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp “Năm Giáp Thân (1044) đặt trạm Hoài Viễn ở bờ sông Gia Lâm để làm chỗ nghỉ cho người nước ngoài đến chầu” [8 - tr. 224] “Năm Nhâm Dần (1062) mùa xuân, quận Gia Lâm dâng con rùa sáu con ngươi và ba chân” [8 - tr. 231] Sau đó quận Gia Lâm đổi thành huyện vào thời Trần. Dưới thời Lý, Trần và Hồ (1010 - 1400), huyện Gia Lâm thuộc phủ Thiên Đức, lộ Bắc Giang. Khi Lê Lợi đại thắng quân Minh đã tiến hành phân chia lại các cấp hành chính cả nước thì huyện Gia Lâm được chia về phủ Thiên Đức thuộc Bắc Đạo. Vào năm thứ sáu niên hiệu Quang Thuận (1466) đời vua Lê Thánh Tông, huyện Gia Lâm chia về phủ Thuận An thuộc thừa tuyên Bắc Giang. Ba năm sau thừa tuyên Bắc Giang đổi thành trấn Kinh Bắc. Đến thời Nguyễn, năm thứ ba niên hiệu Minh Mạng (1822), huyện Gia Lâm thuộc phủ Thuận An, trấn Bắc Ninh. Năm 1831 trấn Bắc Ninh đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Năm 1862, huyện Gia Lâm chia về phủ Thuận Thành, vẫn thuộc tỉnh Bắc Ninh. Đến năm 1912, Gia Lâm lại thuộc phủ Từ Sơn. Từ 2/1949 huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Hưng Yên. 11/1949 lại thuộc về tỉnh Bắc Ninh. Đến 31/5/1961, huyện Gia Lâm nhập về ngoại thành Hà Nội. Tính đến thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802 - 1820), huyện Gia Lâm đã có cương vực gần như hiện nay. Sử sách ghi lại Gia Lâm dưới thời Đồng Khánh gồm mười tổng: Như Kinh, Kim Sơn, Đặng Xá, Gia Thị, Cự Linh, Đông Dư, Lạc Đạo, Cổ Biên, Nghĩa Trai và Đa Tốn. Lúc ấy tổng Đa Tốn có chín xã trong đó có xã Đông Cao (sau đổi thành Giang Cao), tổng Đông Dư có bốn xã trong đó có xã Bát Tràng. Đến năm 1948 xã Bát Tràng nhập với xã Giang Cao và xã Kim Lan lấy tên là xã Quang Minh. Đến 1964, Quốc hội khóa III nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định cho một số xã trở lại tên cũ, Bát Tràng được trở lại tên gọi cổ truyền. Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 10 of 75. Header Page 11 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp Như vậy xã Bát Tràng bao gồm hai xã Giang Cao và Bát Tràng gộp lại. Xã Bát Tràng nằm ở phần đất phía Đông Nam của huyện Gia Lâm và cũng là phần đất giáp ranh với tỉnh Hưng Yên. Phía Bắc xã Bát Tràng giáp xã Đông Dư, phía Đông giáp với xã Đa Tốn, phía Nam giáp xã Kim Lan và xã Xuân Quan. Bát Tràng có một vị trí tương đối thuận lợi, đến Bát Tràng bằng đường bộ hay đường thủy đều tiện. Năm 1958, nhà nước ta thực hiện công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải nhằm mục đích tưới tiêu cho đồng ruộng của ba tỉnh lúc bấy giờ là Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Từ đây tạo ra một con đường mới đi vào xã Bát Tràng. Từ Hà Nội, có thể theo đường thủy từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, xuôi theo sông Hồng đến bến đình Bát Tràng (cảng du lịch Bát Tràng). Nếu đi đường bộ, qua cầu Chương Dương hoặc Long Biên, dọc theo tuyến đê Long Biên - Xuân Quan, tới cống Xuân Quan rẽ tay phải đi khoảng một km sẽ tới trung tâm làng gốm Bát Tràng, hoặc đi từ quốc lộ 5, rẽ vào Trâu Quỳ, qua xã Đa Tốn lên đê tới cống Xuân Quan rồi lại rẽ tay phải là tới Bát Tràng. Ngày nay việc đến Bát Tràng càng thuận lợi và nhanh chóng hơn khi công ty vận tải Hà Nội mở tuyến xe buýt số 47 về tới tận chợ gốm Bát Tràng vào năm 2006. 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển 1.3.1. Quá trình hình thành Tên gọi Bát Tràng có từ bao giờ? Và nghề làm gốm xuất hiện khi nào? Theo sử sách ghi chép lại, ta có thể xem thế kỷ XIV - XV là thời gian hình thành làng gốm Bát Tràng: Trong “Đại Việt sử ký toàn thư” có nói đến vụ lụt lội xảy ra vào tháng bảy năm Nhâm Thìn, năm thứ mười hai niên hiệu Thiệu Phong nhà Trần (1352) “nước sông lớn tràn lan, vỡ đê Bát - Khối, lúa má bị ngập…” [8 - tr. 281]. Đê Bát - Khối ở đây chính là đê Bát Tràng và Cự Khối. Cũng Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 11 of 75. Header Page 12 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp trong sách này ghi vào tháng mười hai năm Bính Thìn, năm thứ tư niên hiệu Long Khánh (1376), vua Trần Nhân Tông mang mười hai vạn quân có đi qua “bến sông xã Bát” (Trần Duy Anh chú giải “xã Bát” chính là xã Bát Tràng). Trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi cũng có nhắc đến làng gốm Bát Tràng: “Làng gốm Bát Tràng làm đồ bát chén”, “Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Cầu thuộc huyện Văn Giang - hai làng ấy chuyên cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là bảy mươi bộ bát đĩa, hai trăm tấm vải thâm”. [18 - tr. 33] Tuy nhiên, theo dân gian truyền lại thì làng gốm Bát Tràng có thể ra đời sớm hơn. Hiện nay vẫn có một huyền thoại được truyền khẩu qua nhiều thế hệ người làng gốm về nguồn gốc của nghề gốm. Chuyện kể rằng: vào thời Trần, có ba vị đỗ Thái học sinh được triều đình cử đi sứ phương Bắc là Hứa Vĩnh Kiều người Bát Tràng, Đào Trí Tiến người làng Thổ Hà và Lưu Phương Tú người làng Phù Lãng. Sau khi hoàn tất công việc ngoại giao, trên đường về nước qua vùng Thiều Châu (Quảng Đông) gặp bão lớn phải dừng nghỉ lại. Tại đây có xưởng gốm Khai Phong nổi tiếng, ba ông đã đến thăm và học lấy nghề gốm cùng một số kỹ thuật đem về truyền bá cho dân chúng quê mình. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng, vì thế mà Bát Tràng đã nổi tiếng chuyên chế các đồ gốm men sắc trắng; Đào Trí Tiến truyền cho làng Thổ Hà nước men sắc vàng đỏ; còn Lưu Phương Tú truyền cho làng Phù Lãng nước men sắc vàng thẫm. Ở làng Phù Lãng và Thổ Hà cũng lưu truyền câu chuyện có nội dung tương tự như trên chỉ có ít khác biệt về tình tiết, đó là thời điểm ba vị đi sứ là vào cuối thời Lý, vị thứ nhất tên Hứa Vĩnh Cảo và vị thứ ba có tên Lưu Vĩnh Phong. Nếu truyền thuyết trên là đúng thì nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý. Tuy nhiên cốt lõi thực hư của câu chuyện này ra sao? Tên họ của ba vị Thái học sinh kể trên tới nay chưa có cơ sở nào để khẳng định và quan trọng ở Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 12 of 75. Header Page 13 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp Bát Tràng chưa ai thừa nhận Hứa Vĩnh Kiều là ông tổ nghề của mình. Còn có một giả thiết khác của học giả nước ngoài cho rằng nghề gốm ở nước ta là do một người thợ Trung Quốc có tên là Hoàng Quảng Hưng - người đã đến định cư tại Bát Tràng và dạy cho nhân dân ở đây nghề gốm. Tuy nhiên giả thiết này đã được các nhà nghiên cứu sử học và khảo cổ học của nước ta kết luận là sai lầm và không có căn cứ chính xác. Chưa tính đến gốm Bát Tràng, gốm Việt Nam nói chung với những dấu vết đã tìm được thì các nhà khảo cổ học cho biết chúng có niên đại từ hơn 6.000 năm trước. Đến giai đoạn gốm men Đại Việt (thế kỷ XI trở đi) thì trên đất nước ta đã hình thành nhiều trung tâm gốm: Hà Bắc, Thanh Hóa, Thăng Long, Đà Nẵng… Những trung tâm này mọc lên nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng chùa tháp cùng với những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của vua chúa triều đình. Còn có một truyền thuyết nữa về làng Bát Tràng. Theo các cụ kể lại, trong số các dòng họ ở Bát Tràng có dòng họ Nguyễn Ninh Tràng. Chữ “Tràng” cũng có thể đọc chệch là “Trường”. Vậy phải chăng đây là dòng họ Nguyễn từ Vĩnh Ninh (Thanh Hóa) - nơi đã từng sản xuất loại gạch xây thành có tiếng trong lịch sử? Tiếp sau dòng họ Nguyễn là dân làng Bồ Bát (Bồ Xuyên và Bạch Bát) thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hóa ngoại; ngày nay Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, vùng này có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề gốm. Theo truyền thuyết và gia phả một số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm lâu đời, điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm dày đặc tìm thấy ở nhiều nơi của vùng này. Tương truyền lúc đầu có năm cụ thuộc các dòng họ Lê, Trần, Vương, Phạm, Nguyễn đem gia quyến đến vùng bảy hai gò đất trắng này để lập nghiệp. Họ sống quần tụ với những người thuộc dòng họ Nguyễn Ninh Tràng, lập thành phường sản xuất gốm gọi là Bạch Thổ Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 13 of 75. Header Page 14 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp phường, sau đó đổi thành phường Bá Tràng, rồi đến cuối thời Trần mang tên xã Bát và sang thế kỷ XV mang tên Bát Tràng. Từ đây nghề gốm ngày một phát triển, số gia đình từ làng Bồ Bát kéo ra ngày một đông. Đình làng Bát Tràng hiện nay còn giữ câu đối ghi dấu việc chuyển cư này: “Bồ di thủ nghệ khai đình vũ Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần” Dịch nghĩa là: Đem nghề nghiệp từ làng Bồ Bát ra đây để xây dựng đình miếu Lòng dân thành kính tựa hương lan dâng lên cúng tạ thánh thần. Đến thời Lê Trung Hưng ở Bát Tràng đã có tới hai mươi dòng họ. Qua gia phả của một số dòng họ, ta cũng biết đến thời điểm chuyển cư tới Bát Tràng của các dòng họ này là vào khoảng cuối thời Trần (thế kỷ XIV) và thời Lê sơ (đầu thế kỷ XV): - Gia phả họ Trần có ghi: “Cụ khởi tổ nguyên quán tại xã Bồ Bản tỉnh Thanh Hóa. Năm ba mươi tuổi, gia đình bị hỏa hoạn bèn cùng với người trong xã là họ Vương, họ Lê, họ Phạm và họ Nguyễn đến phường Bạch Thổ để sinh cơ lập nghiệp”. - Gia phả họ Lê cũng ghi: “Trước khi dân Bồ Bát (Thanh Hóa) gặp thời loạn lạc, cuối Trần đầu Lê ông cụ nhà ta là Phúc Thái cùng với cụ bà đến chỗ bến sông, dựng nhà cửa sống bằng nghề làm gốm…” Dân làng Bát Tràng chủ yếu sống bằng nghề thủ công làm gốm, còn lại làm quan, dạy học, buôn bán. Làng Bát Tràng lợi thế sông nước bến bãi nhưng ruộng đất trồng cấy chẳng có là bao. Trước đây làng chỉ có bảy mươi, tám mươi mẫu đất bãi để trồng đậu. Số đất này được chia đều cho các suất đinh từ 18 - 60 tuổi trong các họ. Tuy nhiên số đất đó cũng không cố định vì thỉnh thoảng lại có nạn lở đất nên ba đến bốn năm làng phải chia lại đất cho đều. Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 14 of 75. Header Page 15 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp Như vậy chỉ có câu chuyện về làng Bồ Bát chuyển cư và định cư tại Bát Tràng là có cơ sở thực tế, gắn liền với thực tiễn lịch sử, với căn cứ gia phả các dòng họ còn đến nay. Nghề gốm ở Bát Tràng gắn liền với quá trình lập làng, có thể coi thời điểm cuối thời Trần (thế kỷ XIV) là thời điểm mở đầu, hình thành nên làng gốm Bát Tràng. 1.3.2. Quá trình phát triển 1.3.2.1. Thế kỷ XV - XVI Trong thế kỷ XV, dưới triều Lê (1428 - 1527) và thế kỷ XVI (1527 - 1592) làng gốm Bát Tràng trở nên phát đạt, chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp cởi mở hơn, không chủ trương “ức thương” như thời kỳ trước nên kinh tế hàng hóa có điều kiện phát triển thuận lợi. Sản phẩm gốm Bát Tràng cũng phong phú và được lưu thông rộng rãi. Đặc biệt trong bộ sưu tập gốm Bát Tràng thời nhà Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, họ tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này, ta thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quí tộc nhà Mạc. Người đặt hàng trải ra một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bát Tràng đã sản xuất được những sản phẩm cao cấp đáp ứng được nhu cầu của tầng lớp quí tộc và nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Người sản xuất được ghi tên vào sản phẩm gốm có cả nam và nữ. Họ đều là những nghệ nhân nổi tiếng của làng gốm Bát Tràng. 1.3.2.2. Thế kỷ XVI - XVII Vào thời gian này gốm Bát Tràng phát triển trong bối cảnh kinh tế mới của đất nước và khu vực. Sau những phát kiến địa lý cuối thế kỷ XV, nhiều nước phát triển của Tây Âu như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… tràn sang phương Đông, đua nhau lập công ty, xây dựng căn cứ để buôn bán với khu vực này. Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 15 of 75. Header Page 16 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp Nhà Minh ở Trung Quốc sau khi thành lập (1371) có chủ trương cấm tư nhân buôn bán với nước ngoài, làm cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung Quốc bị hạn chế, từ đó tạo điều kiện cho gốm sứ Việt Nam mở rộng thị trường ở Đông Nam Á. Đến năm 1644 nhà Thanh lại thi hành chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Chính trong thời gian này, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó có gốm sứ không bị hàng Trung Quốc cạnh tranh, lại có điều kiện phát triển hơn. Chính bối cảnh trên đã thúc đẩy sự phát triển của kinh tế Việt Nam, thế kỷ XVI - XVII là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm xuất khẩu trong đó ở phía Bắc có hai trung tâm quan trọng và nổi tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu. Trong khi đó Bát Tràng có may mắn nằm bên bờ sông Nhị, ở khoảng giữa Thăng Long và phố Hiến - hai đô thị, hai trung tâm mậu dịch lớn nhất thời bấy giờ, trên đường thủy nối liền hai đô thị này, là cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. 1.3.2.3. Thế kỷ XVIII - XIX Ngay từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, việc buôn bán xuất khẩu đồ gốm sang Đông Nam Á bị giảm sút nhanh chóng. Năm 1684 sau khi giải phóng Đài Loan, triều Thanh bãi bỏ chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn vào thị trường Đông Nam Á, đồ gốm Việt Nam không đủ sức cạnh tranh. Nhật Bản cũng bắt đầu mở cửa, kinh tế phát triển, không phải mua sản phẩm của nước ngoài như trước kia. Bối cảnh trên cùng với chính sách hạn chế ngoại thương của chính quyền Trịnh - Nguyễn (thế kỷ XVIII) và của triều đình nhà Nguyễn (thế kỷ XIX) đã làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Đây chính là lý do khiến một số trung tâm gốm bị tàn lụi. Ví dụ như gốm Chu Đậu đã từng phát triển rực rỡ ở thế kỷ Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 16 of 75. Header Page 17 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp XV - XVI nhưng sau đó hầu như bị xóa bỏ, đến mức độ ngày nay cư dân sống trên mảnh đất này không còn biết nghề gốm. Gốm Bát Tràng tuy có bị ảnh hưởng nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những sản phẩm đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và gạch xây dựng - những sản phẩm thiết yếu cho mọi tầng lớp xã hội từ quí tộc đến dân thường. Cuối thế kỷ XVIII (năm 1791), nhà thơ Cao Huy Diệu ghé thuyền qua bến Bát Tràng có ghi lại bài thơ “Bát Tràng vãn bạc” (Buổi trưa đậu thuyền ở Bát Tràng) với lời tiểu dẫn: “Năm Giáp Dần tôi đi chơi, bèn đáp thuyền buôn cùng đi. Đúng trưa đậu thuyền ở bến Bát Tràng, thấy phố chợ đông đúc, hàng bày đầy ắp, mái chèo đi lại tới tấp, ngoài bờ sông một bãi dâu xanh mướt, cảnh xuân như vẽ”. Bài thơ như sau: “ Sông lớn dừng thuyền ở bến ngang Đến đây lò bát chốn quê hương Sờ sờ đất mới làn roi nổi Thăm thẳm nương dâu bãi bạt ngàn Đi lại lối quen nơi phát đạt Bán buôn tấp nập khách giàu sang” Chỉ qua bài thơ trên ta cũng có thể thấy Bát Tràng vẫn là một trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong nước. 1.3.2.4. Từ thế kỷ XIX trở đi Trong thời kỳ Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường. Bên cạnh những hộ sản xuất cá thể, đã xuất hiện một số chủ lò giàu có. Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, đến năm 1957 các cá nhân là địa chủ ở đây đã góp vốn thành lập công ty gốm Trường Thịnh, sản xuất đồ gốm sứ dân dụng phục vụ xã hội. Năm 1958, khi nhà nước có chính sách công tư hợp Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 17 of 75. Header Page 18 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp doanh thì công ty được chuyển đổi thành xí nghiệp sứ Bát Tràng với số công nhân có lúc lên tới 1.250 người. Với cơ sở vật chất đầy đủ, nhân công Bát Tràng được thử nghiệm, thực hành, sáng tạo trên cơ sở sự cần cù, chịu khó. Từ đó mà một thế hệ có tay nghề gốm vững chãi được hình thành. Cũng trong thời gian này, các xí nghiệp và hợp tác xã liên tục ra đời: xí nghiệp X51, X54, hợp tác xã Hợp Thành, Hưng Hà, Hợp Lực… Các cơ sở trên chuyên cung cấp hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng thủ công mỹ nghệ và một số mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh những nghệ nhân có tiếng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn, Nguyễn Văn Cổn… Bát Tràng đã đào tạo được hàng trăm thợ gốm trẻ cung cấp cho các lò gốm mới mở trên cả nước. Từ 1986 trở đi, trong công cuộc đổi mới chung của cả nước, làng gốm Bát Tràng đã có nhiều chuyển biến lớn theo xu hướng kinh tế thị trường. Một số xí nghiệp kịp thời chuyển hướng sản xuất vẫn tồn tại và phát triển. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần. Phổ biến ở Bát Tràng hiện nay là những đơn vị sản xuất theo qui mô hộ gia đình. Xã Bát Tràng ngày nay bao gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao, là một trung tâm gốm lớn của nước ta. Sản phẩm gốm Bát Tràng ngày càng phong phú đa dạng, có mặt trên thị trường cả nước từ Bắc chí Nam, được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. 1.4. Bát Tràng - làng quê văn hóa 1.4.1. Nhìn lại những dấu tích xưa Như mọi làng quê Việt Nam xưa, tại Bát Tràng có văn chỉ, đình, chùa, đền, miếu khang trang. Dường như những công trình kiến trúc ấy là những dấu hiệu chứng minh về một làng quê văn hiến. Nơi đó chẳng những là niềm tự hào, là nơi thiêng liêng để gửi gắm những ước mơ, khát vọng của mỗi người dân mà còn là nơi mọi người cùng tham gia những sinh hoạt cộng đồng với hội hè đình đám hàng năm. Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 18 of 75. Header Page 19 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp 1.4.1.1. Đình Bát Tràng Là một trong những ngôi đình lớn của xứ Kinh Bắc xưa, đình Bát Tràng không thờ tổ nghề mà thờ Lục vị Thành hoàng. Theo bài “Tạo đình kí” thì Đình được làm lại, lợp ngói với qui mô đồ sộ vào tháng Chạp năm Canh Tý (1720) niên hiệu Bảo Thái đời vua Lê Dụ Tông. Đình xây dựng theo kiểu chữ Nhị, phía trong là tòa Đại bái gồm năm gian hai chái, cột đình được làm bằng những cây gỗ lim to, các gian bên được lát bục gỗ để làm chỗ ngồi. Địa thế của ngôi Đình rất đẹp, trông ra dòng sông Nhị mênh mông, xa xa là núi Tam Đảo, Ba Vì. Trải qua bao cơn dâu bể, hiện nay Đình không còn nguyên vẹn như xưa, nhân dân Bát Tràng nhiều lần sửa sang để lấy nơi thờ cúng. Đình Bát Tràng được chia làm năm nóc: Nóc Ninh Tràng thờ Hán Cao Tổ và Lữ Hậu Nóc Bảo Ninh thờ Cai Minh Chinh tự đại vương Nóc Đông Hội thờ Phan Đại Tướng Nóc Kỳ Thiện thờ Hộ Quốc Thần Nóc Đoài thờ thần Bạch Mã Hiện nay, đình Bát Tràng còn giữ được hơn năm mươi đạo sắc của các thời Lê - Tây Sơn và thời Nguyễn phong cho các Thần hoàng. Xưa nhất là đạo sắc thời Lê Cảnh Hưng. Đặc biệt có nhiều đạo sắc của đời Quang Trung. Đây là những di vật vô cùng quí giá mà đình Bát Tràng còn lưu giữ được. Và trong đình làng có nhiều câu đối thờ mang ý nghĩa ca tụng quê hương trong thời thái bình thịnh trị. 1.4.1.2. Văn chỉ Bát Tràng Văn chỉ Bát Tràng được dựng ở phía sau đình Bát Tràng. Trên Tam quan văn chỉ có ba chữ lớn bằng đá “Ngưỡng di cao” có nghĩa là “trông lên vời vợi”. Văn chỉ có kiến trúc theo kiểu chữ Nhị đều dựng năm gian. Bức Hoành Phi bằng gỗ sơn son thếp vàng, ở tiền tế có hai chữ “Văn hội” (hội của Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 19 of 75. Header Page 20 ofKho¸ 75. luËn tèt nghiÖp làng văn). Trong văn chỉ có bệ thờ Đức Khổng Tử và bảy mươi hai vị học trò. Bên trên bệ là bức hoành phi có dòng chữ “Thiên địa đồng lưu” (trời đất cùng luân chuyển). Trước kia, mỗi khi hội họp làng văn, các quan viên coi việc ở Văn Chỉ lại đem hai bức trướng vóc có ghi đủ họ tên 364 vị khoa bảng của làng treo lên vị trí trang trọng để mọi người chiêm ngưỡng. Đây chẳng những biểu hiện nét tự hào riêng của nhân dân Bát Tràng mà còn là nguồn động viên, khuyến khích các thế hệ con cháu chuyên tâm học hành tấn tới. 1.4.1.3. Đình Giang Cao và chùa Kim Trúc Đình Giang Cao hiện chỉ còn tòa tiền tế, tòa hậu cung không còn nữa. Trên nền cũ của hậu cung, dân làng đã dựng lại vài gian để thờ cúng. Đình thờ ai và được xây dựng từ bao giờ tới nay không còn đủ tư liệu để khảo cứu. Chùa Kim Trúc là ngôi chùa chính của làng Bát Tràng. Chùa nằm bên cửa sông Nhị. Đáng tiếc nay chùa không còn nữa, tuy nhiên theo những gì được truyền lại thì chùa đã từng có kiến trúc với qui mô rất lớn. 1.4.1.4. Chùa Bảo Minh và chùa Tiêu Dao Chùa Bảo Minh xưa kia được dựng ở ngoài bãi sau làng, trên nền của hàng trăm ngôi mộ vô chủ. Nay chùa không còn, chỉ còn một quả chuông đồng, trên có bốn chữ lớn “Bảo Minh tự chung” - chuông chùa Bảo Minh. Chuông cao gần một mét được đúc vào tháng Chạp năm Ất Mão (1795) năm thứ ba niên hiệu Cảnh Thịnh. Đây là một hiện vật quí, góp thêm vào khối di sản văn hóa của thời Tây Sơn. Chùa Tiêu Dao nằm ở địa phận thôn Giang Cao. Kiến trúc chùa xưa không còn, trên nền cũ của chùa hiện nay là trường Trung học cơ sở Bát Tràng. Tương truyền chùa xưa có qui mô to lớn, xây dựng trên nền đất cao, địa thế đẹp, trông về hướng Nam. Hiện vật duy nhất còn lại của ngôi chùa là quả chuông đồng, đúc vào tháng ba năm Giáp Thân (1824), năm thứ ba niên Tr­¬ng ThÞ Mai H­¬ng Footer Page 20 of 75.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất