LỜI NÓI ĐẦU:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam hội nhập ngày càng
sâu rộng với kinh tế quốc tế thì các giao dịch dân sự, thương mại được xem
như một công cụ hữu hiệu giúp các chủ thể tìm kiếm được lợi ích của mình.
Một nền kinh tế năng động luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro và việc nhận
biết chúng, khắc phục và ngăn chặn những rủi ro ngay từ chính những giao
dịch được kí kết là một cách làm khôn ngoan và chủ động mà các nhà làm
luật đã dự phòng thông qua việc thiết kế qui định pháp luật về các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Và một trong những hoạt động tích cực
và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham
gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Giao dịch
dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm
thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, và trong sản xuất kinh
doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa qua trọng trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế cho thấy giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể vẫn là
vấn đề phức tạp, gây ra nhiều vướng mắc. Việc nắm vững và hiểu rõ một số
vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể có ý nghĩa rất
quan trọng với mỗi người trong xã hội hiện nay.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ
thể:
1, Giao dịch dân sự:
Theo Điều 121 BLDS 2005 :“Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn
phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân hoặc của các chủ thể khác
nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc làm chấm dưt quyền và nghĩa vụ dân sự”
Hợp đồng dân sự là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của hai hay nhiều
bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp
đồng dân sự là loại giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống hằng ngày.
Thông thường hợp đồng có hai bên tham gia trong đó thể hiện sự thống nhất
ý chí của các chủ thể trong một quan hệ cụ thể (mua bán, cho thuê…) nhưng
cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia (hợp đồng hợp tác – Điều 111
1
BLDS 2005). Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể
tham gia. Trong hợp đồng ý chí của một bên đòi hỏi sự đáp lại của bên kia,
tạo thành sự thống nhất ý chí của các bên, từ đó mới hình thành được hợp
đồng. Do vậy, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận ý chí của hai hay nhiều bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của
một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương. Thông thường, hành vi pháp lý
đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất (lập di
chúc, từ chối hưởng thừa kế). Có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia vào
một bên của giao dịch (hai cá nhân, tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng…).
Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và hình thức
phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 122
BLDS).
Ý chí tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự:
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý
chí, cho nên tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ
ý chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu một
trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất cũng không thể có tự
nguyện. Sự tự nguyện của một bên (hành vi pháp lý đơn phương) hoặc sự tự
nguyện của các bên trong một quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các
nguyên tắc được quy định tại điều 4 BLDS năm 2005: Tự do, tự nguyện cam
kết thỏa thuận. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi phạm pháp luật. Vì
vậy, giao dịch thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Bộ
luật dân sự quy định một số trường hợp giao dịch xác lập không có sự tự
nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các trường hợp vô hiệu do giả tạo, do nhầm lẫn,
do bị lừa dối, bị đe dọa, do xác lập tại thời điểm không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình.
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận là một nguyên tắc cơ
bản trong giao dịch dân sự. Điểm c khoản 1 Điều 122 BLDS 2005 quy định:
Chủ thể của giao dịch dân sự có thể là cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình nhưng trực tiếp tham gia giao dịch bao giờ cũng là con người cụ thể.
Dù với tư cách cá nhân hay với tư cách đại diện cho pháp nhân, tổ hợp tác,
hộ gia đình thì người tham gia giao dịch dân sự cũng phải hoàn toàn tự
nguyện.
2
Tự nguyện được hiểu là sự phù hợp, thống nhất giữa mong muốn bên
trong với sự bày tỏ mong muốn đó ra bên ngoài bằng một hình thức nhất
định. Ý chí của chủ thể phải là ý chí đích thực, tức là nguyện vọng, mong
muốn chủ quan bên trong của chủ thể không bị tác động bởi bất cứ yếu tố
khách quan hay chủ quan nào khác dẫn tới việc chủ thể đó không nhận thức
hoặc kiểm soát được ý chí của mình. Giữa ý chí đích thực của chủ thể (bên
trong) với sự biểu hiện ý chí (sự biểu hiện ra bên ngoài) phải có sự thống
nhất. Nếu không có sự thống nhất ý chí thì chủ thể không có sự tự nguyện.
2.
Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể:
Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là giao dịch vi
phạm sự thống nhất giữa mong muốn bên trong với sự bày tỏ, thể hiện mong
muốn đó ra bên ngoài. Vi phạm sự tự nguyện trong giao dịch dân sự có thể
là hành vi vô ý hoặc cố ý thực hiện hoặc không thực hiện đúng những cam
kết, thỏa thuận, điều kiện mà một bên đưa ra và được bên kia chấp nhận.
Trong những trường hợp một người không muốn tham gia một giao
dịch nhưng họ buộc phải tham gia giao dịch đó hoặc muốn tham gia giao
dịch này nhưng buộc phải chấp nhận một nội dung khác vì những lý do nhất
định làm cho họ không xử sự khác được thì giao dịch đó sẽ bị coi là vi phạm
sự tự nguyện của chủ thể.
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể:
Vô hiệu theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực, không có hiệu
quả”. Như vậy, có thể suy ra là giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không
tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý.
Thông thường giao dịch hợp pháp sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, xuất phát từ các nguyên
nhân khác nhau mà giao dịch có thể có sự vi phạm vào một trong các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Điều 127 BLDS 2005 quy định giao
dịch dân sự vô hiệu là “Giao dịch không có một trong các điều kiện được
quy định tại Điều 122 của Bộ luật này”.
Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là giao dịch dân sự
vô hiệu do không có một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự là “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện” (Điểm c khoản 1
Điều 122 BLDS 2005).
3.
Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ
thể:
3
Để đảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận trong
giao dịch dân sự được quy định tại Điều 4 BLDS 2005, pháp luật dân sự
cũng đã quy định một trong các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực đó
là: “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện” (Điều 122 BLDS
2005).
Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể bao
gồm:
3.1
Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo:
- Khái niệm giả tạo trong giao dịch dân sự:
Giả tạo được hiểu là không thật, vì được tạo ra một cách không tự
nhiên. Như vậy, giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch dân sự được tạo ra một
cách không tự nhiên.
Đối với giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo, chủ thể hoàn toàn
mong muốn sự thể hiện một ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định
mặc dù ý chí đó không phải là ý chí đích thực. Do đó, có thể hiểu giao dịch
dân sự được xác lập do giả tạo là giao dịch dân sự được xác lập để nhằm che
dấu một giao dịch khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo theo quy định của pháp luật:
Điều 129 BLDS 2005 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân
sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo
vô hiệu, còn giao dich bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch
đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp giao dịch
giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”
Trên cơ sở xác định mục đích của việc xác lập giao dịch giả tạo, Điều
129 BLDS 2005 đã phân chia giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo thành
hai trường hợp:
+) Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một giao dịch
khác:
Như vậy, ít nhất trong trường hợp này có hai giao dịch song song
tồn tại đó là giao dịch đích thực (bên trong) và giao dịch giả tạo (giao dịch
che dấu, thể hiện ra bên ngoài).
Giao dịch giả tạo để nhằm che giấu giao dịch khác luôn luôn vô hiệu,
còn giao dich đích thực (giao dịch bên trong) vẫn có hiệu lực pháp lý. Tuy
nhiên, nếu giao dịch đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự thì có thể vô hiệu.
4
Vụ án cụ thể: A là thành viên của 1 Công ty TNHH có 3 thành viên
A,B,C. Năm 2002 vì cần vay tiền Ngân hàng nên A đồng ý cho công ty
mượn tài sản là 1.1992m2 đất để thế chấp vay. A,B,C đã lập 1 biên bản giả
có nội dung: công ty uỷ quyền cho A mua đất chứ không phải đất của A.
Nhưng biên bản này không được Ngân hàng chấp nhận vì thế họ đã phải làm
thủ tục bảo lãnh cho công ty vay tiền Ngân hàng bằng quyền sử dụng đất của
A. Tháng 4/2005 A xin rút khỏi Công ty và Công ty chỉ còn 2 thành viên B
và C. Đến tháng 6/2005 Công ty trả hết nợ, lấy các giấy tờ bảo lãnh tại ngân
hàng, nhưng không trả lại giấy tờ đất cho A mà lại tiến hành khởi kiện đòi A
phải giao đất cho công ty. Căn cứ kiện là biên bản giả lập ban đầu mà A sơ
suất không huỷ sau khi Ngân hàng không chấp nhận. Vậy, A có thể làm gì
để bảo vệ quyền lợi của mình đối với mảnh đất?
Như vậy, biên bản có nội dung "diện tích 1.992m2 là tài sản của công
ty, ông A chỉ là người đứng tên" chỉ là biên bản giả được các thành viên
công ty thoả thuận lập ra nhằm mục đích để Ngân hàng cho vay tiền (vì theo
quy định người vay phải có tài sản thế chấp cho Ngân hàng để đảm bảo cho
khoản vay). Tuy nhiên Ngân hàng đã không chấp nhận biên bản này mà yêu
cầu ông A đứng ra bảo lãnh cho khoản vay của Công ty (vì ông A là người
đứng tên quyền sử dụng đất). Yêu cầu của Ngân hàng là phù hợp với quy
định của điều 366 Bộ luật dân sự cụ thể: "1. Bảo lãnh là việc người thứ ba
(gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo
lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. 2. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng
tài sản thuộc sở hữu của mình" .
Việc Ngân hàng đã chấp nhận sự bảo lãnh của ông A (bằng tài sản
1.992m2 đất do ông đứng tên) và cho Công ty của ông vay tiền là căn cứ để
chứng minh: biên bản do 3 thành viên của công ty lập chỉ là giao dịch dân sự
giả tạo còn giấy tờ đất đứng tên ông mới là giao dịch thật. Căn cứ điều 138
Bộ luật dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau:
"Khi các bên xác lập giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che giấu 1 giao
dịch khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có
hiệu lực".
Vì ông A đã sơ suất không huỷ biên bản giả này nên Công ty (cụ thể là
2 thành viên B và C còn lại sau khi ông A đã rút khỏi Công ty) đã sử dụng
để làm căn cứ kiện đòi ông phải giao đất. Căn cứ khoản 2 điều 58 Bộ luật tố
5
tụng dân sự quyền của bị đơn khi tham gia tố tụng như sau: "a). Có quyền
cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.b) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho toà án". Do đó ông có thể
yêu cầu Ngân hàng cung cấp các tài liệu gồm: hồ sơ vay vốn ban đầu (có sử
dụng biên bản giả) và hồ sơ vay vốn lần thứ hai (có giấy tờ của ông cam kết
bảo lãnh cho công ty vay tiền bằng tài sản của ông là quyền sử dụng
1.992m2 đất). Các chứng cứ này sẽ giúp ông chứng minh quyền sở hữu của
ông đối với diện tích 1.992m2.(căn cứ theo phần tư vấn pháp luật của báo Kinh tế và đô thị )
- Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba:
Trong trường hợp này, giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện
khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn
tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Thông thường, việc trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba thường thể hiện ở hai trường hợp:
+ Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với
một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác giao dịch
giả tạo.
+ Khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa
vụ nhất định đối với Nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập giao dịch với sự giả
tạo.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt
đối (đương nhiên vô hiệu), hay nói cách khác, giao dịch dân sự vô hiệu do
giả tạo là giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (Khoản 2 Điều 136 BLDS 2005).
3.2
Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn:
- Khái niệm nhầm lẫn trong giao dịch dân sự:
Theo nghĩa thông thường, nhầm lẫn được hiểu là hành vi thực hiện
hoặc nhận thức không đúng với ý định của người thực hiện hành vi hay nhận
thức. Trong khoa học pháp lý, nhầm lẫn được hiểu là sự thể hiện không
chính xác ý muốn đích thực của một bên hoặc các bên trong giao dịch dân
sự. Hay nói theo cách khác, ở đó không có sự thống nhất giữa ý muốn thật
và ý chí bày tỏ ra bên ngoài của chủ thể. Bên cạnh đó, cũng có cách hiểu cho
rằng nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch mà
6
tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Dù cách thể
hiện ngôn từ có khác nhau, nhưng về cơ bản, nhầm lẫn chính là sự không
phù hợp giữa việc thể hiện ý chí của chủ thể với thực tế của sự việc.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật:
Điều 131 BLDS 2005 quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên
kia nhầm lẫn về nội dung của giao dich dân sự mà xác lập giao dịch thì bên
bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó,
nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho
bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy
định tại Điều 132 của Bộ luật này”.
Nhầm lẫn là việc mà các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch
dân sự mà tham gia xác lập giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên
kia. Sự nhầm lẫn về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện ra rõ
ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị
nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch đó bị tuyên
bố vô hiệu.
Theo Điều 131 BLDS 2005, pháp luật dân sự Việt Nam coi các nhầm
lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch dân sự là yếu tố đưa đến sự vô hiệu
của giao dịch dân sự. Như vậy, các nhầm lẫn về nội dung không chủ yếu,
cũng như những nhầm lẫn về chủ thể, nhầm lẫn về luật không được thừa
nhận là yếu tố đưa đến sự vô hiệu của giao dịch.
Nếu một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch thì sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối.
Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là giao dịch bị hạn chế về thời
hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136
BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
do nhầm lẫn là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
Vụ án cụ thể: Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Việt Á
Châu (bên mua) đã kiện Công ty TNHH Connell Bros (bên bán) để đòi bồi
thường thiệt hại do việc hàng hóa do Công ty TNHH Connell Bros cung cấp
không đạt yêu cầu về chất lượng. Cụ thể như sau: Ngày 7/7/2003, Công ty
TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Việt Á Châu (Công ty Việt Á Châu) ký
hợp đồng số 241/03-VU mua của Công ty TNHH Connell Bros (Công ty
Connell Bros) sản phẩm Myflame 84527E, số lượng 16.080 kg (67 thùng
ống), đơn giá 2,9 USD/kg CIF HCMC, trị giá hợp đồng 46.632 USD, xuất
7
xứ hàng hóa: Vương quốc Anh. Sau đó, ngày 11/7/2003 các bên lại ký tiếp
hợp đồng số 243/03-VU mua 10.080 kg sản phẩm trên, trị giá 29.232 USD
và 5.987,472 kg sản phẩm Performax TF 1133, trị giá 20.357,40 USD. Điều
khoản chất lượng của hai hợp đồng này chỉ ghi “theo Bản đặc điểm kỹ
thuật” (same as Specifications).
Sau khi ký hợp đồng mua hàng với Công ty Connell Bros, bên mua đã
ký hợp đồng số 086/07-2003-VG-GCDI ngày 18/7/2003 gia công cán phủ
chất chống cháy lên vải Poly-oxford cho Xí nghiệp may Bình Thạnh thuộc
Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh –
GILIMEX. Ngày 19/8/2003, bên mua đã giao lô hàng thành phẩm cho Xí
nghiệp may Bình Thạnh. Đến giữa tháng 9/2003, Xí nghiệp Bình Thạnh phát
hiện ra số hàng gia công không đạt yêu cầu do loại chất Myfame 84527E nói
trên: vải được gia công ra không khô, dẻo dính, bong tróc. Vì thế, Xí nghiệp
Bình Thạnh đã từ chối thanh toán tiền gia công cho bên mua.
Vụ kiện được xử sơ thẩm lần đầu tiên vào ngày 28/9/2004 và đã trải
qua bốn phiên xét xử với những kết luận khác nhau qua mỗi lần xét xử. Lần
xét xử sơ thẩm thứ nhất vào ngày 28/9/2004, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh đã bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (Công ty Việt Á Châu) đòi
bị đơn bồi thường thiệt hại do hàng hóa cung cấp không đúng chất lượng và
chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn (Công ty Connell Bros) về yêu cầu
thanh toán tiền hàng còn thiếu của nguyên đơn đối với bị đơn 1. Bản án sơ
thẩm đã bị kháng cáo và bị Tòa phúc thẩm hủy án để giao cho Tòa sơ thẩm
giải quyết lại2. Vụ kiện sau đó đã được Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh và
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm
và phúc thẩm lại vào các ngày 1/8/2006 và 12/7/2007. Cả hai Tòa này đều
tuyên hai hợp đồng mua bán trên vô hiệu do nhầm lẫn và tranh chấp của các
bên được giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế về xử lý
hợp đồng vô hiệu: “Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã
nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp không thể trả được
bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền… Thiệt hại phát sinh, các bên tự gánh
chịu”3.
(1) Xem Bản án số 245/KTST ngày 28/9/2004 của Tòa án nhân dân TP.HCM.
(2) Xem Bản án số 37/KTPT ngày 20/10/2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại TP.HCM.
8
(3) Xem Bản án số 380/2006/KDTM-ST ngày 01/8/2006 Tòa án nhân dân TP.HCM và
Bản án phúc thẩm số 68/2007/KDTM-PT ngày 12/7/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại TP.HCM.
3.3
Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối:
- Khái niệm lừa dối trong giao dịch dân sự:
Theo cách nói thông thường thì lừa dối là bằng thủ đoạn nói dối để
gian lận, để làm người khác lầm tưởng mà tin rằng đó là sự thật nên xác lập
giao dịch. Hay nói cách khác, lừa dối là hành vi cố ý đưa thông tin sai lệch
để người khác tin đó là sự thật mà xác lập giao dịch.
Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối trong giao dịch dân sự là một xảo
thuật dùng để lừa gạt người khác. Từ những lời lẽ gian dối đến mánh khóe
xảo trá dùng để khiến người khác xác lập giao dịch mà lẽ ra bình thường họ
không làm như vậy đều là lừa dối. Điều 132 BLDS 2005 quy định: “Lừa dối
trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.
Lừa dối có điểm giống nhầm lẫn ở chỗ là cả hai đều liên quan đến
việc trình bày một cách trực tiếp hay gián tiếp về những sự việc không đúng
sự thật hay không tiết lộ một sự thật. Lừa dối khác nhầm lẫn ở chỗ là sự
nhầm lẫn vốn do một bên tự mình không tìm hiểu hoặc hiểu sai sự việc do
lỗi vô ý của bên kia gây ra, còn sự lừa dối lại là sự hiểu sai do một bên hoặc
do người thứ ba cố ý gây ra.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo quy định của pháp luật:
Theo Điều 132 BLDS 2005 thì khi một bên tham gia giao dịch dân sự
do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô
hiệu.
Lừa dối ở đây được hiểu là hành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự. Như vậy, hành vi lừa dối có thể là
do một bên chủ thể xác lập giao dịch thực hiện mà cũng có thể là do người
thứ ba gây ra. Tuy nhiên, trong trường hợp người thứ ba gây ra thì cần phải
hiểu là người thứ ba đó phải có mối quan hệ với một bên chủ thể xác lập
giao dịch dân sự và bên chủ thể đó biết rõ hành vi lừa dối bên đối tác hiểu
sai lệch của người thứ ba. Khi đó, giao dịch đã được xác lập mới bị coi là vô
hiệu.
9
Để đảm bảo quyền lợi của bên chủ thể bị lừa dối, pháp luật cũng quy
định chỉ có bên chủ thể bị lừa dối mới có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự đó vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối là giao dịch
bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
(khoản 1 Điều 136 BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu do lừa dối là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được
xác lập.
Vụ án cụ thể: Bà Huỳnh Kim Dung (sinh năm 1958, ở số 100/3C khu
phố Miễu Ba, thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ). Tháng 6/2005, bà Dung
buôn bán nghêu bị thất bại nên lâm vào cảnh khó khăn.
Bà Dung được một người quen giới thiệu gặp ông Nguyễn Trọng Hiếu
(ở khu phố 2, phường Tân Quy, quận 7 tp HCM) để vay tiền. Ông Hiếu yêu
cầu để đảm bảo viêc trả nợ vay, bà Dung phải ký hợp đồng “giả cách” bán
nhà đất cho ông. Ông Hiếu nói : “đây chỉ là hợp đồng mang tính thủ tục, khi
vay tiền ai cũng làm như vậy”. Số tiền vay sẽ được ghi trong hợp đồng là
khoản tiền đặt cọc để mua nhà đất. Ông Hiếu hứa khi bà Dung trả nợ xong,
ông sẽ trả lại giấy chủ quyền nhà đất và sẽ hủy hợp đồng. Vì quá túng quẫn
và do cả tin lời ông Hiếu, bà Dung chấp nhận ký hợp đồng.
Ngày 28/6/2005 ông Hiếu giao cho bà Dung 207,5 triệu đồng nhưng
trong hợp đồng lại ghi là 250 triệu đồng trong đó có 10% (25 triệu đồng) phí
dịch vụ vay tiền và 7% (17,5 triệu đồng) tiền lãi suất tháng đầu tiên.
Gần 4 tháng sau, do lãi suất quá cao, bà Dung không có tiền đóng lãi
nên ông Hiếu đe dọa sẽ lấy đất. Vì sợ chồng biết chuyện, bà Dung đồng ý
vay thêm tiền của ông Hiếu để trả nợ trước đó. Ông Hiếu bảo bà ký vào biên
nhận bổ sung tiền đặt cọc 70 triệu đồng nhưng thực chất ông Hiếu chỉ đưa
cho bà Dung 15,5 triệu đồng. Số tiền còn lại ông Hiếu bảo trừ vào 3 tháng
tiền lãi (số tiền vay 250 triệu đồng trước đó) hết 52,5 triệu đồng và 2 triệu
tiền dịch vụ vay tiền. Sau đó, bà Dung vay ông Hiếu 2 lần nữa để đóng lãi
vay trước đó.
Trong cả 4 lần vay, tổng cộng bà Dung đã nhận của ông Hiếu là 265
triệu đồng nhưng trên giấy tờ là 433 triệu đồng. Đầu năm 2007 ông Hiếu đã
kiện bà Dung ra Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, yêu cầu chuyển lô đất và
nhà có diện tích 10.321m2, trị giá trên 8 tỷ đồng cho ông theo hợp đồng mà
trước đó bà Dung đã ký với ông với giá là 400 triệu đồng.
Giao dịch dân sự này vô hiệu do bị lừa dối. Ở đây hợp đồng "giả
cách" như ông Hiếu nói với bà Dung là nhằm lợi dụng sự kém hiểu biết của
10
bà Dung cũng như sự túng quẫn để bà Dung kí hợp đồng, "là hành vi cố ý
của một bên... nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của
đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó".
3.4
Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa:
- Khái niệm đe dọa trong giao dịch dân sự:
Đe dọa trong giao dịch là hành vi làm cho một người khiếp sợ, khiến
người này phải xác lập giao dịch ngoài ý muốn của họ. Đe dọa trong giao
dịch có thể thể hiện dưới hai hình thức: đe dọa về thể chất và đe dọa về tinh
thần.
Điều 132 BLDS 2005 quy định: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi
cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực
hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy
tín,nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình”.
Để xác định là giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa, sự đe dọa
phải đáp ứng được các yêu cầu:
Thứ nhất, bên đe dọa thực hiện hành vi đe dọa với lỗi cố ý, mục đích
là buộc chủ thể phía bên kia phải xác lập giao dịch dân sự với mình hoặc xác
lập giao dịch dân sự với chủ thể mà bản thân bên đe dọa mong muốn;
Thứ hai, hành vi đe dọa nhằm làm cho bên kia “sợ hãi”, tức là bản
thân bên bị đe dọa hoàn toàn tê liệt ý chí mà không thể có một sự lựa chọn
nào khác;
Thứ ba, chủ thể bị đe dọa có thể là một bên trong giao dịch nhưng
cũng có thể là người khác. BLDS 2005 xác định những người này là cha,
mẹ, vợ, chồng, con;
Thứ tư, hành vi đe dọa chưa gây thiệt hại về đối tượng đe dọa mà
hành vi đó hướng tới, tức là bên bị đe dọa chỉ mới “sợ hãi” về hậu quả của
sự đe dọa có thể xảy ra.
Ví dụ: Ông A do bị ông B (cậy thế, cậy quyền) đe dọa mà buộc phải xác
lập một giao dịch với ông B. Sau khi xác lập giao dịch thì ông B tiếp tục đe
dọa làm cho ông A không dám khởi kiện ra Toàn cho đến khi hết 2 năm thì
ông B không đe dọa nữa lúc này ông A mớ làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch vô hiệu.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do đe dọa theo quy định của pháp luật:
11
Theo Điều 132 BLDS 2005 thì khi một bên tham gia giao dịch dân sự
do bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô
hiệu.
Đe dọa trong giao dịch dân sự được hiểu là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm
tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản
của mình hoặc của cha, mẹ, vơ, chồng, con của mình.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trong trường hợp này phải có yêu
cầu của bên bị đe dọa thì Tòa án mới tuyên giao dịch đó vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do đe dọa là giao dịch bị hạn chế về thời
hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136
BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự do đe dọa
vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
3.5
Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác
lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình:
+) Không nhận thức, làm chủ được hành vi của chủ thể trong giao dịch dân
sự:
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 17
BLDS 2005). Nó là thuộc tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập
của cá nhân trong các quan hệ dân sự. Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định
cá nhân nếu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có quyền tham gia vào
mọi quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về
những hành vi do họ thực hiện trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tuy nhiên, trên thực tế lại xảy ra những trường hợp mà tại thời điểm
nào đó, người có năng lực hành vi đầy đủ lại không thể nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình. Điều này có nghĩa là bình thường thì họ là
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng cũng có những thời điểm họ
lại bị rơi vào tình trạng không nhận thức và làm chủ ddđược hành vi của
mình, ví dụ như bị say rượu hay bị tâm thần phân liệt… Và việc chủ thể
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình phải xảy ra vào thời
điểm xác lập giao dịch dân sự thì mới trở thành yếu tố dẫn tới sự vô hiệu của
giao dịch. Vì khi đó giao dịch không đáp ứng được điều kiện tự do ý chí, vi
phạm sự tự nguyện của chủ thể.
12
II.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do vào thời điểm xác lập người xác lập không
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình:
Điều 133 BLDS năm 2005 quy định: “Người có năng lực hành vi dân
sự đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân
sự đó vô hiệu”.
Theo quy định của pháp luật thì trường hợp này chỉ áp dụng đối với
những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Bởi vì chỉ có những người
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mới có điều kiện về ý chí cũng như lý trí
để tham gia vào mọi quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên trên thực tế, có thể
do những bệnh lý hoặc do sự tác động từ các yếu tố bên ngoài mà có những
thời điểm họ không có đủ lý trí để nhận thức và điều khiển được hành vi của
chính mình. Lợi dụng điều này, các chủ thể khác có thể tham gia xác lập
giao dịch dân sự với họ với những nội dung có lợi cho mình.
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân khi tham gia vào giao dịch
dân sự, pháp luật dân sự quy định giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời
điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình là giao dịch vô hiệu; và người xác lập giao dịch vào thời điểm xác lập
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình có quyền yêu cầu Tòa
án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do người
xác lập không làm chủ và nhận thức được hành vi của mình là giao dịch bị
hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
(khoản 1 Điều 136 BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự do người xác lập không làm chủ và nhận thức được hành vi của
mình vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
Một số vấn đề khác về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện
của chủ thế:
1. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ
thể:
Khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu có nghĩa là giao dịch ấy
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo
đảm thực hiện. Theo Điều 137 BLDS 2005 quy định:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng
13
hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa
lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. nên có lỗi gây
thiệt hại phải bồi thường. ”.
1.1 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể
từ thời điểm xác lập:
Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể chính là vi phạm
một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy
định. Vì vậy, giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể sẽ bị coi là
vô hiệu. Khi đó, pháp luật sẽ không thừa nhận hiệu lực pháp lý của giao dịch
dân sự và nó sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì giao dịch này đương
nhiên vô hiệu kể từ thời điểm xác lập. Nếu giao dịch chưa được thực hiện thì
các bên không được thực hiện giao dịch nữa; trong trường hợp giao dịch
đang được các bên thực hiện thì các bên phải dừng ngay việc thực hiện,
không được tiếp tục thực hiên giao dịch đó nữa.
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay
do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì sẽ
xảy ra hai trường hợp:
- Nếu người bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay do người xác lập không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch đó vô hiệu trong thời hạn luật định và Tòa án ra quyết
định tuyên bố giao dịch đó vô hiệu thì lúc này giao dịch đã xác lập mới trở
nên vô hiệu. Khi đó, giao dịch đã xác lập sẽ bị vô hiệu từ thời điểm các bên
xác lập và do đó sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
của các bên kể từ thời điểm xác lập.
- Trong trường hợp người bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay do người xác
lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình nhưng họ không có
đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu hoặc hết
thời hiệu khởi kiện họ mới có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch vô hiệu thì giao dịch đó không trở nên vô hiệu. Giao dịch đó vẫn được
pháp luật thừa nhận hiệu lực pháp lý và các bên tham gia xác lập giao dịch
dân sự vẫn tiếp tục phải thực hiện tuân theo các điều khoản trong giao dịch.
Tức là, giao dịch mà các bên đã xác lập vẫn làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia xác lập giao dịch.
14
1.2 Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ
trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy
định của pháp luật:
Trong trường hợp các bên chưa thực hiện giao dịch thì không được tiếp
tục thực hiện giao dịch, nếu giao dịch được thực hiện đến đâu thì dừng đến
đó. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật các bên phải hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận. Hoàn trả tài sản là một trong những biện pháp phổ biến để
giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu nhằm khôi phục lại tình
trạng ban đầu. Trong giao dịch dân sự, quay lại tình trạng ban đầu được hiểu
là các bên quay lại thời điểm mà các bên tham gia xác lập giao dịch. Ví dụ:
A bán cho B một chiếc xe máy nhưng khi xác lập giao dịch, A bị B đe dọa
nên giao dịch đó không có sự tự nguyện. Sau khi giao dịch được một thời
gian nhất định (vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu), A yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu. Trong trường hợp này, B phải trả lại A chiếc xe máy mua của A và A
phải trả lại B tiền mà mình đã nhận thanh toán từ B khi xác lập hợp đồng
mua bán. Theo pháp luật của đa số các nước trên thế giới thì các tài sản được
hoàn trả cho nhau phải là tài sản hữu hình, thực tế mà các bên đã giao nhận
tại thời điểm xác lập.
Tuy nhiên trong thực tế tài sản được hoàn trả không phải lúc nào cũng
còn nguyên giá trị của nó tại thời điểm xác lập, thông thường nó bị biến đổi
do tác động của các yếu tố tự nhiên và xã hội làm không còn nguyên giá trị
ban đầu khi xác lập:
- Tài sản bị tác động của tự nhiên làm hao mòn hoặc xấu xí đi so với lúc ban
đầu khi giao kết;
- Tài sản có thể bị giảm giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của con người;
- Tài sản có thể bị giảm giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của quy luật kinh
tế thị trường: quy luật cung cầu; quy luật giá trị…
- Khi quản lý tài sản các đương sự có thể khai thác một số lợi ích trong đó và
cũng có thể đầu tư công sức tiền bạc làm tăng giá trị và giữ gìn, bảo quản tài
sản…
Cũng có trường hợp tài sản là đối tượng của giao dịch không còn (bị
tiêu hủy, bên nhận tài sản đã làm mất hoặc tiêu dùng hết ...) thì phải hoàn trả
bằng tiền.
15
Tuy nhiên, việc hoàn trả lại tài sản cho nhau phải được pháp luật cho
phép, tức là loại tài sản này không thuộc diện Nhà nước tịch thu, xung công
quỹ. Đó là trừ những trường hợp tài sản giao dịch là hoa lợi, lợi tức thu được
bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
1.3 Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường:
Vấn đề bồi thường chỉ được đặt ra khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế
do giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu do vi
phạm sự tự nguyện của chủ thể nói riêng. Khi giao dịch dân sự vô hiệu cần
xác định lỗi của các bên chủ thể để yêu cầu bồi thường cũng như để các bên.
Nguyên nhân dẫn tới giao dịch dân sự vô hiệu có thể có lỗi của một trong
hai bên hoặc của cả hai bên tham gia giao dịch, do đó cần xác định mức độ
lỗi của mỗi bên để có thể đưa ra hướng xử lý cụ thể.
Lỗi của các bên chủ thể có thể là lỗi cố ý, cũng có thể là lỗi vô ý.
Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn thì nhà làm luật đòi
hỏi một điều kiện bắt buộc đối với lỗi của bên chủ thể gây ra sự vô hiệu của
giao dịch đó là bên gây nhầm lẫn phải có lỗi vô ý. Nếu một bên do lỗi cố ý
làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì lý do dẫn tới sự vô
hiệu của giao dịch không phải là bên chủ thể còn lại bị nhầm lẫn nữa mà là
bị lừa dối (Điều 132 BLDS 2005). Bên cạnh đó, cũng giống như giao dịch
dân sự vô hiệu do lừa dối thì trong giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo hay
đe dọa, lỗi của bên chủ thể dẫn tới sự vô hiệu của giao dịch bắt buộc phải là
lỗi cố ý. Còn trong giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không làm
chủ, nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005) thì các nhà
làm luật không đề cập tới vấn đề lỗi. Như vậy, ở trong trường hợp này có thể
hiểu là lỗi cố ý mà cũng có thể là lỗi vô ý.
Chẳng hạn, trong việc xác định lỗi liên quan đến giao dịch mua bán
nhà ở giữa các cá nhân với nhau và được xác định là vô hiệu: hai bên cần
xác định lỗi của hai bên – bên mua và bên bán để xử lý hậu quả của hợp
đồng mua bán nhà ở vô hiệu. Một bên bị coi có lỗi nếu bên đó có hành vi
làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán
nhà ở là hợp pháp.
Bên bán bị coi là có lỗi: Bên bán bị coi là có lỗi nếu làm cho bên
mua tin tưởng là bên bán có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở hoặc
có hành vi gian dối để có được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và sử dụng các giấy tờ
16
này làm bằng chứng để ho bên mua tin và giao kết hợp đồng mua bán nhà ở
đó.
Bên mua bị coi là có lỗi: Bên mua bị coi là có lỗi nếu có hành vi
gian dối làm cho bên bán tin tưởng là tài sản đặt cọc, tài sản để thực hiện
nghĩa vụ thuộc quyền sở hữu của bên mua nên đã giao kết hoặc giao nhà ở
cho bên mua.
III. Thực trạng - Giải pháp đối với việc áp dụng luật, tuyên bố giao
dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và giải quyết hậu quả
pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự tại Tòa án ở nước ta.
Theo như thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng thì hiện
nay ở nước ta hàng năm số lượng án giao dịch dân sự chiếm tỷ lệ khá lớn so
với các án dân sự và hôn nhân gia đinh, chiếm một tỷ lệ cao khoảng 70% 80%, số lượng án giao dịch dân sự vô hiệu chiếm khoảng 15% - 20%, số
lượng án giải quyết ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa còn cao hơn
50%. Với một số lượng lớn như vậy thì trong thực tiễn còn đang tồn tại thì
hiện nay khi các bên tham gia giao dịch dân sự thông thường không nắm
được những quy định pháp luật mà chủ yếu giao dịch dưới dạng tự phát ,
dẫn đến nhiều giao kết vô hiệu ngay tại thời điểm ký kết mà các bên vẫn
không biết, vẫn thực hiện khi tranh chấp mới có yêu cầu hủy. Khi giải quyết
sự việc đã rồi các thẩm phán thường lúng túng, cân nhắc có nên hủy hay
không, nếu hủy giao dịch dân sự vô hiệu thì phù hợp với pháp luật nhưng
không phù hợp với thực tiễn và ngược lại, thậm chí có trường hợp tuyên bố
hủy nhưng vẫn công nhận. Mặt khác diễn biến của giao dịch dân sự vi phạm
sự tự nguyện của chủ thể phức tạp, sự phức tạp này do sự biến đổi về giá cả
thị trường, có tài sản bị chênh lệch giá cả giữa lúc xác lập giao dịch so với
lúc giải quyết là rất lớn gấp 4, 5 lần thậm trí gấp 10 lần. Trong khi đó đường
lối giải quyết hậu quả của các giao dịch dân sự vô hiệu lại không nhất quán
giữa các thành viên trong hội đồng xét xử, không mang lại công bằng cho
các bên đương sự, chính vì lẽ đó nhiều khi đương sự đã lợi dụng sơ hở của
pháp luật đã thất hứa, yêu cầu hủy giao dịch dân sự nhằm chuộc lợi cho
mình. Rồi có tình trạng có những vụ án đã giải quyết nhiều lần, nhiều cấp
khác nhau xét xử, có những vụ án đã được xét xử ở giai đoạn cao nhất là Hội
đồng Thẩm phán mà vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, các đương sự vẫn
tiếp tục khiếu nại căng thẳng. vì vậy mà các ngành chức năng nên tìm ra một
hướng đi có lợi nhất cho vấn đề này. Trước tiên vấn đề quan trọng nhất đó là
giáo dục cho mọi người dân hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật nói
17
IV.
chung và pháp luật dân sự về vấn đề giao dịch dân sự nói riêng. Bởi lẽ có
làm được điều này thì chúng ta sẽ hạn chế được một số lượng đáng kể các vụ
việc tranh chấp về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể. Thêm
vào đó về phía những người cầm cán cân công lý chúng ta cần bồi dưỡng
nâng cao trình độ hiểu biết hơn nữa cho các thẩm phán… và giữa những
người trong nội bộ hội đồng xét sử không chỉ các vụ án về giao dịch dân sự
mà các vụ án về vấn đề khác cũng cần phải có được tiếng nói chung. Tránh
tình trạng mỗi người một quan điểm, mỗi cấp một quan điểm như vậy se chỉ
làm cho nhân dân mất lòng tin có thể còn dẫn đến tình trạng một số đối
tượng lợi dụng sự bất đồng quan điểm đó nhằm chuộc lợi cho bảnn thân.
Ngoài ra các cấp chính quyền cũng cần xiết chặt hơn nữa công tác quản lý
về các mặt của đời sống của nhân dân để hạn chế được phần nào các vi
phạm pháp luật nói chung và vi phạm các hợp đồng giao dịch dân sự nói
riêng…
Một số ý kiến:
1. Về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể:
1.1 Giao dịch được xác lập do giả tạo: Cần phải có chế tài đối với những
trường hợp xác lập giao dịch giả tạo trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà nước.
Đặc biệt trong việc mua bán nhà ở và chuyển nhượng đất đai. Như trường
hợp khi tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hai bên chủ thể thỏa
thuận ghi giá chuyển nhượng thấp hơn so với giá thực tế hai bên thỏa thuận
khi chuyển nhượng nhằm trốn thuế (đóng thuế thấp hơn và nộp lệ phí trước
bạ thấp). Giao dịch giả tạo là bình phong để đối phó với các cơ quan chức
năng nhà nước khi làm các thủ tục sang tên trước bạ, thu thuế chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Việc ghi giá chuyển nhượng thấp để trốn thuế
nhà nước, họ đã ghi giá trong hợp đồng với mức tiền thấp hơn, thực chất
giao dịch được thực hiện với giá cao hơn. Ý chí của chủ thể tham gia không
bị vi phạm nhưng ý chí chung của cộng đồng xã hội bị vi phạm hay nói
khác đi pháp luật của nhà nước về thuế chuyển nhượng bị vi phạm do các
bên cố ý khai man nhằm trốn thuế. Những trường hợp này khi bị phát hiện
được cần phải có chế tài nghiêm khắc như xung công số tiền vượt quá giá trị
hợp đồng ký tên để công chứng, chứng thực.
1.2 Giao dịch dân sự xác lập do nhầm lẫn: Xung quanh vấn đề lỗi của các
bên chủ thể trong trường hợp giao dịch xác lập do nhầm lẫn, trong lý luận
tồn tại hai cách giải quyết đối ngược nhau. Cách thứ nhất cho rằng giao dịch
có thể bị tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn bất kể lỗi của bên nào gây ra (Điều
18
141 BLDS 1995). Nếu bên nào có lỗi sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bên
kia. Cách thứ hai cho rằng giao dịch dân sự chỉ bị tuyên bố vô hiệu nếu như
sự nhầm lẫn xảy ra do lỗi vô ý của bên đối tác (Điều 131 BLDS 2005). Còn
nếu như chính bên bị nhầm lẫn có lỗi thì giao dịch không bị vô hiệu, bên
nhầm lẫn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo cách giải quyết thứ nhất là
hợp lý hơn, bởi lẽ chỉ cần có sự nhầm lẫn xảy ra là giao dịch đã không đáp
ứng được yêu cầu về sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, do vậy giao
dịch đã có thể bị tuyên bố là vô hiệu. Còn việc xác định lỗi thuộc về ai là chỉ
nhằm giải quyết vấn đề hậu quả phát sinh khi giao dịch vô hiệu (bồi thường
thiệt hại) mà thôi. Vấn đề này có thể áp dụng nguyên tắc chung về các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch để giải quyết (điểm c khoản 1 Điều 122
BLDS 2005).
KẾT LUẬN:
C.Mác đã từng nói: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Hay nói cách khác, để có thể tồn tại được, mỗi người đều phải tham gia vào
các mối quan hệ khác nhau, tạo nên mối dây liên kết với thế giới xung quanh
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của bản thân. Một trong
những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới
mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có
giao dịch dân sự. Xét dưới góc độ của môn khoa học luật dân sự mà nhìn
nhận thì giao dịch dân sự là phương tiện khá hữu hiệu để thỏa mãn quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy cho
nên giao dịch dân sự đã được đưa vào BLDS nước ta nhằm bảo đảm quyền
và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch bằng các biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước. Tính bảo đảm đó không chỉ được thực hiện trong những giao
dịch dân sự hợp pháp mà còn phát sinh từ các giao dịch dân sự vi phạm sự tự
nguyện của chủ thể. Khi đó, tùy theo yêu cầu của các bên có quyền và lợi
ích liên quan hoặc theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể
và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố đó. Nghiên cứu về vấn đề
này nhằm mục đích hiểu rõ vai trò của ý chí, sự tự nguyện của chủ thể; từ đó
đề cao và bảo đảm sự tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự tránh
dẫn tới giao dịch vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và phát sinh
hậu quả pháp lý.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6.
7.
8.
9.
·
1. Trường đại học Luật Hà Nội , Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập
1,Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1,Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2010.
3. Bùi Đăng Hiếu, “Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt
đối”, Tạp chí luật học, số 5/2001.
4. Phạm Công Lạc, “Ý chí giao dịch dân sự”, Tạp chí luật học, số5/1998.
5. Đặng Văn Được, Hướng dẫn pháp luật hợp đồng dân sự và cơ chế giải
quyết tranh chấp trong bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Lao động – xã hôi, 2006.
Lê Kim Giang, Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường gặp, Nxb. Tư
pháp, 2011.
Nguyễn Thị Nhàn, “Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự”, Luận văn
thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội.
Bùi Thị Thu Huyền, “Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện ý
chí của chủ thể”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội.
Các trang web:
http://www.thongtinphapluatdansu.wordpress/
http://www.luatxalo.vn/
http://www.chinhphu.vn/
20
- Xem thêm -