Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước ở việt nam...

Tài liệu Giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước ở việt nam

.PDF
109
30
56

Mô tả:

MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 7 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 7 1.1.1. Quyền lực nhà nƣớc và các loại giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc 7 1.1.2. Giám sát xã hội - Một loại giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam 1.2. CƠ SỞ PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 16 27 1.2.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc 1.2.2. Nội dung của pháp luật về giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc 27 30 1.3. KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 39 1.3.1. Giám sát xã hội ở một số nƣớc 39 1.3.2. Những kinh nghiệm có thể áp dụng cho giám sát xã hội ở Việt Nam 43 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM 45 2.1. THỰC TRẠNG CÁC CHỦ THỂ, NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 45 2.1.1. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên 45 2.1.2. Giám sát của công dân 66 2.1.3. Giám sát của các tổ chức xã hội 72 2.1.4. Giám sát của các tập thể lao động 76 2.1.5. Vai trò và hoạt động của báo chí, dƣ luận xã hội 78 2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 80 2.2.1. Đánh giá chung về hoạt động giám sát của các chủ thể giám sát xã hội 80 2.2.2. Những nguyên nhân và một số kinh nghiệm 84 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 87 3.1. TĂNG CƢỜNG GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC - YÊU CẦU CẤP THIẾT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 87 3.1.1. Tăng cƣờng giám sát xã hội với mục tiêu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân 87 3.1.2. Tăng cƣờng giám sát xã hội nhằm kế thừa và phát huy ƣu điểm, khắc phục những yếu kém trong thực tiễn giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc thời gian qua 89 3.1.3. Tăng cƣờng giám sát xã hội đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nƣớc 91 3.2. QUAN ĐIỂM VÀ PHƢƠNG HƢỚNG TĂNG CƢỜNG GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 93 3.2.1. Quan điểm 93 3.2.2. Những phƣơng hƣớng tăng cƣờng giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc 94 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 101 3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế tổng thể về giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc 101 3.3.2. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hành những quy định pháp luật về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. 102 3.3.3. Phát huy vai trò giám sát của các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và các hình thức giám sát trực tiếp của công dân 105 3.3.4. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan thông tin đại chúng 106 3.3.5. Tăng cƣờng trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc trong giám sát xã hội 107 KẾT LUẬN 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Khoa học cũng nhƣ thực tiễn đời sống chính trị - pháp lý đã khẳng định và ngày càng làm sáng tỏ nguyên lý rằng nhà nƣớc không phải là một “lực lƣợng bên ngoài, áp đặt lên xã hội” mà về bản chất nhà nƣớc là “lực lƣợng nảy sinh từ xã hội”, quyền lực nhà nƣớc do xã hội “trao cho” để phục vụ nhu cầu, lợi ích vì sự phát triển của xã hội. Trong mối quan hệ đó, xã hội - đƣợc tạo nên bởi những ngƣời dân với vai trò cá nhân hoặc trong những nhóm và những tổ chức mà ngƣời dân tham gia - có quyền giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc. Cụ thể là giám sát đối với việc tổ chức và thực hiện quyền lực thông qua quá trình hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc. Chúng ta đang xây dựng “Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nhà nƣớc pháp quyền với những đặc trƣng của nó luôn đặt ra yêu cầu bắt buộc có những cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nƣớc. Bộ máy nhà nƣớc là một hệ thống hoàn chỉnh nhờ thế đã thiết lập nên những phƣơng thức nội tại để hạn chế quyền lực. Tuy nhiên, tất cả những phƣơng thức nhƣ: phân chia quyền lực, kiềm chế và đối trọng lẫn nhau giữa các nhánh quyền lập pháp - hành pháp - tƣ pháp, lập ra các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của nhà nƣớc,... đều chỉ là những biện pháp do bản thân nhà nƣớc thực hiện; tự nó chƣa đủ để bảo đảm cho cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nƣớc đƣợc thực hiện một cách toàn diện. Khoa học và thực tiễn cho thấy, yếu tố giám sát từ bên ngoài, từ phía xã hội công dân, tức là giám sát xã hội đối với nhà nƣớc pháp quyền là quan trọng và cần thiết. Trên một khía cạnh khác, mục tiêu “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới” ở nƣớc ta dẫn đến tất yếu phải đổi mới hệ thống chính trị. Càng đi sâu vào đổi mới hệ thống chính trị, chúng ta gặp phải ngày càng bức thiết đòi hỏi phát huy cao độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cụ thể hoá cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, tăng cƣờng giám sát và phản biện xã hội đối với chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nƣớc trong bối cảnh duy nhất một đảng cầm quyền. 1 Thực tế thời gian qua cho thấy: Phƣơng thức lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của Nhà nƣớc ta đã có nhiều đổi mới, trong đó, đã tổ chức nghiên cứu, ban hành và đƣa vào thực hiện nhiều chủ trƣơng, nghị quyết, văn bản pháp luật liên quan đến việc phát huy vai trò của giám sát xã hội đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Cùng với sự tích cực và năng động của các chủ thể giám sát, việc đa dạng hóa về hình thức, cụ thể hóa về nội dung, thẩm quyền, phạm vi giám sát đã góp phần làm cho hiệu quả giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc ngày một tăng lên. Tuy vậy, xét trên bình diện chung, cơ chế vận hành của Nhà nƣớc trong xã hội vẫn chƣa khắc phục đƣợc những khiếm khuyết ngày càng hiện rõ, đó là: Hoạt động tổ chức và thực hiện quyền lực của các cơ quan nhà nƣớc chƣa thực sự khoa học và hiệu quả; tệ quan liêu và tham nhũng ngày càng nghiêm trọng; một bộ phận cơ quan, cán bộ, công chức nhà nƣớc thực thi Hiến pháp và pháp luật chƣa thực sự nghiêm minh, chức năng còn chồng chéo hoặc có nhiệm vụ còn bỏ trống; có hiện tƣợng “lấn sân”, vƣợt cấp, vƣợt quyền; dân chủ có lúc, có nơi bị vi phạm,… Nguyên nhân của tình trạng trên có thể phân tích trên nhiều lĩnh vực song có một thực tế rất rõ là giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc còn bị coi nhẹ. Một mặt, về nhận thức cho rằng giám sát xã hội không có tính cƣỡng chế, không đem lại những hậu quả pháp lý trực tiếp nên ít đƣợc coi trọng (cả về phía chủ thể của quyền giám sát và phía đối tƣợng bị giám sát). Mặt khác, cũng còn thiếu những sự đầu tƣ thực sự cả về cơ chế pháp lý và điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết để giám sát xã hội trở thành quyền và trách nhiệm thiết thân đối với mỗi cơ quan, tổ chức, công dân và các thiết chế xã hội khác. Việc nghiên cứu về bản chất, cơ chế pháp lý, các chủ thể, phạm vi, nội dung, hình thức, hiệu lực, hiệu quả… của giám sát xã hội với tƣ cách là một loại giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc chƣa đƣợc tiến hành đầy đủ. Trong bối cảnh phải gấp rút hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, chúng ta đã gặp không ít khó khăn, lúng túng khi xử lý các vấn đề liên quan đến giám sát từ phía một xã hội đang trên đà phát triển đối với một nhà nƣớc mới ở giai đoạn khởi đầu của việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền. Chính vì lý do đó, cùng với tính chất công việc bản thân đang làm hiện nay, 2 tôi lựa chọn đề tài "Giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước ở Việt Nam" làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình nhằm làm rõ cơ sở lý luận, pháp luật và thực tiễn của vấn đề này; đồng thời đề xuất một số phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc trong thời gian tới. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Qua các tài liệu, sách báo khoa học pháp lý phổ biến ở nƣớc ta hiện nay cho thấy các cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc dƣới nhiều góc độ khác nhau, tập trung vào những nhóm vấn đề chủ yếu, nhƣ: Một là, những vấn đề chung về giám sát: Quan niệm giám sát, các loại, các lĩnh vực, nội dung của giám sát, điều chỉnh pháp luật đối với tổ chức và hoạt động giám sát, hiệu quả giám sát, bàn về cơ chế giám sát và hoàn thiện cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay, những kinh nghiệm về kiểm tra, giám sát ở các nƣớc trên thế giới,... Đó là những bài viết của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí chuyên ngành, nhƣ: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Văn phòng Quốc hội), Tạp chí Nhà nước và pháp luật (Viện Nghiên cứu Nhà nƣớc và pháp luật). Có một số sách đã xuất bản và phát hành nhƣ cuốn Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay gồm nhiều bài viết của các tác giả do GS.TSKH. Đào Trí Úc và PGS.TS. Võ Khánh Vinh làm chủ biên. Hai là, hoạt động giám sát của bộ máy nhà nƣớc: Đa số các tác giả tập trung nghiên cứu giám sát của các cơ quan dân cử (Quốc hội, hội đồng nhân dân, các cơ quan thuộc Quốc hội, các cơ quan thuộc hội đồng nhân dân) với cơ quan hành chính, cơ quan tƣ pháp và các cơ quan khác trong bộ máy nhà nƣớc. Đó là các bài viết: Quyền giám sát tối cao của Quốc hội và quyền giám sát của các cơ quan của Quốc hội - Đối tượng, nội dung, phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý của PGS.TS. Trần Ngọc Đƣờng, Về phạm vi, hình thức giám sát của Quốc hội của PGS.TS. Phạm Hồng Thái; Vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của hội đồng nhân dân của TS. Vũ Thƣ,... Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ quản lý hành chính công với đề tài: Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội đối với cơ quan hành chính nhà nước ở 3 trung ương của ThS. Trƣơng Thị Mai (2004); các hội thảo khoa học do Văn phòng Quốc hội, các uỷ ban của Quốc hội tổ chức. Một số tác giả nghiên cứu về giám sát thông qua hoạt động của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nƣớc, nhƣ: Các bài viết về Vấn đề giám sát của Chủ tịch nước của ThS. Đỗ Gia Thƣ, Vai trò của toà hành chính trong việc kiểm tra, giám sát thực hiện quyền lực nhà nước của ThS. Đặng Xuân Đào và CN. Mai Văn Quang, Mấy nhận thức về cơ chế kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân của ThS. Phạm Văn Tỉnh;… Về hoạt động giám sát của các chủ thể bên ngoài nhà nước cũng có một số nhà khoa học đã đề cập đến. Đó là, viết về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong cuốn Sự hạn chế quyền lực nhà nước của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung; giám sát của Mặt trận, các tổ chức thành viên và công dân trong cuốn Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay của PGS.TS. Bùi Xuân Đức, Nhân dân giám sát các cơ quan quyền lực dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới của TS. Đặng Đình Tân (chủ biên); một số bài viết về nhà nƣớc pháp quyền, xã hội công dân trên các tạp chí chuyên ngành của PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế; một số chuyên đề nghiên cứu hằng năm về giám sát của Ban Dân chủ - Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, chƣa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc dƣới góc độ chung và tƣơng đối hệ thống. Những tài liệu nêu trên có giá trị tham khảo tốt để tác giả Luận văn nghiên cứu và vận dụng trong đề tài nghiên cứu của mình. 3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Mục đích của luận văn: Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp luật về giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc mà cụ thể là giám sát đối với tổ chức và hoạt động thực hiện quyền lực nhà nƣớc; chỉ ra những đặc trƣng của giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc ở nƣớc ta; khái quát đƣợc thực trạng và kết quả hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, giám sát trực tiếp của công dân, vai trò của dƣ luận xã hội và hoạt động của 4 các cơ quan thông tin đại chúng trong việc giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc; đề xuất một số phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc thời gian tới. 3.2. Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là hoạt động giám sát mang tính xã hội đối với việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nƣớc, đƣợc thực hiện bởi Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, các phƣơng tiện thông tin đại chúng và giám sát trực tiếp của công dân (cụ thể là giám sát của các chủ thể nêu trên đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc theo quy định của pháp luật hiện hành). 3.3. Phạm vi nghiên cứu: Đây là đề tài vừa có phạm vi rộng, vừa đòi hỏi những vấn đề khái quát sâu thuộc về cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nƣớc trong xã hội mà trên đó nhà nƣớc tồn tại. Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp cao học, học viên chỉ xin đƣợc đề cập những vấn đề có tính khái lƣợc về giám sát xã hội, đi sâu nghiên cứu một số hình thức, phương tiện, chủ thể đặc thù của giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước đã được quy định bởi hệ thống pháp luật hiện hành. Thông tin tình hình thực tế và các số liệu trích dẫn xin đƣợc lấy trong phạm vi khoảng 5 năm trở lại đây; các vấn đề lý luận dựa trên cơ sở phát triển tƣ duy lý luận của Đảng ta từ khi bắt đầu thời kỳ đổi mới đến nay; các giải pháp, kiến nghị đề xuất cho khoảng 5 năm tới. 4. PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phƣơng pháp luận: Đề tài dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt trong các nghị quyết Trung ƣơng gần đây, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X về phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau để rút ra những nhận xét, kết luận phục vụ cho đề tài: 5 - Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết; - Phƣơng pháp thống kê số liệu; - Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, so sánh; - Phƣơng pháp điều tra, phỏng vấn; - Phƣơng pháp chuyên gia; - Phƣơng pháp tổng kết kinh nghiệm; 5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài Mục lục, Phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp luật về giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc Chƣơng 2: Thực trạng giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp tăng cƣờng giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 1.1.1. Quyền lực nhà nƣớc và các loại giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc 1.1.1.1. Quyền lực nhà nước Quyền lực nhà nƣớc đƣợc hiểu là sức mạnh (hay khả năng) của nhà nƣớc có thể bắt các chủ thể khác trong quốc gia (các tổ chức, cá nhân, giai cấp, tầng lớp,…) phải phục tùng ý chí của nhà nƣớc. Quyền lực nhà nước là quyền lực dựa trên sức 6 mạnh của bộ máy nhà nước; là khả năng sử dụng nhà nước để thực hiện ý chí của giai cấp thống trị (hoặc của nhân dân) buộc xã hội phải phục tùng ý chí đó [23, tr.295]. Quyền lực nhà nƣớc chính là quyền lực chính trị đƣợc thực hiện bằng bộ máy nhà nƣớc. Một cách định nghĩa khác cho rằng: Quyền lực nhà nước là thuật ngữ để chỉ "Tiềm năng của chính thể (nhà nước) được tổ chức chính trị (đảng hay liên minh giữa nhiều đảng) hoặc toàn thể công dân tập hợp, xây dựng trong một quốc gia nhằm buộc mọi cá nhân, tổ chức hay toàn xã hội phải phục tùng, hành động hay xử sự theo những quy định nhất định để nhà nước thực hiện đúng các chức năng và quản lý mọi lĩnh vực đời sống xã hội [21]. Đây là cách định nghĩa thiên về chức năng quản lý của quyền lực nhà nƣớc. Dù định nghĩa theo khía cạnh nào thì quyền lực nhà nƣớc cũng là một hiện tƣợng ra đời và tồn tại gắn liền với nhà nƣớc, là một trong những dấu hiệu cơ bản phân biệt nhà nƣớc với các chủ thể khác trong xã hội. Trong nhà nƣớc hiện đại, quyền lực đƣợc tổ chức và thực hiện dƣới hình thức những quyền năng cụ thể, bao gồm: Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tƣ pháp. Các quốc gia trên thế giới ngày nay có cách tổ chức, phân công thực hiện 3 quyền trong quyền lực nhà nƣớc khác nhau. Có nƣớc phân chia 3 quyền độc lập, chế ƣớc lẫn nhau; có nƣớc thực hiện quyền lực nhà nƣớc thống nhất. Ở nƣớc ta, quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp. Về bản chất, toàn bộ quyền lực nhà nƣớc là thuộc về nhân dân. Nhân dân có vai trò “là chủ” quyền lực nhà nƣớc đồng thời có khả năng và điều kiện “làm chủ” quyền lực nhà nƣớc. Hai phƣơng thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nƣớc là: trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện. Phƣơng thức nhân dân thực hiện quyền lực trực tiếp là việc những ngƣời dân trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, tham gia thảo luận dự thảo Hiến pháp, pháp luật, trực tiếp thể hiện ý chí của mình khi có trƣng cầu dân ý, … Phƣơng thức này có ƣu điểm là ý chí của nhân dân đƣợc bày tỏ một cách trực tiếp, sinh động, phản ánh sát thực với những nhu cầu và lợi ích của ngƣời dân. Tuy 7 nhiên, hạn chế cơ bản của phƣơng thức này là không phải mọi việc của xã hội đều có thể lấy ý kiến của toàn thể nhân dân, không phải ngƣời dân nào cũng đủ năng lực tham gia vào công việc quản lý chung do sự phân công lao động khác nhau, sự giới hạn của phƣơng tiện thông tin và đòi hỏi tính kịp thời của những quyết định quản lý. Những hạn chế của phƣơng thức thực hiện quyền lực trực tiếp đƣợc khắc phục bằng phƣơng thức nhân dân thực hiện quyền lực thông qua các cơ quan đại diện. Đây là phƣơng thức chủ yếu, phổ biến ở Việt Nam và nhiều nƣớc khác trên thế giới hiện nay. Nhân dân thông qua cuộc phổ thông đầu phiếu bầu ra cơ quan đại diện, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực và quản lý xã hội. Thông qua phương thức đại diện, quyền lực nhà nước được thực hiện bằng hoạt động của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước thuộc các cơ quan đó. Phƣơng thức đại diện có ƣu điểm là những cá nhân ƣu tú đƣợc bầu vào những cơ quan đại diện và những cơ quan do cơ quan đại diện lập ra có đƣợc sự sáng suốt, giải quyết kịp thời và nhanh chóng những vấn đề bức bách của cộng đồng. Tuy nhiên, hình thức đại diện có những nhƣợc điểm cơ bản là: Nguy cơ những cơ quan, cán bộ, công chức nhà nƣớc thực hiện vƣợt quá hoặc không đúng thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ, thậm chí có xu hƣớng thoát ly đối với chủ thể quyền lực nhân dân, trở thành những kẻ đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng,… khiến cho quyền lực nhà nƣớc xa rời những lợi ích chính đáng của ngƣời dân. Vì vậy, vấn đề đặt ra là bộ máy nhà nƣớc cần đƣợc tổ chức và hoạt động đúng nghĩa là tổ chức thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhƣng không đƣợc tách khỏi nhân dân, đứng trên nhân dân, sai lệch với bản chất quyền lực nhân dân. Mặt khác, yêu cầu của sự ủy quyền là bao giờ cũng có giới hạn. Quyền lực nhà nƣớc luôn luôn phải có sự hạn chế. Quyền lực của các cơ quan cụ thể trong bộ máy nhà nƣớc bị hạn chế càng rõ thể hiện ở việc mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và thẩm quyền nhất định do Hiến pháp, pháp luật quy định trƣớc. Mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc trong quá trình hoạt động đều phải chịu sự kiểm soát quyền lực bởi những cơ chế thực hiện từ phía các cơ quan trong cùng bộ máy nhà nƣớc hoặc từ phía các chủ thể khác trong xã hội. Một trong những hoạt động quan trọng thuộc cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nƣớc đó chính là giám sát. 8 1.1.1.2. Một số vấn đề chung về giám sát đối với quyền lực nhà nước Trong hệ thống chính trị nƣớc ta, giám sát đƣợc hiểu là một trong những chức năng, nhiệm vụ do một số chủ thể nhất định tiến hành trong quá trình tổ chức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân nhằm bảo đảm cho quyền lực đó đúng định hƣớng, mục tiêu đề ra; các cơ quan mang quyền lực hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn thẩm quyền đã quy định. Giám sát là một hoạt động đặc thù trong số các hoạt động thuộc cơ chế kiểm soát đối với quyền lực nhà nƣớc, cơ chế đó bao gồm: giám sát, thanh tra, kiểm sát, kiểm tra. Bàn về khái niệm giám sát, lý luận và thực tiễn đang có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau: Theo Từ điển Tiếng Việt: “Giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”. Theo nghĩa dịch từ Từ điển Tiếng Nga, “Giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi người, việc nào đấy”. Theo Từ điển Hán - Việt do Đào Duy Anh chủ biên thì: “Giám sát là theo dõi và đàn hạch”. Theo Khoản 1, Điều 2, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội: “Giám sát (trong Luật này - TG) là việc Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ quốc hội, Hội đồng dân tộc, ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội”. Theo quan điểm của khoa Hành chính học thì giám sát dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nƣớc, tòa án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong quản lý xã hội. Giám sát là sự tác động quyền lực nhằm chấn chỉnh những lệch lạc, trái pháp luật, sai trái mục tiêu của một hệ thống đối với một hệ thống khác, nằm ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc [22, tr.506]. Theo GS.TSKH. Đào Trí Úc, để một cơ chế đƣợc coi là giám sát thì cơ chế đó phải đáp ứng các yêu cầu nhƣ: “Có khả năng giám sát đƣợc toàn bộ hệ thống quyền 9 lực”, “phải đứng ngoài mà nhìn nhận”, “phải có tính độc lập về mặt pháp lý và phải đảm bảo đƣợc yêu cầu khách quan” [36]. Theo PGS.TS. Võ Khánh Vinh, giám sát theo nghĩa rộng là khái niệm để biểu thị “tổng thể các cơ chế xã hội tác động đến hành vi của con ngƣời với mục đích khắc phục các sai lệch khỏi các quy phạm mà xã hội tiếp nhận”. Xã hội loài ngƣời có nhiều dạng giám sát khác nhau, trong đó, giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc là một dạng giám sát, nó vừa có đặc điểm chung vừa mang đặc điểm riêng cả về chủ thể, đối tƣợng và mối quan hệ trong giám sát [41]. Từ những ý kiến, quan điểm nêu trên, có thể rút ra những đặc trƣng cơ bản của hoạt động giám sát và giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc nhƣ sau: (1)- Giám sát là một hoạt động, một quá trình, một loại hành vi với biểu hiện khách quan bên ngoài là sự “theo dõi”, “quan sát”, “xem xét”, “đánh giá” đối tƣợng bị giám sát. (2)- Giám sát là hành động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục của chủ thể giám sát hƣớng đến đối tƣợng bị giám sát. (3)- Trong quá trình giám sát luôn có sự thu thập thông tin về đối tƣợng giám sát và đối chiếu, nhận xét, đánh giá sự phù hợp trong hoạt động của đối tƣợng với một hệ thống quy phạm nào đó (quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật,…) nhằm mục đích phòng ngừa, chấn chỉnh, khắc phục những sai sót, lệch lạc, đảm bảo cho các quy phạm đƣợc thực hiện đúng trên thực tế. (4)- Giám sát là sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tƣợng giám sát, sự tác động này có tính chất quyền lực, tạo thành mối quan hệ (pháp lý, xã hội) giữa các bên trong quá trình giám sát, trong đó có quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền giám sát gọi là chủ thể giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân phải chịu sự giám sát gọi là đối tượng giám sát. (Trong lý luận chung còn đề cập đến khách thể giám sát. Theo quan niệm về khách thể của quan hệ pháp luật thì khách thể giám sát là cái mà các bên trong quan hệ giám sát đều hƣớng tới, đó chính là trạng thái hoạt động bình thƣờng, thông suốt, đúng pháp luật, đúng các quy định của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát). (5)- Đa số các quan điểm về giám sát hiện nay đều quan niệm rằng giữa chủ 10 thể giám sát và đối tƣợng giám sát không có mối quan hệ theo hệ thống dọc. Điều đó có nghĩa giám sát đƣợc hiểu là sự xem xét, đánh giá từ bên ngoài nhìn vào, giữa hệ thống này với hệ thống khác, giữa bộ phận này với bộ phận khác trong cùng một hệ thống mà các bộ phận đó có tính độc lập tƣơng đối với nhau. (6)- Giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc là sự tác động để quyền lực đó vận hành trong giới hạn và những cơ chế ràng buộc một cách tự nhiên hoặc đƣợc quy định bởi hiến pháp, pháp luật; nhằm làm cho các cơ quan mang quyền lực nhà nƣớc hoạt động đúng giới hạn thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ. Giám sát đối với quyền lực nhà nước thực chất là giám sát việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Để góp phần hiểu rõ về giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc, cần phân biệt giám sát với những hoạt động khác trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước: (1)- Giám sát khác với kiểm tra: Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 2004, kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét”. Do đó, so với giám sát thì kiểm tra là khái niệm bao hàm những thao tác có tính xác định và tính cụ thể rõ hơn (đo, đếm, nhìn, sờ sự vật, hiện tƣợng, nghiên cứu tài liệu, đối thoại, đối chất để thu thập thông tin, làm rõ sự việc); kiểm tra thƣờng đƣợc dùng khi xem lại những sự việc, những sai phạm đã xảy ra. Kiểm tra có thể là bản thân tự kiểm tra, cũng có thể là cấp trên trong cùng hệ thống kiểm tra, cũng có thể là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đến kiểm tra. Trong thực tiễn, khái niệm kiểm tra đƣợc sử dụng khá rộng rãi, có thể chỉ hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc hay các chủ thể khác trong xã hội. (2)- Giám sát khác với thanh tra: Thanh tra, theo Từ điển Tiếng Việt là “kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phƣơng, cơ quan, xí nghiệp”. Trong khoa học pháp lý, thanh tra là khái niệm chủ yếu đƣợc dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan, tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền đƣợc xác định theo Luật thanh tra năm 2004. Điều 4 Luật Thanh tra quy định: “Thanh tra nhà nƣớc là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục đƣợc quy định trong Luật này và các quy định khác của pháp luật…”. 11 Nhƣ vậy, về mặt khách quan của hành vi có thể thấy thanh tra và giám sát giống nhau ở chỗ cũng có hoạt động xem xét, đánh giá nhƣng khác nhau ở chỗ: Giám sát là sự chủ động theo dõi còn thanh tra thƣờng chỉ xem xét khi có sự việc có dấu hiệu vi phạm xảy ra. Sau khi xem xét, đánh giá, kết quả giám sát chủ yếu thông qua hình thức kiến nghị, ngƣợc lại việc xem xét, đánh giá của thanh tra thƣờng gắn với việc áp dụng những biện pháp xử lý cụ thể. Thanh tra là việc đƣợc tiến hành bởi những chủ thể xác định, có thẩm quyền, theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Thanh tra là hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nƣớc đặc trƣng trong hệ thống hành pháp với vai trò của các cơ quan thanh tra chính phủ và thanh tra chuyên ngành, có đối tƣợng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý. Với ý nghĩa đó, thực chất thanh tra là hoạt động gắn liền với quản lý, là một chức năng trong hoạt động quản lý hành chính của nhà nƣớc. (3)- Giám sát khác với kiểm sát, bởi vì kiểm sát là khái niệm để chỉ hoạt động mang tính đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đối với việc đảm bảo tính pháp chế, tính hợp pháp trong các hành vi, văn bản pháp quy của cơ quan nhà nƣớc, sự tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh của những cán bộ, công chức và công dân. Theo pháp luật hiện hành, Viện kiểm sát không còn thực hiện chức năng kiểm sát chung, vì vậy, kiểm sát chỉ có ý nghĩa trực tiếp là một loại hoạt động trong cơ chế kiểm soát đối với quyền lực nhà nƣớc khi Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Tóm lại, giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát là những khái niệm gần nghĩa, dùng để chỉ những hoạt động có phạm vi gần nhau, thậm chí có những biểu hiện khách quan khá giống nhau (xem xét, đánh giá,…), cùng là những cơ chế để kiểm soát quyền lực nhà nƣớc, tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau và phân biệt với nhau bởi tính đặc thù trong quan hệ pháp lý, đối tượng, chủ thể, phạm vi, phương pháp thực hiện và biện pháp xử lý. Cùng với kiểm tra, thanh tra và kiểm sát, giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc có vai trò, mục đích và ý nghĩa rất to lớn; là điều kiện đảm bảo để củng cố và duy trì trật tự, kỷ cƣơng trong hoạt động sử dụng quyền lực để quản lý nhà nƣớc và xã hội, bảo vệ các quyền, tự do cơ bản của công dân; đảm bảo sự thông suốt trong tổ chức 12 và vận hành của nhà nƣớc nói chung và các bộ phận cấu thành nhà nƣớc nói riêng; góp phần đảm bảo sự phù hợp trong hoạt động của các cơ quan, cán bộ, nhân viên nhà nƣớc với các quy định, nhiệm vụ đặt ra; khắc phục các sai lệch; nâng cao hiệu quả hoạt động của quyền lực nhà nƣớc. Ở đâu có quyền lực nhà nƣớc tất yếu ở đó phải có sự giám sát. Giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc bao gồm giám sát đối với tổ chức và giám sát thực thi quyền lực nhà nƣớc thông qua giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc. Trong đó, dù là giám sát tổ chức hay giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc thì căn cứ để đối chiếu, nhận xét, đánh giá hoạt động quyền lực ở đây chủ yếu dựa vào hệ thống các quy định của pháp luật. Giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc là loại giám sát mang tính chất pháp lý. Giám sát, khi đƣợc pháp luật quy định, trở thành quyền của chủ thể đối với đối tƣợng giám sát và khi đó khái niệm giám sát cũng đƣợc hiểu là quyền giám sát. 1.1.1.3. Các loại giám sát đối với quyền lực nhà nước Căn cứ vào các mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu hay hoạt động thực tiễn cần giải quyết mà có thể lấy các tiêu chí khác nhau làm cơ sở để phân loại hoạt động giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc. Sự phân loại đó có thể dựa vào: (1) chủ thể; (2) nhiệm vụ; (3) nội dung; (4) tính chất,… của hoạt động giám sát. Phổ biến nhất trong khoa học pháp lý hiện nay là phân loại giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc theo tiêu chí chủ thể. Ở nƣớc ta hiện nay, lý luận và thực tiễn cho thấy có thể chia ra 6 chủ thể chính thực hiện giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc. Đó là: Các cơ quan nhà nƣớc; tổ chức chính trị; các tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức xã hội; các tập thể lao động và công dân. Tƣơng ứng với đó, có thể phân chia giám sát thành: + Giám sát của Nhà nƣớc; + Giám sát của tổ chức chính trị; + Giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội; + Giám sát của các tổ chức xã hội; + Giám sát của các tập thể lao động; + Giám sát trực tiếp của công dân. 13 Tùy thuộc vào bản chất, vai trò và vị trí của mỗi chủ thể trong hệ thống chính trị và xã hội mà nhiệm vụ, tính chất, hình thức và nội dung của hoạt động giám sát do chủ thể đó tiến hành có sự khác nhau. Trong các giám sát nêu trên, giám sát của Nhà nước là một loại riêng chỉ do các cơ quan nhà nƣớc (chủ yếu là nhóm cơ quan quyền lực nhà nƣớc bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân) thực hiện trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nƣớc. Đặc điểm của loại giám sát này là mang tính quyền lực nhà nƣớc một cách rõ nét; đƣợc quy định rất cụ thể, chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nƣớc; với những thủ tục, quy trình, thẩm quyền đối với từng cơ quan tham gia quan hệ giám sát; thể hiện sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nƣớc theo tƣ tƣởng phân quyền. Trong mối quan hệ với giám sát của các cơ quan nhà nƣớc, giám sát của những chủ thể còn lại đều là các chủ thể bên ngoài nhà nƣớc thực hiện. Các chủ thể này có tính độc lập đối với nhà nƣớc, với tƣ cách chủ thể cá biệt chúng không mang quyền lực nhà nƣớc mà là những cơ cấu tổ chức, thiết chế thuộc về xã hội, mang tính chất xã hội nên có thể gọi đó là giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc, hoặc cũng có tài liệu gọi là “giám sát không mang tính quyền lực nhà nước”, “giám sát nhân dân”. Giám sát của tổ chức chính trị - tức hoạt động giám sát của Đảng Cộng sản Việt Nam - phần nào đó cũng có thể coi là giám sát của chủ thể “bên ngoài Nhà nƣớc” nhƣng do bản chất chính trị và vị trí hạt nhân của Đảng trong hệ thống chính trị nƣớc ta nên giám sát của Đảng cần đƣợc tách ra thành một loại riêng. Theo Điều 4 Hiến pháp 1992: “Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội”. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nƣớc ta là “Đảng lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, nhân dân làm chủ”. Vì vậy giám sát của Đảng là giám sát của chủ thể lãnh đạo đối với Nhà nƣớc và toàn xã hội thông qua các cán bộ, đảng viên do Đảng giới thiệu, cử sang đảm nhận các cƣơng vị lãnh đạo trong bộ máy nhà nƣớc; thông qua các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy đƣợc thành lập và giữ vai trò lãnh đạo trong các cơ quan công quyền. Giám sát của Đảng đƣợc tiến hành cả trong quá trình lãnh 14 đạo chung và thông qua các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát của Đảng ở các cấp. Trên thực tế còn một loại giám sát nữa đƣợc hình thành từ sự kết hợp của các loại giám sát trên và có thể tạm gọi là giám sát phối hợp hay giám sát hỗn hợp. Đây là loại hình giám sát có sự tham gia của các chủ thể thuộc hai hoặc cả ba loại giám sát nêu trên (giám sát của Đảng, giám sát của Nhà nƣớc, giám sát của nhân dân) đối với việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nƣớc. 1.1.2. Giám sát xã hội - Một loại giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam 1.1.2.1. Khái niệm giám sát xã hội Khái niệm giám sát xã hội gần đây thƣờng xuất hiện trong các tài liệu, sách báo khoa học pháp lý ở nƣớc ta nhƣng cách thức sử dụng của mỗi tác giả là khác nhau. Theo nghĩa rộng, một số nhà khoa học pháp lý và xã hội học đã sử dụng khái niệm giám sát xã hội để biểu thị cho tổng thể các cơ chế xã hội tác động một cách có mục đích nhằm khắc phục các sai lệch khỏi các quy phạm, chuẩn mực mà xã hội tiếp nhận; là một trong những yếu tố điều chỉnh đời sống xã hội và đƣợc hình thành trên cơ sở của tồn tại xã hội nói chung; là chức năng thuộc về hệ thống tổ chức tự nhiên của xã hội loài ngƣời. Theo nghĩa này, giám sát xã hội bao trùm lên trên cả khái niệm giám sát nói chung đối với quyền lực nhà nƣớc bởi hai lẽ: Thứ nhất, giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc là giám sát của tiểu hệ thống trong hệ thống rộng hơn là toàn xã hội và suy cho cùng, nhà nƣớc cũng là một hiện tƣợng xã hội, nảy sinh từ xã hội, thuộc về xã hội, quyền lực nhà nƣớc là một dạng của quyền lực xã hội. Thứ hai, các hoạt động giám sát do nhà nƣớc hay xã hội thực hiện đều có mục đích là phòng ngừa, khắc phục những sai lệch khỏi các quy phạm mà xã hội đã đặt ra hoặc chấp nhận (quy phạm pháp luật cũng là một bộ phận trong số các quy phạm xã hội đó). Theo nghĩa hẹp, giám sát xã hội đƣợc hiểu là một loại giám sát trong cơ chế tổng thể về giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc, loại giám sát này đặc trƣng bởi chủ thể giám sát là các tổ chức và cá nhân bên ngoài nhà nƣớc chứ không phải do chính nhà nƣớc thông qua các cơ quan của mình để thực hiện. Các chủ thể giám sát ở đây 15 với đặc tính xã hội có thể là những thành tố độc lập nhỏ nhất (cá nhân) hoặc những nhóm xã hội (do các cá nhân tập hợp lại tạo nên). Để nghiên cứu giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nƣớc ở nƣớc ta, Luận văn này đã tiếp cận giám sát xã hội theo nghĩa hẹp. Đó là khái niệm chung để chỉ những hoạt động giám sát có cùng tính chất, do các chủ thể đặc thù thực hiện, nhƣ: các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các tập thể lao động và của công dân (trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức, các diễn đàn báo chí, dƣ luận xã hội) trong việc quản lý các công việc của Nhà nƣớc và xã hội. Sự ghi nhận của pháp luật đã tạo ra cho giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động và công dân tồn tại trên thực tế ở nƣớc ta với vị trí, vai trò là một loại giám sát, có đầy đủ các yếu tố phân biệt với giám sát của các cơ quan nhà nƣớc. Giám sát xã hội là hình thức kết hợp hài hòa giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tính trực tiếp biểu hiện ở việc ngƣời dân không thông qua cơ quan nhà nƣớc trung gian nào mà trực tiếp theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động quyền lực nhà nƣớc. Tính gián tiếp biểu hiện ở việc giám sát không phải là làm thay chức năng của quyền lực nhà nƣớc hay trực tiếp thực thi quyền lực nhà nƣớc; giám sát xã hội chỉ là hình thức thông qua đó để góp ý, chấn chỉnh hoạt động của cơ quan nhà nƣớc trong tổ chức thực thi quyền lực nhân dân giao cho. Một đặc điểm trong hệ thống chính trị và xã hội ta là bộ phận lớn dân cƣ cả nƣớc đƣợc tập hợp trong các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các tập thể lao động phù hợp. Các tổ chức và tập thể đó hầu hết lại đƣợc liên hiệp lại trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng với những cá nhân tiêu biểu đại diện cho mọi tầng lớp dân cƣ. Điều đó làm cho Mặt trận Tổ quốc có cơ sở xã hội rộng rãi nhất mà không một chủ thể xã hội nào có đƣợc. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và giám sát trực tiếp của công dân đối với quyền lực nhà nƣớc là nội hàm trực tiếp của khái niệm giám sát xã hội - một cách diễn đạt khác của “giám sát nhân dân” trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Xét về bản chất, giám sát xã hội ở nƣớc ta không phải là giám sát của lực lƣợng kiềm chế, đối trọng hay tƣơng phản với Nhà nƣớc. Trong hoạt động giám sát 16 có chỉ ra cái đúng, cái sai, có đồng tình, có phản đối, có chấp nhận và có bổ sung nhƣng giữa giám sát xã hội và quyền lực nhà nƣớc ở nƣớc ta đều thống nhất với nhau ở lợi ích của nhân dân, ở bản chất nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân. Giám sát xã hội dù cho chủ thể nào thực hiện cũng mang bản chất của chế độ chính trị, nhằm mục tiêu phát huy tính ƣu việt của dân chủ xã hội chủ nghĩa, dƣới sự lãnh đạo của Đảng và đặc biệt là đều phải tuân theo những quy định của pháp luật trong xu hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Giám sát xã hội cũng nhƣ giám sát nói chung đối với quyền lực nhà nƣớc ở nƣớc ta phải bảo đảm để quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, đồng thời có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp; bảo đảm để mỗi cơ quan trong hệ thống quyền lực nhà nƣớc luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, hạn chế thấp nhất sự lạm quyền xảy ra. Nhƣ vậy, căn cứ vào những quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc cũng nhƣ thực tế tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nƣớc ta hiện nay thì giám sát xã hội được hiểu là hình thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và công dân, theo dõi, quan sát, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước; nhằm làm cho các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn quyền lực được giao; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện một cách khách quan, khoa học, hiệu quả; giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 1.1.3.2. Những đặc trưng của giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước Là một loại giám sát đối với quyền lực nhà nƣớc, giám sát xã hội ở nƣớc ta có những đặc trƣng chủ yếu sau: a) Về chủ thể: Chủ thể của giám sát xã hội là những cá nhân, tổ chức không mang quyền lực nhà nƣớc. Đó là công dân và các tổ chức, tập thể do các công dân thành lập hoặc tham gia. Trong hệ thống chính trị nƣớc ta hiện nay, chủ thể của giám 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan